Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích chọn lựa 17 mẫu hay nhất của các bạn học sinh giỏi trong cả nước, giúp hiểu rõ tâm trạng đau khổ, bế tắc tới đột cùng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là đoạn trích thể hiện rõ nhất về tâm trạng của Kiều, mô tả chân thực cảm giác cô đơn, bơ vơ, tuyệt vọng khi chôn vùi tuổi thanh xuân ở lầu Ngưng Bích. Hãy đọc bài viết dưới đây để hiểu rõ hơn môn Văn 9.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Dàn ý phân tích tâm trạng Thúy Kiều (2 mẫu)
- Phân tích tâm trạng Thúy Kiều ngắn gọn
- Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích (12 mẫu)
- Phân tích tâm trạng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua 4 bức tranh: Buồn trông
- Cảm nhận tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
- Phân tích nghệ thuật miêu tả tâm trạng Thuý Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
- Đoạn văn phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong Kiều ở lầu Ngưng Bích
Dàn ý phân tích tâm trạng của Thúy Kiều
1. Khởi đầu:
- Giới thiệu về đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'.
- Giới thiệu về tâm trạng của Thúy Kiều.
2. Nội dung chính:
a) Nỗi cô đơn, buồn bã:
- 'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân': Kiều bị Tú Bà giam lỏng trong lầu Ngưng Bích.
- Không gian:
- 'Non xa' - 'Trăng gần': nghệ thuật đối.
- 'Cát vàng cồn nọ' - 'Bụi hồng dặm kia': nghệ thuật đảo ngữ. Đây vừa là cảnh thật, vừa là cảnh ước lệ cho không gian mênh mông rộng lớn. Cảnh vật trong không gian mênh mông nhưng lại xa cách nhau thể hiện nỗi cô đơn của Kiều.
=> Cảnh đẹp nhưng không gian bao la, rộng lớn, vắng vẻ như 'Non xa' - 'Trăng gần', 'Cát vàng cồn nọ' - 'Bụi hồng dặm kia'.
- Thời gian: 'Mây sớm, đèn khuya' => Vòng tuần hoàn khép kín.
- Tâm trạng: 'Bẽ bàng', 'Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng'.
=> Kiều cảm thấy chán nản, buồn bã, và cô đơn giữa những ngày dài và tháng rộng, không có ai bên cạnh.
b) Nỗi nhớ về Kim Trọng:
- 'Tưởng người dưới ánh trăng đồng': Nhớ nhung về những đêm thề nguyền, hẹn ước giữa Kiều và Kim Trọng trong quá khứ.
- 'Rày trông mai chờ': Kiều tưởng như Kim Trọng vẫn đang chờ đợi tin tức từ mình.
- 'Bơ vơ': Hoàn cảnh đơn độc của Kiều.
- 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai': Tâm trạng tương phản của Kiều khi tình yêu với Kim Trọng không thể giữ vững được nữa.
=> Kiều cảm thấy rất nhớ thương và đau đớn khi nhớ về Kim Trọng.
c) Nỗi nhớ về cha mẹ:
- 'Xót người tựa cửa hôm mai: Thương cha mẹ ở nhà ngóng trông tin tức của Kiều.
- 'Quạt nồng ấp lạnh', 'Sân Lai': Dẫn từ điển tích, điển cố -> Lo lắng, không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không.
- 'Gốc tử': Nỗi nhớ mong cha mẹ đã già ở nhà.
=> Kiều nhớ thương và lo lắng cho cha mẹ ở nhà không có ai chăm sóc.
d) Tâm trạng của Kiều:
- Điệp từ 'buồn trông' thể hiện tâm trạng buồn tủi, 'người buồn cảnh có vui đâu bao giờ của Kiều'.
- Cặp lục bát thứ nhất: Nỗi nhớ nhà, cô đơn khi ở giữa không gian mênh mông rộng lớn.
- Cặp lục bát thứ hai: Buồn cho số phận trôi nổi, bơ vơ vô định của mình.
- Cặp lục bát thứ ba: Nỗi tuyệt vọng, cô đơn, chán chường khi bị giam giữ ở lầu Ngưng Bích.
- Cặp lục bát cuối cùng: Dự cảm không lành về tương lai đầy bão tố.
e) Nghệ thuật:
- Mô tả cảnh ngụ tình tinh tế và hoàn hảo.
- Sử dụng đảo ngữ, đối, điệp từ, từ láy.
- Chấp nhận nhiều điển tích, điển cố.
- Tạo ra nhịp thơ linh hoạt, thay đổi mạch lạc.
3. Kết bài:
- Tóm tắt lại tâm trạng của Kiều trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều ngắn gọn
Truyện Kiều là một tác phẩm văn học vĩ đại của Việt Nam. Nhà thơ lớn Nguyễn Du đã sử dụng khéo léo tài năng của mình để tạo ra những hình tượng nghệ thuật độc đáo, từ những câu thơ đơn giản nhưng đầy ý nghĩa, vừa gần gũi vừa trang trọng. Trong số đó, điều đáng chú ý nhất chính là cách ông miêu tả nội tâm, tâm lí của nhân vật, đặc biệt là Thúy Kiều trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'.
Bắt đầu với sáu câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể cảm nhận được nỗi cô đơn, bất hạnh và tội lỗi của Kiều:
'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân,
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung.
Bốn bề bát ngát xa trông,
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.'
Câu đầu tiên đã hé lộ hoàn cảnh của Kiều. Mặc dù Tú Bà đã cố gắng dỗ dành với những lời ngon ngọt nhưng Thúy Kiều vẫn không chấp nhận tiếp khách. Vì thế, bà đã giam lỏng nàng trong lầu Ngưng Bích, hy vọng nàng sẽ thay đổi ý kiến. Mỗi ngày, nàng đứng trên cao ngắm nhìn cảnh vật xung quanh như 'non xa', 'trăng gần', 'cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia'. Đây không chỉ là những cảnh thiên nhiên đẹp mắt mà còn là biểu tượng cho không gian mênh mông, không rõ ràng trước mắt nhân vật. Sử dụng nghệ thuật đối, đảo ngữ giúp ta cảm nhận được sự xa cách, vắng vẻ. Thúy Kiều đáng thương khi phải đối mặt với nỗi cô đơn trong bức tranh rộng lớn và thời gian khép kín 'mây sớm, đèn khuya'. Cảm giác như nàng sẽ phải ở lại đây mãi mãi. Điều này khiến nàng càng thêm chán nản, buồn tủi giữa những ngày dài và tháng rộng, một mình giữa những cảnh vật xa xôi không có ai để chia sẻ.
Vì vậy, nàng bắt đầu nhớ về những người thân yêu để giảm bớt nỗi cô đơn. Tuy nhiên, mỗi khi nhớ lại, nàng càng cảm thấy đau lòng, xót xa hơn:
'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng,
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Chân trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.'
Thúy Kiều nhớ lại Kim Trọng và những kỷ niệm đẹp đã qua, nhưng giờ đây mọi thứ đã thay đổi và nàng cảm thấy mất mát hơn. Nàng vẫn nhớ những lời thề nguyền cùng chén hẹn ước giữa họ, nhưng giờ đây đó chỉ là những hồi ức u tối. Bị giam cầm trong chốn lầu xanh, nàng không thể giữ được trái tim trong trắng như xưa. 'Tấm son gột rửa bao giờ cho phai' thể hiện nỗi đau và tủi nhục của Thúy Kiều khi nhận ra mọi thứ không còn như xưa.
'Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.'
Kiều nhớ về cha mẹ ở nhà, lo lắng vì không thể ở bên và chăm sóc họ. Bài thơ này thể hiện lòng hiếu thảo của nàng, lo lắng cho cha mẹ già yếu, không ai bên cạnh để chăm sóc họ trong những ngày nắng nóng và gió lạnh.
Những kỷ niệm và suy tư khiến nàng hiểu rõ hơn về nỗi cô đơn, buồn tủi trong cuộc sống hiện tại. Dù đã rời xa những người thân yêu nhưng nàng vẫn giữ trong lòng những tình cảm sâu nặng, khiến cho nỗi buồn của nàng lan tỏa khắp nơi.
'Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.'
Bút pháp của Nguyễn Du trong đoạn này đã tạo ra một bức tranh ngụ tình sâu sắc. Thúy Kiều cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng và bất lực trước cuộc sống. Khung cảnh và từ ngữ trong bài thơ đã thể hiện được tâm trạng phong phú của nhân vật.
Trong phần này, Nguyễn Du sử dụng các biện pháp tu từ để mô tả khung cảnh tự nhiên và nội tâm của nhân vật, từ đó gợi lên những cảm xúc sâu sắc của Thúy Kiều.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 1
Trích đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thuộc tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du - một kiệt tác văn hóa mang ý nghĩa sâu sắc. Đây là điển hình cho nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tài hoa của Nguyễn Du.
Tác giả mô tả không gian và thời gian tại lầu Ngưng Bích, tạo ra cảnh tĩnh lặng, rộng lớn, làm nổi bật tâm trạng cô đơn và bi kịch của Thúy Kiều.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân…
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
“Khóa xuân” biểu hiện sự giam giữ của Thúy Kiều, cảnh ngộ đầy bi kịch. Miêu tả về không gian mênh mông, cảm giác lạc lõng của Kiều trước bát ngát, cát vàng, bụi hồng, tạo nên bức tranh hoang vắng, trống trải.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. “Bẽ bàng” là biểu hiện của tâm trạng lo âu và chua xót tột cùng của Kiều về số phận của mình. “Mây sớm đèn khuya” là sự kết nối của không gian và thời gian, như nỗi đau không lối thoát của Kiều.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng…
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Đây là nỗi nhớ thầm kín mà Kiều dành cho Kim Trọng, nàng cảm thấy tiếc nuối và hối tiếc vì đã không thể giữ trọn vẹn lời thề của mình. Sau khi nhớ về Kim Trọng, nàng lại nhớ về gia đình:
“Xót người tựa cửa hôm mai…
Sân lai gốc tử đã vừa người ôm”
Nghĩ về cha mẹ, Kiều không ngừng xót xa thương cảm, nàng đã không thể thực hiện hết trách nhiệm hiếu thuận, không thể ở bên canh tủy phụng dưỡng cho cha mẹ. Nàng nhớ người yêu xưa, nhớ cha mẹ sau cũng là điều dễ đồng cảm, bởi nàng đã vỡ lời thề với Kim Trọng, làm tổn thương chàng và tự trách mình. Còn với cha mẹ, nàng đã cố gắng thể hiện hiếu thuận, hơn nữa còn có em trai và Thúy Vân chăm sóc. Đặc biệt, qua tám câu thơ cuối, tâm trạng buồn đau của Thúy Kiều được diễn tả đa dạng:
“Buồn trông ngọn nước mới sa…
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Bốn cặp câu thơ lục bát với điệp từ “buồn trông” ở mỗi cặp câu không chỉ mô tả cảnh vật mà còn thể hiện rõ tâm trạng sâu sắc của Thúy Kiều. Nỗi đau buồn, nỗi xót xa ngày càng trở nên chân thực và cảm xúc, khiến nàng phải đối mặt với những dự cảm không lành về cuộc sống bi thương.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh tâm trạng chân thật, thể hiện một Thúy Kiều đầy bi kịch và bị số phận đẩy vào hoàn cảnh khó khăn. Qua tâm trạng này, độc giả có thể cảm nhận được cuộc đời đầy sóng gió và nỗi đau khổ của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều - Mẫu 2
Trong văn học trung đại Việt Nam, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du được coi là một kiệt tác nổi bật và độc đáo. Giá trị của tác phẩm không chỉ nằm ở nội dung hấp dẫn mà còn ở các kỹ thuật nghệ thuật tinh tế, đặc biệt là khả năng miêu tả tâm lí nhân vật. “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một phần trong tác phẩm thể hiện rõ bản lĩnh miêu tả tâm trạng nhân vật của Nguyễn Du. Trong đoạn này, chúng ta thấy được tâm trạng buồn thảm, nỗi nhớ đau đớn và dự cảm khó lường của Thúy Kiều khi bị tỏ ra cô đơn và lạc lõng tại lầu Ngưng Bích.
Trong sáu câu thơ đầu tiên, tâm trạng của Thúy Kiều được làm nổi bật với sự chán ngán, bơ vơ, lạc lõng và buồn tủi qua khung cảnh lầu Ngưng Bích. Đó là không gian chơi vơi giữa trời nước, núi non: 'Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung' và Kiều chỉ nhìn thấy được 'Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia' với những 'cồn cát vàng'như đang chuyển động lượn sóng và bụi hồng vướng trải trên hàng dặm xa xăm. Tất cả đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên được phóng chiếu ở cả chiều cao và chiều rộng, gợi ra sự mênh mang, hoang vắng và đầy rợn ngợp nhưng lại bị bó gọn trong khoảng thời gian 'mây sớm, đèn khuya' tuần hoàn, khép kín; làm nổi bật hơn nữa tâm trạng 'bẽ bàng' của nhân vật trữ tình khi bị giam lỏng trong vòng luẩn quẩn đầy tù túng. Khung cảnh đó như chia cắt và xoáy sâu hơn nữa vào bi kịch của Thúy Kiều: 'Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng' và khơi gợi nỗi nhớ về những ngày đã qua.
Ngòi bút tinh tế của tác giả Nguyễn Du tiếp tục lách sâu vào dòng tâm trạng của nhân vật khi miêu tả nỗi nhớ của Thúy Kiều. Trước hết, nàng nhớ về hình bóng chàng Kim và đêm thề nguyền nguyện ước giữa hai người:
'Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ'
Tình yêu đối với chàng Kim trở thành nỗi day dứt mạnh mẽ nhất trong tâm trạng của Thúy Kiều, bởi 'Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai', và nàng đã chọn cách đoạn tình để làm trọn đạo hiếu. Sau đó nàng nhớ về cha mẹ mình:
'Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.'
Là con hiếu hạnh, Kiều vẫn gìn giữ nỗi nhớ cha mẹ dù đã cống hiến bản thân để chuộc mạng cha. Tác giả tinh tế sử dụng điển cố điển tích để thể hiện lòng hiếu thảo của Kiều. Đặc biệt, việc đặt tình yêu Kim Trọng trước lòng hiếu cha mẹ thể hiện sự tinh tế trong miêu tả tâm lí nhân vật của Nguyễn Du.
Sau khi nhớ về quá khứ, tình yêu và gia đình, Kiều chìm trong nỗi buồn, cô đơn và lo sợ về tương lai. Bút pháp miêu tả cảnh ngụ tình diễn đạt rõ tâm trạng sầu buồn của nhân vật:
“Buồn trông ngọn nước mới sa…
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Tám câu thơ này tuyệt vời trong việc diễn đạt tâm trạng của Kiều qua bức tranh thiên nhiên u tối. Các cặp câu 'Buồn trông' chứa đựng những ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc, thể hiện niềm hy vọng mong manh và sự mơ hồ, hoài nghi về tương lai.
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Tiếng sóng ầm ầm như gào thét, kết hợp với biện pháp đảo ngữ, thể hiện sự dữ dội của biển xa. Thúy Kiều cảm thấy bất an trước cuộc đời đầy bất trắc. Bức tranh thiên nhiên mênh mông và dữ dội nhấn mạnh cung bậc cảm xúc trong tâm trạng của Kiều.
Thúy Kiều là tấm gương oan khổ, số phận bi kịch trong xã hội phong kiến. Tác giả với bút pháp tả cảnh ngụ tình và biện pháp nghệ thuật đặc sắc đã vẽ nên hình ảnh sâu sắc về nội tâm nhân vật.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều - Mẫu 3
Đoạn thơ về tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là tuyệt vời trong nghệ thuật tả cảnh và tả tình. Cảm xúc buồn của Kiều được thể hiện rõ qua bốn bức tranh cuối cùng.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
..........
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.'
Tám câu thơ này thực sự là tả tình, không chỉ là tả cảnh nhưng mang đầy nội tâm.
Bốn bức tranh đều bắt đầu bằng 'buồn trông', thể hiện sự buồn trong lòng Kiều khi nhìn cảnh và cảm thấy buồn. Nỗi buồn của Kiều lớn và kéo dài suốt cuộc đời.
Bây giờ mới thực sự buồn khi Kiều nhớ về Kim Trọng, cha mẹ, và cảm thấy cô đơn trên lầu Ngưng Bích. Nỗi buồn từ lòng Kiều ngày càng sâu sắc.
Kiều đang trầm ngâm điều gì?
Đây là bức tranh đầu tiên:
'Buồn nhìn biển chiều hôm
Thuyền xa thoáng buồm bạc xa xa?'
Nhìn về 'biển chiều hôm' đầy mênh mông, nơi mặt trời dần tắt, chỉ còn ánh sáng cuối cùng. Thuyền xa xa thấy nhỏ bé trên biển vắng, cánh buồm chỉ thoáng chốc hiện ra và biến mất, gợi lên cảm giác buồn vắng.
Để quên đi một chút, Kiều nhìn sang hướng khác:
“Buồn trông hoa nước mới ra,
Hoa trôi man mác biết đi đâu?'
Nhìn ngọn nước mới từ thác cao rơi xuống, Kiều thấy sự tan tác và buồn bã của cuộc sống, giống như hoa trôi đi không biết đi đâu.
Lòng buồn, cảnh lại u tối. Hãy nhìn điều gì khác.
“Buồn trông cỏ xanh lúa lúa,
Chân mây mặt đất xanh biếc.'
Lại cảnh đồng cỏ trải dài vô tận, không gian hoang vu, chỉ có màu xanh tẻ của cỏ non lúa lúa. Nhìn thấy sự trống trải và đơn điệu, nhưng cỏ vẫn xanh mạnh mẽ. Từ 'lúa lúa' không chỉ thể hiện nỗi buồn bã, mà còn cho thấy cỏ đang dần mất đi sức sống. Không giống như cỏ xanh rợn chân trời trong mùa xuân sôi động, đây là đồng cỏ buồn tẻ cuối mùa, như lòng người thấp thỏm. Thế nhưng, màu xanh của cỏ kéo dài vô hạn, tạo thành một mảng xanh duy nhất với bầu trời.
“Cỏ xanh rợn chân trời... ”
Đây không phải là đồng cỏ đầy sức sống, mà là khung cảnh buồn u uất. Thế nhưng, màu xanh của cỏ kéo dài vô tận, hòa quyện với bầu trời, tạo thành một màu xanh duy nhất: 'xanh biếc'.
“Chân mây mặt đất xanh tươi'
Nếu như Kiều tìm thấy một chút an ủi ở đó, thì màu xanh ấy chưa chắc đã thật sự xanh, chỉ là một sắc xanh nhạt, xa xôi, gợi lên nỗi ngao ngán. Màu xanh này có lẽ là màu của tâm trạng được nhìn thấy qua đôi mắt ướt đẫm khổ đau.
Sau khi nhìn qua ba phương hướng khác nhau, Kiều chỉ còn một hướng cuối cùng. Có thể sẽ có sự thay đổi ở đó chăng?
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi'
Những cảnh buồn trước đây có vẻ nhẹ nhàng hơn so với cảnh này. Đây mới thực sự là cảnh buồn, với biển lớn đánh sâu vào đất liền, gió biển thổi mạnh tạo ra những sóng lớn, âm thanh của sóng vỗ ầm ầm, gây ra cảm giác dữ dội và bao vây nàng.
Trong ba bức tranh trước, người và ngoại cảnh còn tách biệt, chủ và khách phân rõ, nhưng ở đây, con người hòa nhập vào ngoại cảnh; nỗi buồn bao trùm con người, đạt đến đỉnh cao của cảm xúc. Lúc này, người sẵn lòng hòa mình vào cảnh vật, sẵn lòng làm bất cứ điều gì để thoát khỏi nỗi buồn đến cùng, thậm chí là chấp nhận tử vong. Tâm trạng này đã mở đường cho cuộc gặp gỡ của Kiều và Sở Khanh, và cuối cùng Kiều đã bị lừa dối.
Bốn bức tranh của Nguyễn Du không mới mẻ, nhưng cách ông diễn đạt chúng trong bối cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều là độc đáo. Ông tinh tế khi miêu tả cảnh vật và sâu sắc trong tình cảm con người, và điều đặc biệt: ông rất giỏi trong việc sử dụng ngôn ngữ.
....
Phân tích tâm trạng Kiều khi ở Lầu Ngưng Bích qua 4 bức tranh: Buồn trông
Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong thơ ca Việt Nam trung đại rất tinh tế. Nguyễn Du là bậc thầy miêu tả tâm lý nhân vật qua phong cảnh đầy cảm xúc. 'Truyện Kiều' của ông có nhiều đoạn thơ xuất sắc, đặc biệt là đoạn bắt đầu bằng 'buồn trông', tả tâm trạng Kiều tại Lầu Ngưng Bích.
'Buồn ngắm cửa bể chiều hôm
Thuyền xa thoáng cánh buồm bay bay
Buồn ngắm ngọn nước mới trôi
Hoa trôi man mác chốn vắng xa xôi
Buồn ngắm cỏ nội ủ ê
Chân mây mặt đất một màu xanh biếc
Buồn ngắm gió cuốn mặt đất duềnh lên
Ầm ầm tiếng sóng vang vọng quanh chiếc ghế ngồi.'
Kiều từng là một cô gái xinh đẹp, tài năng và rất hiếu thảo. Sinh ra trong một gia đình trung lưu trong xã hội phong kiến, Kiều sống trong bầu không khí gia đình ấm cúng bên cha mẹ và hai em, được yêu thương và hạnh phúc. Nhưng xã hội đầy hiểm ác đã phá hủy mái ấm của gia đình chỉ bằng một lời vu khống từ kẻ thù. Kiều, với tình hiếu kỳ thực, đã bán mình để chuộc cha và rơi vào cuộc sống đen tối. Tâm trạng đau khổ của Kiều trong những ngày đơn độc tại lầu Ngưng Bích đã được Nguyễn Du miêu tả một cách sâu sắc và cảm động.
Khai mạc cho bức tranh tứ bình, tác giả vẽ lên cảnh vật:
Buồn ngắm cửa bể chiều hôm
Thuyền xa thoáng cánh buồm bay bay
Đó là một cảnh biển mênh mông 'cửa bể' trong buổi chiều buồn, thể hiện nỗi lòng hoang mang của người con gái xa quê hương. Trong bức tranh, có một con thuyền đang dần xa dần cuối chân trời. Cách tả cảnh vật trong bài thơ thật tuyệt vời, với sự mạnh mẽ của biển cả và những con sóng. Nhưng ẩn sau đó là tâm hồn trăn trở của Kiều, nhìn theo cánh buồm thoáng xa. Buồm đang đi về đâu, liệu có về quê hương xa xăm? Bởi 'xót lòng tựa cửa hôm mai...'. Thuyền xa phía cửa bể mang đầy tình cảm của Kiều. Câu thơ lục bát sâu lắng và giàu cảm xúc qua từ ngữ dân dã như 'cửa bể', 'thoáng' khiến người đọc nhớ đến bài thơ 'Tuyệt cú' của Đỗ Phủ: 'Muôn dặm thuyền Ngô cửa rập rình'. Khi viết bài thơ 'Tuyệt cú', Đỗ Phủ đang lưu lạc xa quê hương, nhớ về quê nhà trong lòng, và ông đã trao nỗi niềm ấy qua bóng thuyền rồi sẽ đi xa.
Nếu ánh mắt ban đầu của Kiều hướng ra xa biển khơi, với nỗi nhớ quê hương dâng trào như sóng biển, gửi trọn tình yêu theo cánh buồm thoáng xa, thì bức tranh thứ hai, Nguyễn Du cho nhân vật nhìn nhận phong cảnh ở gần hơn:
Buồn nhìn ngọn nước mới trôi
Hoa lững thững biết đi về đâu
Cái nhìn buồn của Kiều đã phát hiện ra vài bông hoa dập dềnh trôi trên sóng. Cảnh buồn chấm đầy tâm trạng con người. Với câu hỏi nhẹ nhàng 'biết đi về đâu?', ta cảm nhận được nỗi đau thương của người con gái. Từ lâu, trong văn chương cổ, hình ảnh hoa trôi đã trở thành biểu tượng cho số phận lênh đênh, lạc lõng của người phụ nữ, đáng thương. Bức tranh ngoại cảnh cũng là tâm cảnh, khiến nhân vật thêm chua xót cho đời mình.
Rồi phóng ánh mắt về phía khác, không còn là mặt biển, nàng Kiều nhìn thấy hình ảnh:
Buồn ngắm cỏ xanh lụa lùng
Chân mây mặt đất một màu xanh ngắt.
Câu thơ lục bát đầy u sầu, với cách sử dụng từ ngữ 'rầu rầu' và 'xanh xanh' rất tinh tế, vừa mô tả được cảnh vật vừa thể hiện được tâm trạng của con người. Sắc thái 'rầu rầu' của cỏ gợi lên sự úa tàn, không sức sống, trái ngược với màu 'cỏ non xanh tận chân trời' mà Kiều từng chiêm ngưỡng trong tiết thanh minh, thuở đời nàng còn bình yên. Điều này cũng là biểu tượng cho số phận của nàng. Nội cỏ hôm nay trước lầu Ngưng Bích hiện lên một màu xanh xanh mờ mịt, không có hướng đi, không có con đường để bước đi. Đó chính là tâm trạng bẽ bàng, đau đớn của Kiều, khi nghĩ về số phận khốn khó của mình, chắc chắn là nỗi đoạn trường còn chờ đợi ở nơi nào phía trước. Mỗi khía cạnh lo âu, sợ hãi được nhà thơ thể hiện qua từng câu chữ, khiến người đọc càng thêm cảm thông và xót xa cho Kiều.
Bức tranh thứ tư không được Nguyễn Du miêu tả nhiều về màu sắc và hình ảnh, mà nhà thơ đã mô tả cảnh vật bằng âm thanh đe dọa của sóng gió:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Những nét êm đềm, thi vị của cảnh biển chiều hôm, ngọn nước- đóa hoa hay nội cỏ đã được thay đổi bằng sắc thái khác của cảnh vật. Đó là cơn gió đang kéo đến, cuốn mạnh mẽ trên mặt biển. Có thể buổi chiều tà buông xuống, khiến sóng gió mạnh hơn, phong cảnh trở nên u ám, và lầu Ngưng Bích trơ vơ giữa bối cảnh đó khiến người con gái cảm thấy cô đơn và lo lắng hơn nhiều. Từ ngữ 'ầm ầm' gợi lên âm thanh hung dữ của sóng gió, không còn xa lạ mà ngay bên cạnh ghế ngồi của Kiều. Có lẽ đó không chỉ là sóng gió tự nhiên mà còn là cảm giác của Kiều về sóng gió cuộc đời đang bao quanh nàng đầy đe dọa.
Bức tranh tứ bình cảnh vật thực ra là bức tranh tứ bình về tâm trạng, đã thể hiện rõ tài năng của đại thi hào Nguyễn Du. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đã đạt đến tài nghệ cao trong việc miêu tả những khía cạnh tâm lý nhân vật. Mỗi từ ngữ, hình ảnh không chỉ cổ điển mà còn rất thật trong biểu hiện mạch cảm xúc thơ. Điểm nhấn từ 'Buồn trông' ở đầu mỗi câu lục bát tạo ra nhịp điệu buồn bã, dồn dập như nhịp sóng. Điều này giúp người đọc hiểu rõ hơn về bức tranh trước lầu Ngưng Bích qua góc nhìn u sầu, lo lắng của Kiều, người phụ nữ đáng thương.
Không nói linh tinh, “Truyện Kiều” chính là kiệt tác của văn học dân tộc, và không ngẫu nhiên đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã chạm lòng người đọc qua nhiều thế hệ. Đây là nơi chứng kiến ngòi bút đậm tình yêu thương con người của Nguyễn Du, đồng thời khiến ta đau lòng cho Kiều, đóa sen nhiều màu sắc bị chà đạp trong bùn lầy của xã hội phong kiến đen tối. Nỗi đau của Kiều sẽ mãi là lời kêu oan của xã hội, khuyên chúng ta trân trọng cuộc sống bình yên, hạnh phúc ngày nay.
Cảm nhận tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” thể hiện rõ tài năng miêu tả tâm lý nhân vật của Nguyễn Du. Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều khi ở đây được thể hiện chi tiết, cho ta thấy nỗi đau, khổ sở của cô trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Đoạn trích từ đầu tác phẩm. Sau khi bị Mã Giám Sinh lừa dối, bị Tú Bà mắng nhiếc, Kiều từ chối tiếp khách làng chơi, từ chối sống trong lầu xanh. Đau khổ và tủi nhục, cô suy nghĩ đến tự tử. Tú Bà dùng lời khuyên và dụ dỗ Kiều. Mẹ giả vờ chăm sóc thuốc, hứa sẽ gả cô cho người tốt. Tú Bà đưa Kiều sống ở lầu Ngưng Bích, thực chất là giam cô để thực hiện âm mưu đê tiện, tàn ác hơn.
Từ cảnh đơn độc, tội nghiệp của Kiều đến ký ức về Kim Trọng và cha mẹ và kết thúc trong nỗi hoang mang, hãi hùng của tâm trạng. Sự biến đổi tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích có thể diễn ra nhanh nhưng hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh và tính cách của cô, một người con hiếu thảo, sống trách nhiệm, đam mê, trung thành trong tình yêu.
Lầu Ngưng Bích nằm trên sườn núi chênh vênh, nơi có cảnh đẹp mênh mông và thơ mộng, là điểm dừng chân tuyệt vời cho những người muốn thưởng ngoạn vẻ đẹp tự nhiên. Không khí ở đây mê hoặc với sương khói và non cao vọng về biển cả, tạo nên một sự hòa quyện tuyệt vời, mang lại sự an nhiên và yên bình. Thế nhưng, với Thúy Kiều, dường như cảnh đẹp đó không còn ý nghĩa, bởi nàng đang đối mặt với những khó khăn và mâu thuẫn, không thể tìm thấy sự an ủi dù có ngồi ngắm cảnh bao nhiêu.
Ngưng Bích, nơi giữa không trung khép kín bầu trời xanh. Khóa xuân chỉ sự bị kìm kẹp, như lời cấm cung (phụ nữ quý tộc ngày xưa không được rời xa phòng riêng). Nguyễn Du sử dụng từ khóa xuân để gợi lên cảnh Kiều như một tù nhân đang bị giam lỏng, trơ trọi trong không gian rộng lớn, hoang vắng:
“Đằng trước lầu Ngưng Bích, khóa xuân
Cảnh non xa, tấm trăng gần kề
Bốn bề đồng thời với cảnh sắc mênh mông
Cát vàng mờ xa, bụi hồng dặm kia”.
Hình ảnh “non xa”, “trăng gần” tạo ra bức tranh của lầu Ngưng Bích cô đơn, trơ trọi giữa không gian bao la của thiên nhiên. Nhìn từ lầu cao, chỉ thấy những ngọn núi xa xa, những bãi cát bụi mờ mịt. Lầu trơ trọi ấy như giam cầm một thân phận bơ vơ, không có bóng dáng quen thuộc, không có sự hiện diện. Hình ảnh “non xa”, “trăng gần”, “cát vàng”, “bụi hồng” có thể là sự thật mà cũng có thể là ước lệ để thể hiện cảm xúc cô đơn của Kiều.
Ở lầu Ngưng Bích, nơi đẹp mà không may, Thúy Kiều không ngừng đối mặt với hoàn cảnh của mình, luôn suy nghĩ và lo âu không ngừng:
“Mây sớm chiều tối, đèn sáng nhạt nhòa
Tình yêu và cảnh đẹp, nhưng lòng đã chia đôi”.
Cụm từ “mây sớm đèn khuya” gợi lên khung cảnh của thời gian, kín đáo và khép kín. Tất cả như làm cho Kiều cảm thấy bẽ bàng, chán chường, buồn rầu cả vào buổi sáng và buổi tối, ngày và đêm, Kiều “thui thủi quê người một mình” và đối mặt với những nỗi niềm chua xót và đau thương, khiến cho tấm lòng Kiều như bị chia đôi “Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”. Cho nên, dù có cảnh đẹp đến đâu, tâm trạng của Kiều cũng không thể tươi vui. Nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du đã thật sự tinh tế. Cảnh làm bối cảnh cho tình, tả cảnh để diễn tả tình. Cảnh đẹp và tình cũng đều đẹp. Hai yếu tố này vừa song song lại vừa hòa quyện vào nhau, tạo nên bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích phức tạp và xao lãng.
Tám câu thơ tiếp theo thể hiện nỗi nhớ về Kim Trọng và cha mẹ của Kiều. Đó là nỗi nhớ lớn nhất và thường xuyên nhất trong tâm trí Thúy Kiều lúc này:
“Nhớ những lời hẹn thề dưới trăng chén đồng
Mong ngóng sương luống trải đêm ngày trông chờ
Một mình giữa bể bơ vơ
Tâm hồn vẫn gọi giọng phai sắc của tình yêu?”
Mối tình giữa Kim và Kiều là biểu tượng cho tình yêu vĩnh cửu. Hai người với đẳng cấp và tài năng độc đáo đã trở thành tượng đài, mẫu mực cho mối tình đôi lứa. Kiều như nhìn thấy lại những kỷ niệm thiêng liêng từ đêm hẹn nguyền thề ước “Nhớ những lời hẹn thề dưới trăng chén đồng”. Đêm đó dường như chỉ mới qua. Một lần nữa, nàng nhớ về Kim cũng là “Nhớ lời nguyện ước bên cạnh”. Kiều thương xót hình ảnh người yêu vẫn không biết nàng đã hy sinh, vẫn trông chờ hòai bản thân mình chốn Liêu Dương xa xôi.
Nàng chịu khó nhớ về người yêu với lòng đau đớn: “Tấm lòng vẫn còn son sắt, thủy chung, không biết bao giờ mới phai màu”. Có lẽ “tấm lòng” ấy chính là tình cảm kiên định của Kiều với Kim Trọng. Cũng có thể là Kiều đang trải qua sự nhục nhã khi tình cảm trái tim đã bị tổn thương, ảnh hưởng, không biết bao giờ mới được lành lại. Trong nỗi nhớ về Kim, Kiều còn cảm nhận được nỗi đau đớn khắc sâu trong lòng.
Dễ thấy, tình yêu giữa Kim và Kiều không phải vướng vào sự can thiệp của gia đình. Mặc dù không được sự ủng hộ, nhưng gia đình không tạo ra những rắc rối gây phiền muộn cho hai người yêu nhau. Do đó, sau khi nhớ về Kim Trọng, Thúy Kiều cũng nhớ đến cha mẹ và trách nhiệm của mình làm con:
“Xót lòng tựa cửa chờ mong
Người ấy đã có ai sưởi ấm?
Nơi xa mấy dặm nắng mưa?
Làm sao mà nỗi buồn dễ chịu”
Nàng cảm thấy xót xa khi tưởng tượng cha mẹ đợi mong nàng, từ sáng đến chiều. Nàng đau lòng và bất an vì không thể “sưởi ấm” cho cha mẹ, lo lắng không biết hai em trẻ có chăm sóc cha mẹ đúng cách hay không. Nàng cũng nghĩ đến quê nhà và sự thay đổi, cảm giác rằng ngày càng xa với gốc tổ, cha mẹ đã già yếu.
Cụm từ “cách mấy dặm nắng mưa” vừa cho thấy sự xa cách về thời gian và không gian, vừa thể hiện sức mạnh của thời tiết đối với môi trường, con người. Mỗi khi nhớ đến cha mẹ, Kiều cũng “nhớ đến lòng biết ơn sâu sắc” và luôn ân hận vì đã không làm tròn trách nhiệm con cái, không phụ trách đúng mức cha mẹ. Kiều đã bỏ quên bản thân, chỉ quan tâm và suy nghĩ về Kim Trọng và cha mẹ. Tấm lòng ấy thể hiện Kiều là người yêu trung thành, con hiếu thảo, luôn sống và tưởng nhớ về người khác, có lòng vị tha đáng quý trọng.
Theo cách diễn đạt, Kiều nghĩ về Kim Trọng trước, sau đó mới nhớ đến bản thân. Nhiều người cho rằng điều này không phù hợp với truyền thống, ngược lại với lễ giáo và văn hóa. Tuy nhiên, nếu nhìn kỹ, điều này lại khá hợp lý. Kiều đã hy sinh bản thân để cứu cha mẹ, là cách để báo hiếu và giảm bớt sự đau lòng. Còn với Kim Trọng, Kiều đã phụ lòng người vì lòng hiếu kính, nên nàng luôn cảm thấy bất an. Điều này là một nét đặc biệt, rất độc đáo của Nguyễn Du, phản ánh sâu sắc tâm lý con người.
Sau khi nhớ về người, Kiều lại tự nghĩ đến chính mình. Vai trò của nàng quá nhỏ bé, trong khi không gian quá rộng lớn, mênh mông. Cảnh vật ở lầu Ngưng Bích tuy đẹp đẽ, nhưng dưới ánh sáng của nỗi đau và nhớ nhung của cô gái trẻ, nó trở nên trống vắng, hoang hoải:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền nhỏ nhô lắc cánh buồm xa xa?
Buồn nhìn dòng nước chảy ra
Hoa bay mang theo mùi hương xa xưa?
Buồn nhìn cỏ bên đường dài dằng dặc
Chân trời trải một màu xanh xanh mịt mù
Buồn nhìn gió cuốn mặt nước bồng bềnh
Ồn ào tiếng sóng vỗ về khắp nơi”.
Đây là 8 câu thơ miêu tả thực cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Mỗi cảnh vật cũng là một biểu hiện của tâm trạng con người – mỗi biểu hiện lại đều kích thích những cảm xúc khác nhau của Kiều, với những nguyên nhân buồn khác nhau trong khi tâm trạng buồn đã đầy ắp, làm tình cảnh ngày một u ám hơn, nỗi buồn ấy càng ngày càng trầm trọng, mãnh liệt hơn.
Sử dụng ngôn ngữ ẩn dụ, điệp ngữ. Bốn bức tranh, bốn nỗi buồn được tác giả mô tả qua điệp từ “buồn trông” ở đầu mỗi câu, tượng trưng cho nỗi buồn trải dài ở mọi hướng, nhưng không gì thay đổi hiện thực, nhưng vẫn là chờ đợi một điều gì đó thay đổi. “Buồn trông” chứa đựng sự lo lắng, sự xa cách, sự huyền bí, và sự kinh hãi của một cô gái lạc bước trong thế giới ngang trái. Các từ ẩn dụ kết hợp với các từ tượng trưng tạo nên một âm điệu trầm buồn, phản ánh nỗi buồn ngày một lớn lên, dâng trào và vô vọng. Điệp ngữ là nền nhạc của đoạn thơ và cũng là nền nhạc của tâm trạng.
Biển mênh mông mở ra nỗi buồn. Chiều tà buông xuống, đánh thức những suy tư về sự trở về, hội ngộ. Cánh buồm xa xa, biểu tượng của niềm hy vọng và sự kết nối, nhưng vẫn quá xa:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền nhỏ nhòe cánh buồm xa xa”.
Một cánh buồm nhỏ xuất hiện xa xăm trên biển, là hình ảnh đậm nét của tâm trạng Kiều. Cánh buồm yếu ớt, lẻ loi giữa dòng nước bao la trong ánh hoàng hôn cuối cùng; cũng như Kiều, cô đơn giữa không gian vắng vẻ của hiện tại, nhìn về phương xa với nỗi nhớ thương về gia đình, quê hương. Con thuyền mờ mịt, vẫn lang thang trên sóng biển khi những chiếc thuyền khác đã cập bến, không biết bao giờ mới tìm được bến đỗ an lành; cũng như Kiều vẫn đang lang thang giữa cuộc đời, không biết khi nào mới được hòa mình vào tình thương, hồi hương với người thân yêu.
Trong bức tranh thứ hai, tầm nhìn gần hơn nhưng vẫn quá rộng lớn:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác không biết về đâu?”
Từ điều này, nỗi buồn trong nàng như một giai điệu buồn đầy biến động, khi nhìn thấy cánh hoa lênh đênh trên dòng nước không rõ đâu là điểm đến. “Trôi” chỉ sự di chuyển nhưng trong tình huống không tự quyết định, như cánh hoa trôi lạc bước giữa sóng nước như số phận của Kiều. Cánh hoa mảnh mai, mất hướng, trôi lênh đênh như thân phận mong manh của Kiều giữa cuộc đời không rõ đâu là điểm đến.
Không chốn nào để lòng nương tựa, nàng trở lại với cảnh vườn mong đợi chút ấm áp. Nhưng mà, càng tìm càng thấy vắng vẻ:
“Buồn trông ngọn cỏ héo úa,
Chân mây mặt đất một màu xanh tối”.
Cỏ héo úa, màu xanh tối, hai tông màu nhợt nhạt, tối tăm kéo dài từ chân mây đến đất đai. Có còn cái màu xanh tươi mát của cỏ vào ngày thanh minh như ngày xưa không? Màu xanh này gợi lên cho Kiều một cảm giác chán chường, tuyệt vọng khi cuộc sống trở nên trống rỗng và nhàm chán, không biết khi nào mới kết thúc. Màu xanh nhợt nhạt của cảnh vật là biểu tượng cho tương lai mù mịt và tuyệt vọng của Kiều. Kiều cảm thấy mất hướng và hoàn toàn bất lực. Đây là cảm xúc và tình huống của Thúy Kiều đáng thương.
Cuối cùng, mọi niềm tin bên ngoài đã mất, nàng quay về bên trong với nỗi hoang mang không tận:
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Dường như nỗi buồn ngày càng leo thang, càng dồn dập. Cơn gió cuốn mạnh khiến tiếng sóng vỗ đang ầm ầm quanh ghế Kiều ngồi. Âm thanh này phản ánh cuộc sống phong ba bão táp đã và đang đè nặng lên Kiều trong một xã hội bất công và cổ hủ. Kiều không chỉ buồn mà còn lo sợ, kinh hãi như rơi vào vực sâu một cách bất lực. Nỗi buồn đã đạt đến cực điểm, khiến Kiều hoàn toàn tuyệt vọng.
Mô tả từ xa đến gần, từ nhạt đến đậm, âm thanh từ yên bình đến dữ dội để thể hiện nỗi buồn sâu thẳm trong lòng Kiều. Hình ảnh về sự vô định, mong manh, chao đảo, nghiêng đổ dữ dội là biểu tượng cho tình trạng tuyệt vọng, yếu đuối nhất của Kiều.
Đoạn thơ này thành công trong việc miêu tả tâm trạng của Kiều ở lầu Ngưng Bích, là một ví dụ điển hình của cách thơ cổ điển tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp này để khắc họa tâm trạng của Kiều khi bị giam lỏng.
Những thăng trầm đầy gian nan, đầy máu và nước mắt đang chờ đợi Kiều. Đoạn thơ này chứa đựng nhiều cảm xúc như cô đơn, buồn thương, xót xa, lo sợ và lòng nhân đạo của nhà thơ, hiểu được nỗi đau của người thiếu nữ này.
Phân tích nghệ thuật tả tâm trạng Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích trong 'Truyện Kiều'
Có thể nói, điều đặc biệt về các nhân vật văn học là cách họ được miêu tả không chỉ bằng ngoại hình mà còn qua tâm trạng, tâm lí của họ. 'Truyện Kiều' thu hút người đọc suốt hơn hai thế kỷ không chỉ bởi nội dung độc đáo mà còn bởi cách tác giả diễn đạt tâm trạng nhân vật một cách tài tình. Bản miêu tả 'Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích' thể hiện sự khéo léo trong việc diễn tả tâm lý của nhân vật.
Lầu Ngưng Bích là nơi Thúy Kiều bị giam cầm, một mình giữa không gian rộng lớn, nàng cảm thấy cô đơn và buồn tủi:
'Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia'.
Kiều rơi vào hoàn cảnh đáng thương vì bị khóa kín tuổi thanh xuân, không được sống tự do như những người khác. Lầu Ngưng Bích trở thành nhà tù của nàng, là biểu tượng cho sự cô đơn và tuyệt vọng. Cảnh vật xung quanh nàng đều là những điều xa xôi, trống vắng, thể hiện nỗi cô đơn và khó khăn của Thúy Kiều trong tình thế bất hạnh.
Nỗi đau khổ hiện hữu khiến nàng mất đi niềm tin vào tương lai:
'Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi'.
'Buồn trông' là cảm giác đau buồn và tuyệt vọng. Thúy Kiều cảm thấy xấu hổ và buồn tủi khi phải đối mặt với sự thật rằng nàng đã bị đánh lừa và bị bán vào lầu xanh. Nàng cảm thấy không xứng đáng với tình yêu của Kim Trọng. Ngày qua ngày, nàng sống trong cảnh lặp lại không ngờ tới. Tâm trạng cô đơn và buồn tủi khiến nàng chia thành hai nửa: 'nửa tình' và 'nửa cảnh'. Mỗi cảnh vật xung quanh nàng đều gợi lên nỗi buồn và cô đơn của mình. Đó là sự tinh tế của Nguyễn Du khi viết:
'Buồn trông cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'.
Nỗi cô đơn và trống vắng hiện rõ qua suy nghĩ của Thúy Kiều về gia đình và người yêu:
'Dưới ánh trăng, tôi tưởng như ai đó đang cầm chén đồng
Sương khói dày đặc, những tia nắng rọi qua cây mai chờ đợi
Một góc trời xa xôi, hình như không gì nơi đây được mảnh đất son đóng bám
Bao giờ mới có thể giải phóng cho điều đó phai nhạt'.
Kiều vẫn giữ lửa tình đầu trong lòng bằng nỗi xót xa cháy bỏng. Chén rượu hợp với Kim Trọng và câu thề 'Trăm năm tấc chất lượng, vẫn không quên lời hứa' vẫn còn đậm sâu trong tâm trí và trái tim của nàng. Mặc dù đã có sự hứa hẹn và thề nguyện sống bên nhau trăm năm nhưng bây giờ Kiều đang phải chịu đựng sự cô đơn ở một nơi xa xôi trong khi Kim Trọng cũng không rõ về số phận của Kiều do anh phải về thăm quê nhà. Nàng ảo tưởng về việc người yêu đang nhớ về mình và gửi đi lòng thương nhớ. Nhớ về Kim Trọng bấy nhiêu thì nàng lại xấu hổ bấy nhiêu. Tình yêu của Thúy Kiều vẫn còn nguyên vẹn với Kim Trọng, dù đã trải qua nhiều khó khăn và thử thách. Nhưng nàng cũng đau khổ và tự trách bản thân khi nhận ra tình cảm của mình dành cho Kim Trọng đã mất đi sự trong trắng:
'Tiếc rằng, một đoá trà mi đã nở
Con ong đã tìm đường về tổ sau khi tìm được nguồn nước
Một trận mưa gió nặng nề
Không thương hỏi ngọc bên trời, không tiếc hỏi hương trên đất'.
Tình yêu và lòng trung thành như sắt đá đã bị thời gian làm mờ đi, liệu có thể làm mới được không? Chàng Kim có thể hiểu được nỗi đau của nàng không?
Là một người con hiếu thảo, Thúy Kiều không thể không nhớ về cha mẹ:
'Rưng rưng bên cửa chờ mai
Quạt nồng dịu lạnh cho người đâu giờ?
Sân Lai cách mấy mưa nắng
Có khi gốc cay vừa mới ôm người'.
Nỗi buồn của Kiều không chỉ về mình mà còn về cha mẹ, người bố mẹ luôn chờ đợi tin tức từ con gái. Nàng lo lắng cho tương lai khi cha mẹ già yếu không có ai chăm sóc. Nàng là người con hiếu thảo, làm điều đó để chăm sóc cha mẹ như quạt mát trong ngày hè và chăn ấm vào đêm để giữ ấm cho cha mẹ. Hiện tại, nàng đang xa cách xa xôi, không biết bao giờ mới được quay về bên cha mẹ và em nhỏ. Câu 'cách mấy mưa nắng' làm nổi bật sự xa cách về không gian và thời gian giữa Thúy Kiều và cha mẹ. Đó là khoảng cách khó khăn, khó vượt qua. Nàng tự hỏi không biết bao giờ mới có thể chăm sóc cho tuổi già của cha mẹ. Nàng nói lời với chính bản thân bằng tâm trạng buồn bã, đau khổ. Nguyễn Du đã diễn đạt tâm trạng của nhân vật rất rõ nét, dễ hiểu và đồng cảm.
Bút pháp tả cảnh ngụ tình được sử dụng một cách sâu sắc ở những dòng cuối của đoạn trích không chỉ tái hiện lời thề trăm năm bên Kim Trọng mà còn đưa bạn đọc vào thế giới tâm lý của nhân vật:
'Buồn nhìn cửa vắng ngóng ngày
Thuyền nhỏ vẫn thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn thấy dòng nước mênh mông mới trôi
Hoa nổi trôi biết đi đâu?
Buồn nhìn cỏ xanh héo úa
Chân mây mặt đất một màu xanh mất rồi
Buồn thấy gió đưa sóng xô đến đỉnh
Ầm ầm sóng vỗ quanh chiếc ghế ngồi'.
'Buồn nhìn' lặp lại ở đầu bốn cặp lục bát kèm theo câu hỏi tu từ đã tạo nên hình ảnh rõ ràng về tâm trạng buồn bã của Thúy Kiều, những nỗi lo sợ không biết chia sẻ cùng ai. Nỗi buồn này tích tụ thành một bài ca trong lòng người đọc. 'Chiều hôm' là thời gian nơi nỗi buồn trỗi dậy, càng buồn khi Thúy Kiều nhìn ra cửa bể - một không gian lớn mênh mông. Ở xa xa ngoài biển, cánh buồm nhỏ nhấp nhô, hoa nổi trôi lạc đàn giữa dòng nước không biết nơi đâu là bến đỗ khiến nàng nghĩ về số phận của mình. Cuộc đời nàng như cánh hoa mong manh trôi nổi không biết nơi đâu. Dòng nước xoáy và vũ trụ bao la tạo ra sự đối lập với cánh hoa mỏng manh là tượng trưng cho sự nhỏ bé của Kiều trước sự rộng lớn của lầu Ngưng Bích và trước những khó khăn của số phận. Nàng 'nhìn cỏ xanh' nhưng cỏ đã héo úa, tàn tạ. 'Héo úa' không chỉ màu sắc của cỏ mà còn là tâm trạng của người. Đó là nỗi buồn chán chường, tuyệt vọng trước thực tại. Màu xanh của 'chân mây mặt đất' không phải màu của sự sống mà nó là màu của tuyệt vọng, cảm giác hết hy vọng. Tiếng gió, tiếng sóng làm nổi lên nỗi lo lắng của Thúy Kiều trước những khó khăn sắp đến. Sóng biển vỗ 'ầm ầm' cũng giống như tiếng sóng trong lòng Kiều. Nàng lo lắng cho những biến cố sắp xảy ra trong cuộc đời mình. Các từ 'xa xa', 'mênh mông', 'mất rồi', 'xô đến đỉnh', 'quanh chiếc ghế ngồi' giúp nổi bật tâm trạng của Thúy Kiều đối mặt với không gian rộng lớn và suy ngẫm về thân phận của mình. Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ rất tinh tế kết hợp với biện pháp tu từ, ẩn dụ để khám phá tâm trạng của Thúy Kiều một cách chi tiết. Bốn cảnh vật là sự leo thang trong tâm trạng của Kiều từ buồn bã, cô đơn đến nỗi lo sợ, trăn trở. Nguyễn Du thực sự là một nhà văn tài năng khi miêu tả tâm trạng nhân vật Thúy Kiều đến mức độ đầy đủ như vậy.
'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là ví dụ xuất sắc của nghệ thuật miêu tả tâm trạng nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du. Đoạn này đã khơi gợi sự đồng cảm, xót thương từ độc giả qua các thế hệ và giữ nguyên giá trị của 'Truyện Kiều' qua nhiều thế hệ và ngôn ngữ.
Phân tích tâm trạng của Thúy Kiều trong 'Kiều ở lầu Ngưng Bích'
'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là một đoạn trích đặc biệt về nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong 'Truyện Kiều', thể hiện rõ tâm trạng cô đơn, lẻ loi của Kiều trong không gian khép kín và tuần hoàn của lầu Ngưng Bích.
...