Bài văn mẫu lớp 9: Kể về món ăn làm em nhớ mãi là tài liệu thực sự hữu ích mà Mytour muốn chia sẻ đến các thầy cô và các bạn học sinh lớp 9.
Tài liệu tổng hợp 4 mẫu bài văn kể về món ăn gợi nhớ mãi. Đây là tài liệu giúp các bạn học sinh tham khảo cách viết văn từ trải nghiệm thực tế, củng cố vốn từ vựng và thu thập ý tưởng mới.
Kể về món ăn gợi nhớ mãi - Mẫu 1
Ở vùng Tây Nam Bộ có một làng nghề đặc biệt, đó là làng chuột Phù Dật. Phù Dật thuộc ấp Bình Chiến, xã Bình Long, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Làng chuột Phù Dật nằm bên bờ dòng kênh Phù Dật rộng lớn, gần quốc lộ 91 từ Châu Đốc đi qua Long Xuyên rồi chảy vào các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long.
Làng Phù Dật hiện có 664 hộ, trong đó có 300 hộ chuyên theo nghề săn bắt, mua bán chuột hoặc làm thịt chuột. Nhiều hộ gia đình đã giảm nghèo nhờ nghề này. Có không ít gia đình trở thành triệu phú, mua thêm đất, nuôi con đi học Cao đẳng, Đại học bằng tiền từ săn bắt chuột, buôn bán chuột.
'Vua chuột' của làng Phù Dật là anh Lê Duy Khánh và chị Thu Giang. Anh Khánh từng là lính trinh sát của Binh chủng Đặc công; chị Giang, 33 tuổi, đã có hơn 20 năm trong nghề mua bán chuột.
Mỗi ngày, làng Phù Dật thu hoạch, mua bán và giao hàng đến các thị trấn, các quán nhậu khoảng năm đến sáu tấn thịt chuột. Lông, da, đuôi, và cả ruột của 'cu tí' được các hộ nuôi cá bè bán hết.
Ngoài 'chuột trong' còn có 'chuột ngoài' được nhập về. Từ bến đò Trại Thum (Campuchia), mỗi ngày có vài chuyến xe chở khoảng 2 tấn chuột về Phù Dật. Thịt chuột tươi ướp đá từ Phù Dật được gửi đến các nhà hàng ở Thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu...
Người tham gia bữa tiệc cho biết thịt chuột ngon lành, thơm ngon, giòn ngon, ngọt béo, bổ dưỡng hơn cả những món ẩm thực xa hoa. Người cao tuổi sau khi thưởng thức thịt chuột thường tỏ ra sảng khoái, như được hồi sinh; các bà mẹ trẻ chỉ cần ăn vài đĩa thịt chuột đã có đủ sữa cho con bú, còn những người vừa mới xuất viện chỉ cần một ít cháo chuột sớm sẽ bình phục nhanh chóng.
Một đầu bếp hàng đầu của một nhà hàng nổi tiếng ở Vũng Tàu tự hào giới thiệu về các món đặc sản từ thịt chuột như chuột chiên, chuột xào, chuột bó giò, nướng chao, xào rau răm, bóp gỏi, chiên vàng nấu canh chua, rô ti nước dừa, hấp nước mắm, hấp nước ngọt, thịt chuột ninh hạt sen, nhồi sâm với thảo trùng... Các món thịt chuột ninh hạt sen, nhồi sâm với thảo trùng này độc đáo không kém. Ngay cả hoàng hậu Từ Hi cũng chưa từng thưởng thức; những quý ông có nhiều vợ, những bà góa trẻ tuổi, chỉ cần thử một lần cũng sẽ nhớ mãi.
Tại quán nhậu ở vùng Núi Cấm (An Giang) có món 'Trinh nữ kén chồng'. Giá cũng khá cao, lên tới 100 đô! Nguyên liệu chính là chuột cái chưa sinh đẻ, phải đủ 9 con (cửu mĩ nhân). Sau khi làm sạch, loại bỏ phần ruột, tứ chi, đuôi, giữ lại phần đầu, những 'nàng' này được ướp gia vị với hỗn hợp gồm: thịt ba chỉ, gan heo, đậu xanh không bóc vỏ, nấm mèo... Tất cả được nhồi vào bụng của 'nàng' rồi khâu kín lại. Chuột được chiên vàng, sau đó đặt vào nồi đất, đổ nước dừa tươi đến mức ngang với thịt chuột, bịt kín bằng lá chuối tơ, đậy vung lại để ninh. Món chuột 'Trinh nữ kén chồng' có hương vị cực kì hấp dẫn: thơm, ngọt, béo... Thực khách cầm chuột ngang và ăn nhỏ nhẹ, kèm theo rau răm và rượu 'thiên điệp anh túc noãn kì tửu', sẽ mãi mãi không quên.
Một nhà buôn trên kênh Vĩnh Tế kể lại một câu chuyện thú vị: 'Một quan tham có nhiều tài sản trên đất liền, tiền gửi ngân hàng Thụy Sĩ, biệt thự ở Anh và nhiều tình nhân! Hắn bị sứ giả của Diêm Vương bắt và đưa xuống ngục Cửu U. Khi hỏa thiêu, nước mỡ trong bụng hắn trào ra, lan tỏa mùi thơm. Quỷ sứ cứ đứng ngạc nhiên, hít thở liên tục. Một con quỷ sứ thét lên: 'Dừng lửa! Ngừng đốt!' Pháp quan hỏi: 'Trên đời này, mi ăn gì mà có nhiều mỡ, thịt thơm thế?'
- Thưa quan lớn! Con mê rượu 'thiên điệp anh túc noãn kì tửu' và món thịt chuột 'Trinh nữ kén chồng' quá! Thực sự đau lòng! Xin quan lớn tha thứ cho con!
Bọn quỷ sứ tỏ ra vui vẻ!
Bác Sáu Chì nở nụ cười, hỏi tôi:
- Cháu giáo đã đi nhà hàng Núi Cấm thưởng thức món đặc sản thịt chuột ' Trinh nữ kén chồng' và rượu ' Thiên điệp….' bao nhiêu lần rồi? Thật sự điều đó à?
- Bác Sáu ơi! Lương ba cọc ba đồng đấy. Vợ chả có việc làm, còn mẹ già và hai đứa con đang học trung học, xài tiền mà mua mấy món đặc sản đó làm gì!
- Tôi chỉ hỏi thôi! Nhưng từ vẻ ngoài hiền lành và dử dẫn của ông, tôi đã biết rồi. Bà già này đã bao nhiêu tuổi rồi?...
Dưới đây là những gì tôi nghe thấy, thấy trong tháng 7 năm 2009, khi tôi đến Châu Đốc và An Giang có chút việc phải làm.
Khi chia tay, bác Sáu Chì nắm lấy vai tôi và nhắc nhở: 'Mùa thi năm sau, nếu chú đến đây, tôi sẽ mời chú thưởng thức món thịt chuột ' Trinh nữ kén chồng' một bữa!...
Đột nhiên, tiếng hò vang lên trong khung cảnh yên bình của dòng kênh:
' Còn non, còn nước, còn dài,
Còn về vẫn nhớ người hôm nay'.
Tôi đứng trên bến, nhìn con thuyền bác Sàu Chì biến mất dần trên dòng kênh, lòng rối bời.
Núi Sam vờn mình trong ánh chiều tím, ẩn chứa lăng Thoại Ngọc Hầu và bà Đại phu nhân Vĩnh Tế.
Gợi lại hương vị đặc biệt - Mẫu 2
Chợ rau quả náo nhiệt, nhớ về giấm nuôi mẹ làm.
Mẹ thường mua chuối xiêm, để lên men làm giấm. Quá trình chuẩn bị cẩn thận, từ việc chọn lựa đến kỹ thuật trộn trấu, tạo nên hương vị đặc trưng cho mỗi hũ giấm.
Mẹ cắt chuối và ép vào hũ hỗn hợp nước dừa, rượu trắng, cẩn thận bọc kín để ủ thành giấm.
Sau vài tháng, mẹ mở hũ cho chúng tôi thấy con giấm, một điều kỳ diệu mà mẹ đã tạo ra từ sự chăm sóc tỉ mỉ.
Mẹ tính toán kỹ lưỡng mỗi hũ giấm, từ việc nấu giấm đường cho đến chọn lựa kiệu và củ cải để ngâm.
Giấm nuôi của mẹ không chỉ tiết kiệm mà còn tạo ra hương vị đặc biệt cho mỗi bữa ăn trong gia đình.
Gợi lại kí ức về món ăn đặc biệt - Mẫu 3
Hồi còn học ở miền Bắc, lần đầu tiên tôi thưởng thức cỗ chay tại một ngôi chùa nhỏ. Dù chỉ là những món đơn giản nhưng đủ để làm bữa ăn tinh tế và ấm cúng.
Dù ở vùng sơn cước và thời chiến, nhưng những bữa cỗ chay vẫn đủ sắc màu và hương vị của đất trời, làm cho những kí ức về quê hương càng thêm gần gũi.
Tuổi thơ của tôi trôi qua với những bữa chay đơn giản nhưng đầy ấm áp và ý nghĩa. Những món ăn dân dã đã làm nên hương vị quê nhà, nỗi nhớ da diết của mỗi người khi xa nhà.
Sau năm 1975, khi gia đình tôi trở về Huế, các món chay trở nên thân quen và thú vị hơn. Bí quyết là ở gia vị và cách chế biến tinh tế.
Bánh đa và bánh đúc là những đặc sản gắn liền với tuổi thơ của tôi. Mỗi miếng bánh đúc nóng hổi, thấm đượm hương vị quê hương và tình thân mẫu.
Mẹ tôi thường cho ăn bánh đúc kèm giá đỗ, rau kinh giới, và nước tương nguyên chất, một món ăn mát lạnh và thân quen từ quê hương.
Mẹ tôi làm nấu ăn giỏi là nhờ học từ trường Đồng Khánh và thuộc lòng nhiều bài thơ văn học cổ truyền, tạo ra những món ăn độc đáo và ngon miệng.
Nước tương Nam Đàn có hương vị đậm đà và bổ dưỡng hơn nhờ chất lượng hạt đậu nành, là gia vị không thể thiếu trong bữa ăn gia đình.
Bí quyết của tương là ở tay người làm, từ tâm thanh tịnh của người làm cho đến cách chế biến tinh tế, tạo ra những hương vị đặc biệt.
Tương Nam Đàn và tương Huế có hương vị khác nhau nhưng đều là những loại tương nổi tiếng và ngon nhất, là điểm nhấn không thể thiếu trong ẩm thực Việt Nam.
Một mùa hè năm 1992, bạn của tôi từ Sài Gòn gọi điện nhờ một việc quan trọng. Anh ấy đã hứa với mấy người bạn Pháp sẽ tổ chức một tour ra Huế trong ba ngày, mỗi ngày thăm ba địa điểm và thưởng thức ba bữa ăn, mỗi bữa có 5 món khác nhau. Mọi thứ từ việc đi chơi đến ăn uống đều phải độc đáo. Nhưng vào thời điểm đó, các dịch vụ du lịch và nhà hàng đặc sản vẫn mới mẻ, và việc đáp ứng yêu cầu này không hề dễ dàng.
Tôi đã phải thực hiện ba lần thiết kế tour và lên thực đơn mới trước khi có kết quả tạm chấp nhận được. Vào ngày thứ ba, ông cả đoàn của tôi đã đến cầu Đông Ba để thưởng thức cháo gạo với cá bống kho rim. Người không thích cháo thì ăn xôi, cũng với cá bống và tôm rim khô. Người ăn chay thì ăn xôi với muối mè, muối đậu phụng, và uống sữa đậu nành.
Sau khi tham quan Cồn Hến, Bao Vinh, chùa Thiên Mụ và điện Hòn Chén, buổi trưa của chúng tôi được thiết kế với bánh chưng Nhật Lệ kèm dưa món, bánh mỳ kẹp chả hoặc bơ đối với người ăn chay, cùng nem và tré lai trai trên thuyền. Tráng miệng được thưởng thức bằng Thanh Trà và quả khế ngọt mua từ vườn nhà người quen ở Nguyệt Biểu. Buổi tối, tour ba ngày kết thúc bằng bữa cơm chay. Đó thực sự là một bữa cơm chay đáng nhớ, như những lời cảm tưởng của các du khách Việt Kiều sau khi gặp gỡ, cảm ơn và chào tạm biệt sư cô trụ trì.
Bạn của tôi đã năn nỉ tôi đi xin Ni sư Minh Bổn ở chùa Hương Sơn giúp đỡ. Bữa cơm chay được thiết kế với một số món giả mặn như chả giò, chả quế nem rán, thịt gà xé, thịt heo quay, cá thu sốt cà chua. Các món chính khác đều là đồ chay, đặc biệt là đậu phụ chiên vàng, ớt đỏ, cơm trắng, rau xanh luộc chấm tương hồng... Mỗi món đều đậm đà và ngon miệng, không cần gia vị thêm. Nước chấm chính vẫn là tương và xì dầu, nhưng mâm cỗ có vẻ như hòa quyện với tinh thần của đất trời. Các sư cô dường như có sức mạnh ma thuật, biến mọi món ăn thành đặc sản, dù có thêm tôm, thịt, trứng, ốc, hến... thì vẫn chỉ ngon được đến thế. Tất nhiên, tôi phải nhắc anh bạn rằng, vì sự quý trọng nên chỉ có các cô mới làm giúp bữa tiệc chay này. Nhưng các ông không được uống bia, mà phải mang theo thùng nước khoáng và Coca Cola. Phải chuẩn bị một mâm trái cây đẹp mắt, trước khi dùng bữa phải dâng hương đánh lễ Phật.
Mọi người đều thấy thỏa mãn về bữa cơm và Ni sư Minh Bổn cũng rất vui vẻ. Sư đi quanh bàn giới thiệu về các món ăn và cách chế biến. Sư nói: Để nấu ăn ngon, người nấu phải có lòng chân thành muốn người thưởng thức được ngon miệng. Tấm lòng của người tu theo Phật chỉ mong được yên bình, hạnh phúc đến với mọi người, vì vậy các món ăn cũng phải thanh tao và mang tính thiện lành... Các du khách Việt Kiều nghe như nhấm nháp từng lời mà sư nói.
Ăn chay là một nét đặc trưng lâu đời của Huế, và nó đã trở thành một phần quan trọng của văn hóa ẩm thực ở đây nhờ vai trò 'thủ đô Phật giáo' của thành phố. Vua Nguyễn và hoàng tộc của họ không chỉ tôn trọng Phật giáo mà còn tuân thủ nguyên tắc ăn chay. Không chỉ các tu sĩ mà ngay cả trong các gia đình Phật tử, việc ăn chay cũng được coi là quan trọng. Điều này đã làm cho ẩm thực chay ở Huế trở nên đa dạng và sang trọng. Nếu bạn được mời thưởng thức một bữa cơm chay tại một phủ đệ hoặc một ngôi chùa ở Huế, đó là một sự quý mến đặc biệt từ chủ nhà.
Ni sư Minh Bổn đã tiễn đoàn khách đến tam quan và chúng tôi lên xe, quay về khách sạn qua đường Nam Giao. Các du khách Việt kiều cho biết họ cảm thấy như đã trải qua một trải nghiệm tâm linh, như đã trở về từ cõi Phật, như bước ra khỏi một câu chuyện cổ tích.
Kể về một món ăn đã ghi sâu trong ký ức - Mẫu 4
Làng Thổ Hà không chỉ thu hút du khách bằng những loại bánh đa thơm ngon mà còn bởi không khí ấm áp và nụ cười của người dân địa phương.
Trẻ con vui vẻ khoe những chiếc răng sún khi chụp ảnh, người bán hàng nước nhiệt tình mời khách ngồi dưới gốc đa, và nếu có người hỏi về nguồn gốc của những chiếc bánh đa trong tay, những người lớn trong làng sẽ mời họ vào nhà, cho họ xem cách làm bánh và thưởng thức bánh nướng trên lò than hồng rực.
Nằm sát bờ sông Cầu và được ba bên giáp sông, làng Thổ Hà (xã Vân Hà, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang) khác biệt với các làng khác ở vùng quê Bắc Bộ bởi không có ruộng. Người dân sinh sống ở đây chủ yếu bằng nghề thủ công. Trước đây, cùng với Bát Tràng, Phù Lãng, đây là một trung tâm gốm sành sầm uất của Việt Nam từ thế kỷ 14.
Nổi tiếng với các sản phẩm như chum, vại, chõ, tiểu sành mang màu sắc men nâu bóng, gốm Thổ Hà đã theo đuổi những nhà buôn đi qua sông Cầu đến mọi miền đất nước. Mặc dù chỉ còn lại dấu vết của một làng gốm cổ truyền ở Thổ Hà, nhưng những bức tường được xây từ các mảnh gốm vẫn tồn tại vững chãi sau hàng trăm năm.
Khi đặt chân đến làng Thổ Hà, bạn sẽ ngay lập tức gặp những người phụ nữ ngồi bán hàng mời khách ăn chè và mua bánh đa vừng tại chợ làng Thổ Hà. Bước vào sâu hơn trong làng, bạn sẽ ngạc nhiên bởi màu trắng sáng của những tấm phên tre phơi bánh đa nem, bánh đa vừng. Trong ánh nắng của mùa hè, các gia đình đều phơi bánh của mình. Bánh đa nem hiện nay được tráng bằng máy, mỏng và dẻo, được phơi trên những tấm phên hình chữ nhật dài. Sau khi khô, từ những tấm lớn này sẽ được cắt thành từng tấm tròn hoặc vuông, sau đó mới đóng gói. Trước chùa, sau những phên tre phơi bánh, trẻ em đang vui chơi, tự tin giới thiệu về nghề tráng bánh đa của gia đình mình với du khách lạ.
Làng Thổ Hà có rất nhiều nhà trẻ, và sân đền sâu trong làng cũng là nơi trông coi trẻ em. Trẻ con ở đây quen với việc làng có du khách, và họ thường tự tin tạo dáng trước ống kính. Một em nhỏ, khi được hỏi về món ăn ngon mà em đang ăn trên tay, không ngần ngại mời một du khách thưởng thức món 'đặc sản' ở đây: bánh đa nem xào bột ớt và chấm nước mắm cay ngọt.
Làng Thổ Hà có nhiều con ngõ hẹp, sâu, và nhà cửa san sát nhau. Có vẻ như những bức tường ở đây đã tồn tại hàng trăm năm. Để vào nhà, bạn phải gõ cửa thật to vì ở Thổ Hà, điều thú vị là mọi nhà đều... nuôi chó. Người làng thường chào đón du khách một cách thân thiện, và chó không hề hung dữ. Mặc dù là giờ nghỉ trưa của mọi người, nhưng khi bước vào một gia đình đang phơi nhiều bánh đa vừng trước cửa, tôi vẫn nhận được nụ cười niềm nở từ chủ nhà. Tay không ngừng xoay những chiếc bánh để đảm bảo chúng được phơi đều dưới ánh nắng, chú Trịnh Đắc Hạnh, người tráng bánh đời thứ 5 trong gia đình, chia sẻ với tôi cách để có những chiếc bánh đa ngon, khiến khách ăn một lần rồi nhớ mãi. Cần làm thế nào với gạo, lạc, vừng, và cách phơi nắng để bánh không bị cong, vỡ.
Bánh đa vừng Thổ Hà, từng được dân địa phương nơi đây ví vui “Kì phùng địch thủ” với bánh đa làng Kế, cũng ở Bắc Giang. Chú Hạnh cho tôi xem những lát lạc tươi vừa xắt mỏng và nói, bí quyết làm nên những chiếc bánh đa vừng Thổ Hà ăn một lần rồi nhớ mãi. Chiếc bánh đa ngon, phải tráng làm 2 lượt, phơi đến 3 nắng cho đủ độ giòn khi quạt. Cái khéo của người tráng bánh đa Thổ Hà là phải làm sao căn được thời tiết có âm u hay không để mà rắc thêm vài cọng dừa nạo vào mặt bánh, khi chiếc bánh khô, nướng trên than hồng, nghe vị ngọt và béo của cùi dừa tan trên lửa.
Không ngại kể với tôi những vất vả của nghề làm bánh đa truyền thống của gia đình, chú Hạnh nói, về chất lượng, bánh đa Thổ Hà không kém ở đâu, vì nguyên liệu là nguyên chất, không pha trộn. Rồi chỉ cho tôi không gian nhỏ bé của gia đình nhưng được tận dụng mọi diện tích để tráng bánh, phơi bánh, quạt bánh, chú cũng thật thà chia sẻ: “Nhiều khi cũng e ngại vấn đề vệ sinh, nhưng căn bản cũng vì làng mình chật quá…”
Rời Thổ Hà khi nắng vẫn chưa tắt, tôi vẫn nhớ nụ cười của chị hàng nước mời chúng tôi thử món bánh đa nem trộn bột ớt, nhớ cái niềm nở của cô chú làm bánh đa vừng hứa khi quay lại sẽ để dành hẳn cho những cái bánh đa vừng loại ngon, nhớ cả nụ cười đen nhánh của một cụ gặp ở đầu làng khi hỏi đường sang làng Vân, gặp cụ Tom, mua cho được lít rượu nếp cái hoa vàng…
Một ngôi làng sống bởi sự chân thành, mến khách ven sông Cầu thanh bình, êm ả. Ở Thổ Hà, hiểu rõ điều này, làm nên sức sống, tinh thần của nơi đây.