Đây là một bài văn mẫu trong chương trình môn Ngữ Văn lớp 9, là tài liệu hữu ích, giúp các em có thêm nhiều ý tưởng, gợi ý cho việc hoàn thiện bài văn của mình. Mời các bạn cùng tham khảo và tải tài liệu tại đây.
Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng - Mẫu 1
Vùng U Minh là một địa điểm sình lầy, tràn ngập kênh rạch, rừng xanh tươi tốt bao phủ trên diện tích gần 2000 km2.
Rừng U Minh nằm ở phía Tây Nam, giáp với vịnh Thái Lan, trải dài từ sông Ong Đốc ở phía Nam (tỉnh Cà Mau) đến sông Cái Lớn ở phía Bắc (tỉnh Kiên Giang). Hai con sông Trèm Trẹm và Cái Tàu chia thành hai khu vực gần như bằng nhau: U Minh Thượng ở phía Bắc và U Minh Hạ ở phía Nam.
Tự nhiên ở U Minh rất hoang sơ và hùng vĩ. Trước năm 1945, hai chữ U Minh gợi lên sự xa xôi, kỳ bí, u ám và mênh mông. Nhà văn Sơn Nam trong cuốn 'Văn minh miệt Vườn' viết rằng: U Minh có nghĩa là tối tăm và rậm rạp, có lẽ do cây cối rậm rạp, nước ngập đầy, và đất thấp nên người xưa còn gọi là Láng Biển, Láng U Minh.
Bạn có thể đến U Minh bằng đường thủy hoặc đường bộ, nhưng đường thủy là phương tiện thuận tiện hơn. Đi thuyền máy từ Cà Mau theo sông Cái Tàu và sông Trèm Trẹm. Hoặc đi tàu thuyền từ Rạch Giá dọc theo bờ biển xuống.
Rừng ngập mặn ở Cà Mau là rừng đước, trong khi rừng ở U Minh là rừng tràm. Cây tràm cao từ 10-20m; từ xa nhìn thấy một đại ngàn xanh mượt của rừng tràm kết nối với bầu trời xanh rộng lớn. Cây tràm là loài gỗ quý của rừng U Minh. Ngoài ra còn có cây móp và dây choai. Dây choai mềm mại, dai và bền, được dùng để làm nguyên liệu thủ công mỹ nghệ.
Vào mùa hè, rừng tràm bắt đầu nở hoa trắng phau, tỏa hương thơm ngát. Hàng ngàn, hàng vạn đàn ong kéo đến hút mật hoa. Những người nuôi ong kéo nhau đến 'gác kèo' cho ong làm tổ. Mỗi tổ ong có thể cho vài lít mật; mỗi người 'gác kèo' có thể thu được hàng trăm lít mật ong sau mỗi mùa hoa. Mật ong rừng tràm U Minh có màu vàng óng, trong veo, không bị thay đổi màu sắc hay chất lượng sau thời gian, mang hương vị thơm ngọt đặc biệt. Rừng tràm U Minh cung cấp khoảng 50-60 tấn mật ong mỗi năm. Hoa tràm chứa 2% tinh dầu, một loại dược liệu quý hiếm.
Rừng U Minh là nơi sinh sống của muỗi mòng và các loài động vật hoang dã như heo rừng, khỉ, kì đà, rắn, trăn, cá sấu, cọp. Có một câu ca dao nói về U Minh như sau:
'U Minh, Rạch Giá, thị quán sơn trường, Dưới sông sấu lội, trên rừng cọp đua.'
Các kênh rạch ở U Minh rất phong phú về tôm cá. Rừng U Minh là một nơi sinh sống của rất nhiều loài chim, tạo thành một sân khấu chim khổng lồ. Tiếng chim râm ran khắp vùng rừng. Vào buổi chiều, những đàn chim che lấp bầu trời. Ban đêm, những loài chim gọi nhau để đi săn. Tiếng hót của chim, tiếng lá rơi, tiếng sóng vỗ trên sông Cái Tàu, sông Trèm Trẹm, và vịnh Thái Lan... tạo nên bản giao hưởng của rừng U Minh hàng ngàn năm qua.
Khi đến thăm sân chim U Minh, du khách sẽ ngạc nhiên và thích thú khi nhìn thấy những con ngỗng trời có đôi cánh vô cùng to lớn, nặng tới 7-8kg, đậu lên những cành cây cao, và những con giang sen cao lên trời, với kích thước và hình dáng độc đáo. Nhiều loài chim khác như cò, điên điển, cồng cộc, le le, ó biển,... tụ tập ở đây, đẻ trứng, nuôi con, tạo nên một bầu không khí sôi động và đông đúc cho cả nhà chim.
Các vỉa than bùn dày từ 2-5m là nguồn tài nguyên quý giá của rừng U Minh, có trữ lượng hàng tỉ tấn than bùn, góp phần làm giàu cho vùng đất nơi đây.
Sau ngày 30.4.1975, khu vực U Minh đã được đầu tư và khai phá. Giao thông thủy và đường bộ được mở rộng. Nhiều khu dân cư, làng mạc nối tiếp nhau dọc theo bờ kênh rạch và sông ngòi. Cảnh quan của vùng đất đã có những thay đổi to lớn.
Rừng U Minh là một vùng đất giàu có tiềm năng kỳ diệu, hứa hẹn nhiều điều tốt đẹp. U Minh đang chờ đón sự đóng góp của tuổi trẻ với tinh thần mạnh mẽ và khát vọng phát triển.
Thuyết minh về một vùng đất giàu tiềm năng - Mẫu 2
Vùng đất Yên Thành từ xưa đến nay được biết đến là nơi có nhiều danh thắng, cảnh đẹp. Những dãy núi và con sông đã tạo nên một vùng đất giàu truyền thống với nhiều câu chuyện hấp dẫn. Qua thời gian, miền đất này vẫn giữ lại những di sản cổ kính, làm say đắm lòng người khi đặt chân đến.
Khu du lịch tâm linh Rú Gám từ lâu đã nổi tiếng và trở thành biểu tượng của Yên Thành. Thời Tiền Lê, vùng đất này là nơi tập trung sinh sống của đông đảo dân cư. Lê Long Ngân, con thứ 8 của vua Lê Đại Hành đã chọn vùng đất phía Tây Rú Gám để thành lập lỵ sở Đông Thành... Rú Gám hiện nay có diện tích gần 150 ha thuộc rừng nguyên sinh được bảo tồn, với hệ thực vật phong phú, đa dạng và phân bố rõ rệt.
Trong không gian hùng vĩ, thơ mộng với sông Dinh uốn lượn quanh những ngọn đồi, chùa Gám (Chí Linh tự) hiện lên với kiến trúc cổ kính, điêu khắc tinh xảo. Hiện nay, chính quyền tỉnh đã cho phép khôi phục hoạt động Phật giáo tại chùa Gám và xây dựng thiền viện Trúc Lâm với quy mô lớn tại khu vực. Dự án có tổng diện tích quy hoạch xây dựng là 316,575 ha thuộc địa phận 2 xã Xuân Thành và Tăng Thành, bao gồm 5 khu vực chính: Khu di tích gốc tại chùa Chí Linh (Xuân Thành) thờ các vị thần bảo vệ quốc gia; thờ Phật và Chư vị Bồ tát; Khu tâm linh – lễ hội ở Rú Gám; Khu đền Bạch Y (xã Tăng Thành); Khu nghĩa trang và nhà thờ các anh hùng liệt sỹ.
Hàng năm, vào dịp Lễ hội đền – chùa Gám tổ chức từ ngày 14-16/2 (âm lịch) thu hút hàng vạn khách từ mọi nơi đến dự. Gần đây, vào tháng Tám, tổ chức Jica (Nhật Bản) đã có chuyến đi tới Yên Thành để khảo sát và đầu tư cho một số loại hình du lịch đặc trưng. Đoàn đã có dịp thưởng thức trích đoạn vở tuồng 'Trưng Trắc, Trưng Nhị' ngay tại sân chùa Gám, đồng thời đánh giá cao các diễn viên và vở tuồng được biểu diễn trong không gian cổ kính.
Yên Thành từ lâu đã được biết đến là một vùng đất cổ. Từ thời Tiền Lê, thời Lý, nhiều người di cư, khai hoang đến đây đã tạo nên nhiều làng xóm, nền văn minh phong phú. Đến thời Trần, đã hình thành những cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu. Xưa kia, Yên Thành còn là lỵ sở của đất Hoan Châu với nhiều nét văn hóa đặc sắc. Con cháu từ đời này sang đời khác đã kế thừa và lưu truyền những giá trị này qua nhiều thế hệ. Đặc biệt là việc thấy “vùng lúa nước đặc trưng” này, chúng ta có thể gặp cả một miền quê hát chèo ở xã Lăng Thành. Nơi đây, từ các cụ già đến các bạn trẻ đều có thể hát chèo và thể hiện rất nhuần nhuyễn, thấm đẫm nét văn hóa chèo trên đất Nghệ.
Ngoài ra, nhiều lễ hội truyền thống có quy mô cấp huyện đã được phục hồi như Lễ hội đền Phúc Hoàng, Lễ hội đền chùa Gám, đền Cả (Nhân Thành), Lễ hội Đại Điển – đình Mõ (Hậu Thành), đền Cả (Hoa Thành)… Yên Thành từ xưa đến nay vẫn là nơi được biết đến với văn hoá hiếu học, chính những tên làng, địa danh từ lâu đã được người dân gắn liền với khát vọng học vấn, với triết lý “học để biết, biết để làm người” điều đó được lưu truyền qua nhiều thế hệ trở thành truyền thống của người dân Yên Thành ngày nay.
Trên địa bàn huyện, khu hồ đập Vệ Vừng đã trở thành điểm đến ưa thích của du khách. Ngoài việc điều hòa khí hậu cho vùng Tây Yên Thành, cung cấp nước tưới cho hơn 2.000 ha lúa của các xã Kim Thành, Quang Thành, Phúc Thành, Hoa Thành, Văn Thành… tới Vệ Vừng, du khách có thể thư giãn với du thuyền, ngắm cảnh, leo núi, câu cá trong làn nước trong lành, thưởng thức nhiều món cá tươi và tham gia các hoạt động văn hóa tại các điểm như chùa Gám, chùa Bảo Lâm, chùa Non Nước, nhà thờ đá Bảo Nham… Nơi đây còn là điểm du lịch lý tưởng để tìm hiểu về các di tích – danh thắng trên vùng quê lúa đã đi vào truyền thuyết 'Nghệ Yên Thành, Thanh Nông Cống'.
Huyện Yên Thành có hơn 200 di tích – danh thắng đã được lập danh mục quản lý, trong đó có 21 di tích được công nhận là di tích quốc gia, 33 di tích xếp hạng cấp tỉnh, là huyện có nhiều di tích được công nhận nhất tỉnh. Yên Thành còn là nơi có truyền thống văn hiến khoa bảng với 22 vị đại khoa, trong đó có trạng nguyên Bạch Liêu – ông tổ khai khoa của xứ Nghệ. Đây cũng là địa danh có ảnh hưởng lớn trong cách mạng, là căn cứ của phong trào Cần Vương chống Pháp do cụ Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nhã lãnh đạo và là địa điểm đỏ của phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh 1930 – 1931. Đây là nguồn cảm hứng mà Đảng bộ và nhân dân của huyện Yên Thành đang nỗ lực gìn giữ, để những giá trị đó tiếp tục tồn tại, mang lại tinh thần và vật chất trong thời kỳ mới.
Huyện Lâm Bình đã từ lâu nhận ra tiềm năng du lịch và đã quyết tâm phát triển lĩnh vực này từ khi mới thành lập. Tuy nhiên, việc khai thác hết tiềm năng du lịch của huyện vẫn là một thách thức đang được quan tâm và đặt ra.
Ngay từ khi được thành lập, huyện Lâm Bình đã nhận thấy tiềm năng lớn của du lịch và đặt ra mục tiêu phát triển lĩnh vực này. Tuy nhiên, việc khai thác toàn bộ tiềm năng du lịch của huyện vẫn là một vấn đề đang được quan tâm.
Thiên nhiên đã ban tặng cho Lâm Bình một hệ sinh thái đa dạng với nhiều cảnh đẹp hùng vĩ, sơn thủy hữu tình. Đặc biệt là 99 ngọn núi ở xã Thượng Lâm được ví như “Hạ Long trên đại ngàn”. Thượng Lâm không chỉ nổi tiếng với thiên nhiên tuyệt vời mà còn là nơi gìn giữ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
Du lịch văn hóa tâm linh là một trong những tiềm năng lớn của huyện Lâm Bình. Hiện nay, trên địa bàn vẫn còn giữ được nhiều ngôi đền, chùa có niên đại lâu đời, thể hiện rõ nét văn hóa của người dân tộc vùng cao như đền Pú Bảo, chùa Phúc Lâm.
Đền Pú Bảo là nơi thờ Quận công Thiếu Bảo, hay còn gọi là Tướng quân Nguyễn Thế Quần, một vị quận công tài trí và đức độ, luôn quan tâm đến cuộc sống của bao người. Theo truyền thuyết, khoảng thế kỷ 16, tại xã Dương Nội, huyện Hoài Đức (nay là phường Ỷ La, thành phố Tuyên Quang), có hai anh em dòng họ Nguyễn Thế đã di cư lên miền núi để sinh sống. Người em đã định cư tại xã Ỷ La, thành phố Tuyên Quang, và lập gia đình, sinh con. Con trai lớn của người em, Nguyễn Thế Quần, sau này đã di cư lên vùng sơn cước thuộc châu Vị Xuyên, xứ Tuyên Quang (nay là xã Lăng Can, huyện Lâm Bình), để dạy chữ cho con cháu của các dân tộc trong xã. Vì quý trọng tư tưởng thông minh và phẩm chất của ông, Quận công cai trị vùng đất Vị Xuyên lúc đó đã cưới con gái và nhường ngôi Quận công cho ông.
Sau khi lên ngôi, ông đã dành toàn bộ thời gian và nỗ lực để chăm sóc cuộc sống của người dân trong vùng. Với tài năng văn võ, ông đã dẹp tan các cuộc nổi dậy. Vào ngày mùng 9 tháng 8 năm Cảnh Hưng thứ 11 (1750), Vua Lê Hiển Tông đã trao danh hiệu Siêu Nhạc Bá cho Nguyễn Thế Quần, một trong 5 tước trong triều đình lúc bấy giờ. Sau khi ông qua đời, để tôn vinh công lao của Quận công Nguyễn Thế Quần, nhân dân địa phương đã xây dựng đền thờ Quận công để phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của mọi người. Đền được xây dựng khoảng thế kỷ 16 – 17 trên cánh đồng Nà Tha, thôn Bản Kè B, xã Lăng Can, nổi bật với vị trí địa lý thuận lợi, được xem như điểm hội tụ của linh khí núi sông. Đền hướng về phía Bắc, nhìn ra cánh đồng, được bao quanh bởi nhiều ngọn núi như sự che chở. Năm 2014, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận Đền Pú Bảo là Di tích lịch sử cấp quốc gia, trở thành điểm đến của đông đảo người dân địa phương và du khách.
Chùa Phúc Lâm nằm ở thôn Nà Tông, là một ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời nhà Trần, vào khoảng thế kỷ 13-14. Chùa đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch công nhận là di tích cấp quốc gia. Năm 2011, chùa được phục dựng bằng gỗ, hướng về phía Tây Nam, nằm tại khuôn viên của ngôi chùa cũ, mang kiến trúc hình chữ Nhất theo phong cách kiến trúc cổ Việt Nam, gồm một gian hai chái, mái lợp bằng gạch nung. Hằng năm, vào dịp lễ tết (đặc biệt là dịp lễ hội Lồng tồng vào ngày 15 tháng Giêng), cả người dân và du khách đều đến chùa Phúc Lâm để tham quan, cầu an, cầu lộc và cầu cho một mùa màng bội thu.
Hồ thủy điện Tuyên Quang, từ khi được xây dựng, đã trở thành một hồ nước rộng hơn 8.000 ha, với nhiều cảnh đẹp thiên nhiên sơn thủy hữu tình, khiến lòng người say mê. Phần lớn diện tích của hồ nằm ở huyện Lâm Bình và huyện Nà Hang. Đi dọc bờ hồ, người ta được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của sông nước và núi non hùng vĩ, với điểm nhấn là núi cọc Vài (tiếng Tày nghĩa là cọc buộc trâu) nối liền với truyền thuyết về chàng Tài Ngào. Tiếp theo là thác Nậm Mè (nghĩa là suối mẹ). Từ đoạn hợp lưu giữa sông Gâm với sông Năng, đây là một vùng đất với sông nước, núi non hùng vĩ và rừng nguyên sinh rợp mát. Lâm Bình còn có nhiều điểm tham quan đẹp như: động Song Long, thác Mặn Me, thác Khuổi Nhi, thác Khuổi Súng; di tích khảo cổ hang Phia Vài… Đây là các điểm du lịch sinh thái và văn hóa có tiềm năng, thuận lợi cho phát triển du lịch.
Trong những năm gần đây, huyện Lâm Bình đã khôi phục lại các lễ hội truyền thống như Lễ hội Lồng tồng ở các xã Thượng Lâm và Lăng Can; lễ hội nhảy lửa của đồng bào dân tộc Pà Thẻn ở xã Hồng Quang. Những lễ hội này mang đậm bản sắc dân gian độc đáo của địa phương và thu hút đông đảo du khách trong và ngoài tỉnh tham gia vào những dịp đầu năm mới.
Du khách khi đến Lâm Bình sẽ được thưởng thức những món ăn truyền thống của người Tày, người Dao như cơm lam, thịt chua, thịt trâu khô, cá mắm ruộng, chè Khau Mút, rượu ngô, rượu thóc men lá…
Ngay sau khi thành lập, huyện Lâm Bình đã tiến hành quy hoạch tổng thể du lịch đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 và tầm nhìn đến 2030. Huyện đã triển khai khôi phục, duy trì và tổ chức các sự kiện văn hóa như Lễ hội Lồng tồng, nhảy lửa và các hoạt động văn hóa truyền thống của các dân tộc. Gần đây, huyện đã nâng cấp lễ hội Lồng tồng xã Lăng Can thành lễ hội cấp huyện, phục dựng chùa Phúc Lâm; khuyến khích các tập thể và cá nhân trong và ngoài tỉnh đầu tư vào các điểm du lịch.
Số lượng du khách đến với huyện Lâm Bình ngày càng tăng. Năm 2011, huyện đã đón 3.500 lượt khách du lịch; đến năm 2014, tổng số khách đến Lâm Bình đã đạt 8.000 lượt, tương đương 190% so với kế hoạch. Hoạt động du lịch đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế xã hội của huyện, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường sinh thái, tăng cường công tác tuyên truyền và quảng bá du lịch. Đặc biệt, các cơ quan chức năng của tỉnh và Bộ Tài nguyên và Môi trường đã hoàn thành “Đề cương nghiên cứu, xây dựng Công viên Địa chất Nà Hang – Lâm Bình, Tuyên Quang” để trình Chính phủ xem xét, công nhận là Công viên địa chất quốc gia. Khu vực này được coi là “hội tụ nhiều giá trị di sản tự nhiên và văn hóa, đặc biệt là các di sản địa chất – địa mạo, các di tích lịch sử, khảo cổ, đa dạng sinh học… có giá trị nổi bật tầm cỡ quốc gia và quốc tế”. Đây sẽ là cơ hội lớn để du lịch Lâm Bình phát triển hơn nữa.
Thuyết minh về một vùng đất có tiềm năng - Mẫu 4
Cao Phong có cảnh quan thiên nhiên xinh đẹp, phong phú với nhiều danh thắng mang những truyền thuyết lịch sử. Nơi đây còn giữ lại những nét đẹp truyền thống trong nếp sống, kiến trúc của người Mường, hứa hẹn là điểm đến hấp dẫn du khách, đồng thời góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp không khói của huyện.
Khi nhắc đến Cao Phong, người ta thường nghĩ ngay đến một trong bốn vùng Mường cổ nổi tiếng của tỉnh: nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động. Mường Thàng từ lâu được biết là vùng đất giàu bản sắc văn hóa truyền thống. Cao Phong có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp, phong phú với nhiều danh thắng chứa đựng những huyền thoại đã đi vào lịch sử. Nơi đây còn giữ lại những nét đẹp truyền thống trong nếp sống, sinh hoạt, kiến trúc nhà ở của cộng đồng người Mường đã và đang hứa hẹn là điểm đến hấp dẫn khách du lịch, đồng thời góp phần thúc đẩy ngành công nghiệp không khói của huyện.
Cao Phong là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch với những địa điểm từ lâu đã hấp dẫn khách du lịch trong nước và quốc tế như bản du lịch Giang Mỗ (xã Bình Thanh). Bản có hơn 100 nóc nhà sàn truyền thống còn giữ nguyên bản sắc từ nhà cửa đến nếp sinh hoạt của người Mường. Trên địa bàn xóm Mỗ, du khách có thể thăm di tích lịch sử chiến công diệt xe tăng của Anh hùng Cù Chính Lan, nơi có Tượng đài khắc họa hình tượng người anh hùng mưu trí, quả cảm đánh xe tăng trên đường số 6 gắn liền với chiến thắng oanh liệt của quân và dân ta trong Chiến dịch Hòa Bình lịch sử. Vào mùa xuân, khi đến với Cao Phong, du khách thường đến với các địa điểm du lịch tâm linh như đền chúa thác Bờ trong chuỗi du lịch lòng hồ Hòa Bình, thu hút hàng trăm nghìn lượt khách đến tham quan và đi lễ. Rời chúa thác Bờ, chúng ta đến với chùa Khánh (xã Yên Thượng). Đây là điểm du lịch văn hóa tâm linh thu hút đông đảo du khách thập phương vào dịp đầu năm. Hiện nay, huyện đang tiến hành đầu tư xây dựng chùa Quèn Ang ở xã Tân Phong, di tích lịch sử gắn liền với sự tích “Vườn hoa núi Cối” – một tích truyện nằm trong phần mo sử thi mo Mường Hòa Bình, một câu chuyện tình được thầy mo kể cho người đã khuất trong 12 đêm trước khi về Mường Trời. Đồng chí Bùi Văn Tín, Chủ tịch UBND xã Tân Phong phấn khởi cho biết: Hiện nay, công trình đang được gấp rút hoàn thành. Khi đưa vào sử dụng, chùa sẽ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm linh của bà con trong và ngoài xã. Đây cũng là địa bàn để huyện phục dựng lễ hội Khai hạ đầu năm của người Mường. Thời gian tới, huyện sẽ tiếp tục đầu tư xây dựng ngôi chùa 9 tháp với diện tích 400 m2 trên đỉnh núi khu vực có sự tích “Vườn hoa núi Cối”. Quần thể du lịch khi đưa vào sử dụng cũng góp phần tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho người dân.
Cùng với những khu du lịch trên, khi đến Cao Phong, du khách sẽ thấy ngay vùng đất trù phú với những vườn cam, mía trải dài như một thảo nguyên xanh mướt. Đây cũng là tiềm lực để huyện định hướng phát triển du lịch sinh thái. Với tiềm năng của nhiều loại hình du lịch như sinh thái, du lịch văn hóa tâm linh, thăm quan các điểm di tích lịch sử, gần đây có thêm loại hình du lịch khám phá hang động. Các năm gần đây, huyện đã ban hành nghị quyết về phát triển du lịch, xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển du lịch trên địa bàn huyện, từng bước đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng du lịch. Theo đó, các tuyến, cụm, điểm du lịch được quy hoạch định hướng như tuyến du lịch Bình Thanh – Thung Nai – lòng hồ sông Đà với các điểm làng cổ dân tộc (Mường, Dao) thăm làng nghề truyền thống (dệt thổ cẩm); thăm quan khu di tích lịch sử diệt xe tăng của Anh hùng Cù Chính Lan, đền Bờ, du lịch sinh thái hồ Hòa Bình; tuyến du lịch Tân Phong – Dũng Phong – Yên Lập – Yên Thượng thăm di tích lịch sử văn hóa chùa Quèn Ang, “Vườn hoa núi Cối”, chùa Khánh, du lịch bản Mường xã Yên Thượng, Yên Lập; tuyến thị trấn Cao Phong – Xuân Phong với du lịch sinh thái miệt vườn, du lịch hồ Cạn Thượng, thăm làng dân tộc Mường xóm Cạn, Mừng (xã Xuân Phong). Ngoài ra, huyện cũng chú trọng đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch khác như xây dựng các tuyến đường giao thông; quản lý, khai thác tốt các loại hình vận tải đường sông, đường bộ; phát triển hệ thống dịch vụ như nhà nghỉ, khách sạn. Đặc biệt, hiện nay, quần thể hang động núi Đầu Rồng tại khu 3, thị trấn Cao Phong được Bộ VH-TT&DL cấp bằng di tích cấp quốc gia năm 2012 là tâm điểm được huyện quan tâm đầu tư. Với địa bàn thuận lợi cách QL 6 khoảng 500 m, dãy núi này dài hơn 1 km, độ cao khoảng 200 m so với chân núi. Trong dãy núi có nhiều hang động đẹp liên kết với nhau tạo thành quần thể như Hoa Sơn thạch động, động Không Đáy, Nhãn Long Sơn động, Phong Sơn động, hang Nước, động Thanh Thủy. Mỗi hang động là kỳ quan tuyệt vời của tạo hoá ban tặng. Bước đầu, huyện đầu tư hạ tầng sơ bộ bảo vệ danh lam thắng cảnh khu di tích tổng giá trị gần 3 tỷ đồng. Chuẩn bị khởi công xây dựng đền Thượng Bồng Lai tại chân núi Đầu Rồng với diện tích 4.000 m2, tổng dự toán 33 tỷ đồng.
Huyện cũng tích cực triển khai các chương trình phát triển du lịch như tuyên truyền, quảng bá du lịch, tham gia các hội chợ, đẩy mạnh xúc tiến – thương mại – du lịch, khôi phục các lễ hội của đồng bào dân tộc như lễ hội khai hạ của đồng bào Mường, tết nhảy của người Dao, khôi phục sản phẩm truyền thống như dệt thổ cẩm nhằm phát huy và bảo tồn bản sắc văn hóa của vùng, đồng thời hấp dẫn khách du lịch.