Đánh giá suy nghĩ về phần kết của câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương' với 9 mẫu văn độc đáo, giúp học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về bi kịch của Vũ Nương và phản ánh về phần kết của tác phẩm.
Thông qua phần kết của Chuyện người con gái Nam Xương, chúng ta nhìn nhận được bi kịch không chỉ của Vũ Nương mà còn của nhiều phụ nữ trong xã hội truyền thống. Mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây của Mytour để củng cố kiến thức môn Văn lớp 9:
Nhận xét và suy nghĩ về phần kết của Chuyện người con gái Nam Xương
- Phác thảo ý kiến về phần kết của câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương'
- Bài viết suy nghĩ về phần kết của câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương' (4 mẫu)
- Ý kiến về phần kết của câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương' (5 mẫu)
Phác thảo ý kiến về phần kết của Chuyện người con gái Nam Xương
I. Bắt đầu:
- Giới thiệu một ít về tác giả Nguyễn Dữ và câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương'.
- Ý kiến của tôi về phần kết của câu chuyện.
II. Phát triển ý:
- Tóm tắt câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương'.
- Phê bình về phần kết với hai luồng ý kiến đối lập:
- Phần kết tích cực: Vũ Nương được sống hạnh phúc dưới biển, được minh oan.
- Phần kết vẫn mang nỗi đau: Lúc còn sống, Vũ Nương chỉ mong được hạnh phúc bên gia đình. Nhưng sau khi qua đời, Vũ Nương phải sống dưới biển, không thể quay lại với gia đình, để lại người chồng cùng con gái cô một mình. Trương Sinh phải sống trong ân hận và nuối tiếc, còn Đản thì lớn lên không có sự chăm sóc của mẹ. Gia đình tan vỡ, hạnh phúc tan biến, nỗi đau đó vẫn còn tồn tại.
- Mặc dù có yếu tố hư cấu, Vũ Nương vẫn sống trong một thế giới khác, được minh oan nhưng không thể đạt được hạnh phúc trọn vẹn.
- Phần kết của truyện thể hiện ước mơ về sự công bằng trong cuộc sống: người tốt sẽ gặp những điều tốt đẹp. Tuy nhiên, thực tế không luôn như vậy.
→ Bi kịch vẫn hiện hữu trong kết thúc của câu chuyện, đem lại cho chúng ta nhiều cảm xúc thương cảm, xót xa cho những người phụ nữ mang phẩm chất tốt đẹp nhưng phải đối mặt với nhiều bi kịch trong xã hội phong kiến nghiêm khắc.
- Số phận bất hạnh của Vũ Nương cũng là số phận của rất nhiều phụ nữ khác, họ chỉ có thể chịu đựng và khuất phục.
III. Kết bài:
- Suy nghĩ và cảm xúc của em về cái kết của nhân vật Vũ Nương.
Đoạn văn suy nghĩ về phần kết của truyện Chuyện người con gái Nam Xương
Đoạn văn 1
Truyện kết thúc có hậu, thể hiện sự mong muốn về công bằng trong cuộc sống, khi người ta thấy được giá trị nhân văn trong tác phẩm: người tốt sẽ được minh oan dù gặp phải nhiều oan ức, cuối cùng cũng sẽ được trở lại danh dự và uy tín của mình. Cách kết thúc này giống như một câu chuyện cổ tích. Mặc dù cái kết lung linh này có sự hiện hữu của tính bi kịch, nhưng ẩn chứa trong đó là ý nghĩa sâu sắc về hiện thực: mặc dù Vũ Nương được miêu tả sống trong thế giới kỳ ảo dưới dạng mơ ước về công bằng, nhưng tính bi kịch vẫn hiện hữu từ cái kết này bởi sự ảo ảnh và hư vô trong cuộc sống hạnh phúc của Vũ Nương.
Đoạn văn 2
Kết thúc của truyện ngắn Chuyện người con gái Nam Xương, khi Trương Sinh đứng ra giải oan bên bờ sông Hoàng Giang, Vũ Nương xuất hiện trên chiếc thuyền hoa giữa dòng nước, lúc xuất hiện, lúc biến mất và nói lời cảm ơn với Trương Sinh: “Cảm ơn chàng, thiếp không thể trở lại thế gian được nữa”. Sự trở về “vẻ vang, lấp lánh” chỉ trong một khoảnh khắc đã giúp Vũ Nương được miễn oan, tạo nên một cái kết có phần hậu quả cho câu chuyện, thể hiện khát vọng của dân tộc ta về sự công bằng, “ở hiền gặp lành”. Mặc dù cái kết này có phần hậu quả nhưng tính bi kịch vẫn còn. Lời nói của Vũ Nương rằng không thể trở lại thế gian nữa là biểu hiện của sự tuyệt vọng, bất lực trước hiện thực. Lời nói này phản ánh sự chỉ trích xã hội phong kiến bất công, không cho phép những người phụ nữ như Vũ Nương có hạnh phúc. Vĩnh viễn không thể trở lại, bé Đản mãi là một cô bé mồ côi. Mặc dù oan đã được giải nhưng hạnh phúc gia đình thì không thể lấy lại. Hành động rời bỏ của Vũ Nương thể hiện sự từ bỏ cuộc sống thế tục với những bất công, nơi mà người phụ nữ không thể có hạnh phúc. Tính bi kịch vẫn hiện hữu trong cái kết ấn tượng này.
Đoạn văn 3
Câu chuyện kết thúc với sự lung linh nhưng vẫn mang trong đó tính bi kịch. Mặc dù câu chuyện có kết thúc tốt đẹp, nhưng hiện thực vẫn đau đớn với những nỗi đau và bi kịch của phụ nữ như Vũ Nương. Đằng sau cái kết hạnh phúc đó, vẫn còn chứa đựng những bi kịch. Và vẫn còn bao nhiêu phụ nữ sẽ tiếp tục gánh chịu những gánh nặng, những bi kịch dưới chế độ phong kiến? Chiến tranh đã khiến Trương Sinh xa nhà, đi lính, tạo ra nỗi oan của Vũ Nương. Chế độ nam quyền đã làm cho những người chồng như Trương Sinh trở nên ích kỷ, độc đoán. Tất cả những điều này đã hủy hoại thân phận của phụ nữ, đập tan đức hạnh của họ. Mặc dù câu chuyện thỏa mãn mong muốn về sự công bằng trong cuộc sống, nhưng hiện thực không phải lúc nào cũng như vậy. Tính bi kịch vẫn tồn tại trong cái kết, khiến chúng ta cảm thấy thương xót cho những phụ nữ có phẩm chất tốt nhưng phải chịu đựng nhiều bất hạnh dưới chế độ phong kiến.
Đoạn văn 4
'Chuyện người con gái Nam Xương' kể về cuộc sống và số phận bất hạnh của Vũ Nương. Một người phụ nữ, tận tụy và yêu thương gia đình nhưng lại gặp phải oan ức từ chồng mình. Cuối cùng, cô phải tự vẫn bằng cách nhảy xuống sông Hoàng Giang. Điều đó đã chứng minh sự trong sạch của cô. Sau đó, Vũ Nương được Linh Phi cứu và sống dưới nước. Trương Sinh sau khi biết sự thật, đã giải oan. Mặc dù có vẻ như kết thúc có hậu, nhưng nó vẫn mang trong mình tính bi kịch. Vẫn còn nỗi đau về cô vợ, và sự cô đơn của Trương Sinh. Bé Đản, vô tội, chẳng được hưởng tình mẹ. Từ cách kết thúc, chúng ta thấy Nguyễn Dữ muốn thể hiện mong muốn về sự công bằng, nhưng cũng nhấn mạnh hiện thực để cảnh báo.
Suy nghĩ về kết thúc của Chuyện người con gái Nam Xương
Bài văn mẫu 1
Số phận của Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' cũng là số phận của nhiều người phụ nữ dưới chế độ phong kiến, kết thúc của truyện liệu có phải là cái kết vẹn toàn, có hậu hay đó là nỗi đau khổ dai dẳng kéo dài? Với tấm lòng nhân đạo, bao dung của Nguyễn Dữ ta thấy Vũ Nương được giải oan và vẫn sống ở một thế giới khác nhưng hiện thực đau lòng vẫn luôn tồn tại. Nguyễn Dữ sống vào khoảng thế kỉ XVI, 'Chuyện người con gái Nam Xương' là một trong 20 truyện trích trong ' Truyền kì mạn lục', ông đã ghi chép lại những câu chuyện trong dân gian với một sự gia công hư cấu, sáng tạo, trau chuốt vừa thể hiện tấm lòng và phản ánh hiện thực xã hội phong kiến thối nát đương thời.
Vũ Nương là người phụ nữ có nhan sắc, đức hạnh vẹn toàn. Nàng gả cho Trương Sinh và một lòng chăm lo cho chồng, mẹ chồng và việc nhà cửa hết sức chu đáo. Vũ Nương biết chồng có tính hay ghen nhưng nàng chưa từng để gia đình phải bất hòa. Khi chồng đi lính, Vũ Nương mang thai, nàng ở nhà chăm sóc mẹ chồng khi ốm đau, bệnh tật như mẹ ruột đến nỗi người mẹ chồng trước khi mất cũng trăn trối những lời chúc phúc cho nàng. Vũ Nương vò võ một mình nuôi con, chờ chồng về để vui thú vui nghi gia, hạnh phúc gia đình trọn vẹn. Thời gian qua mau, bé Đản dần khôn lớn và hỏi cha đâu. Vũ Nương chỉ vào cái bóng của mình trong đêm và nói rằng đó là cha của Đản. Khi chồng trở về, nghe lời bé Đản đã mắng chửi và đánh đập Vũ Nương vì cho rằng nàng thất tiết, không giữ đạo vợ chồng. Vũ Nương giải thích hết lời nhưng Trương Sinh không nghe. Nàng gieo mình xuống sông Hoàng Giang tự vẫn để chứng tỏ tấm lòng trong sạch. Thời gian sau, có người cùng làng tên là Phan Lang vì từng cứu Linh Phi lúc hóa rùa nên được Linh Phi cứu sống, vô tình gặp Vũ Nương ở thủy cung. Lúc Phan Lang sắp trở về trần gian, Vũ Nương gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn cho Trương Sinh. Biết vợ bị oan, Trương Sinh theo lời nhắn, lập đền giải oan cho Vũ Nương. Nàng trở về nói lời đa tạ và biến mất. Câu chuyện truyền kỳ kết thúc nhưng hiện thực vẫn còn đau đáu những nỗi niềm thân phận, bi kịch của những người phụ nữ như Vũ Nương vẫn còn tái diễn. Cái kết đó gợi lên hai luồng ý kiến trái chiều: Kết thúc có hậu hay kết thúc tiềm ẩn nỗi đau bi kịch?
'Chuyện người con gái Nam Xương' là một câu chuyện được lưu truyền trong dân gian, cái kết nàng được giải oan và sống ở thủy cung của Linh Phi là một cái kết xem như có hậu. Vì cuối cùng oan khuất của nàng được giải, nàng vẫn được sống dù là ở thế giới khác. Từ đây, nàng không còn phải lo toan, vất vả vì chồng con nữa. Người tốt xứng đáng được hưởng hạnh phúc. Đó là mong ước, là bài học bao đời dân gian truyền dạy con cháu. Cái kết này hoàn toàn thỏa mãn mong ước về sự công bằng, nhân nghĩa ở đời.
Đằng sau cái kết tưởng như có hậu đó vẫn còn ẩn chứa bi kịch. Khi sống, Vũ Nương chỉ mong được vui thú vui nghi gia, gia đình hạnh phúc trọn vẹn. Nàng một lòng chăm lo việc nhà cửa, nuôi dạy con cái, chờ chồng về để gia đình đoàn tụ. Nhưng chờ đón nàng là những lời mắng chửi của chồng, là bi kịch đời nàng. Vũ Nương chọn cái chết để minh oan chứng tỏ nàng bị dồn vào bước đường cùng, không còn lối thoát nào. Lúc chết, Vũ Nương sống dưới thủy cung, mãi mãi không thể hưởng hạnh phúc gia đình, xa chồng, xa con, âm dương cách biệt. Lời nói của Vũ Nương khi gặp lại Trương Sinh bỗng trở nên nghẹn ngào, bi thiết: 'Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa'. Trương Sinh một mình nuôi con, sống những ngày tháng trong hối hận giày vò. Bé Đản mồ côi mẹ, sống thiếu tình thương của mẹ. Chưa kể sau này bé Đản hiểu được lời nói ngây thơ của mình vô tình hại chết mẹ thì bé sẽ day dứt nhiều. Gia đình tan nát, hạnh phúc tan vỡ, bi kịch ấy vẫn kéo dài. Còn bao nhiêu người phụ nữ sẽ nối tiếp sau Vũ Nương khi mà xã hội phong kiến luôn đè nặng, chuyên quyền? Chiến tranh phi nghĩa làm Trương Sinh xa nhà, đi lính khiến cho mối hàm oan của Vũ Nương có dịp phát sinh. Chế độ nam quyền làm những người chồng như Trương Sinh trở nên nhỏ nhen, ích kỷ, gia trưởng, độc đoán. Chính những điều đó đã giết chết bao thân phận phụ nữ nhỏ nhoi, đức hạnh. Một cái bóng từ lời nói ngây thơ của bé Đản đã có thể kết tội, vu oan và dồn Vũ Nương vào con đường tuyệt vọng đi tìm chết để minh oan, giải thoát cho bản thân. Công bằng ở đời chỉ là hư vô. Người đáng được hưởng hạnh phúc lại rơi vào bi kịch, hàm oan chết hoặc chỉ có chết mới chứng minh trong sạch. Yếu tố kì ảo xen vào, mang theo hy vọng, ước mơ của nhân dân ta, Vũ Nương vẫn sống ở một thế giới khác, được minh oan nhưng hạnh phúc không trọn vẹn.
Cuối cùng, ước mơ về sự công bằng cũng được thực hiện: những người tốt sẽ nhận được những điều tốt lành. Tuy nhiên, thực tế không luôn như vậy, bi kịch vẫn còn tồn tại, đem lại nhiều sự thương cảm và xót xa cho những phụ nữ tốt bị số phận bất công dưới chế độ phong kiến nghiêm khắc. Nguyễn Dữ đã cố gắng thêm những yếu tố kỳ ảo vào câu chuyện nhưng cuối cùng cũng phải chấp nhận sự thực tại. Sự bất công và tệ nạn vẫn tiếp tục tồn tại, gây ra nhiều đau thương cho những người bị ảnh hưởng. Ở đó, con người luôn cố gắng vùng vẫy trong tuyệt vọng và cái chết được coi là sự giải thoát. Số phận bi thảm của Vũ Nương cũng là số phận của nhiều phụ nữ khác, họ chỉ có thể chịu đựng và khuất phục. Tiếng nói và nỗi đau của họ bị lãng quên giữa cuộc sống khắc nghiệt của chế độ phong kiến. Vũ Nương trong câu chuyện 'Chuyện người con gái Nam Xương' may mắn được giải oan và sống ở một thế giới khác, nhưng những phụ nữ khác trong xã hội phong kiến thì sao? Thực tế là họ phải chết mang theo nỗi oan không thể nói, họ tuyệt vọng trong đau thương và kết thúc cuộc sống mà không có cơ hội sống lại trong thế giới âm. Nguyễn Dữ đã chỉ trích và tố cáo mạnh mẽ chế độ phong kiến và đồng thời lòng nhân đạo và tầm nhìn bao dung của ông đã dành cho những người phụ nữ bất hạnh, lạc lõng giữa cuộc sống nghiệt ngã.
Câu chuyện kết thúc với yếu tố kỳ ảo giúp Vũ Nương được minh oan và sống trong thủy cung, khơi dậy lòng tin vào nhân quả, sự thiện ác và công bằng trong cuộc sống. Tuy nhiên, thực tế tàn bạo và bất công không thể phủ nhận. Câu chuyện về Vũ Nương trong 'Chuyện người con gái Nam Xương' là một lời tố cáo sâu sắc về xã hội phong kiến, là tiếng kêu than cho số phận của con người.
'Chuyện người con gái Nam Xương' là một tác phẩm truyện ngắn trung đại đặc sắc của Nguyễn Dữ. Để hiểu và phân tích tác phẩm một cách hiệu quả, ngoài việc đọc bài 'Suy nghĩ về kết thúc của Chuyện người con gái Nam Xương', bạn cũng có thể tham khảo thêm các bài viết như: Phân tích bài Chuyện người con gái Nam Xương, Suy nghĩ về kết thúc của Chuyện người con gái Nam Xương, Bi kịch của phụ nữ trong xã hội phong kiến qua Chuyện người con gái Nam Xương, Thân phận bi kịch của phụ nữ trong xã hội cũ qua Chuyện người con gái Nam Xương, Suy nghĩ về nhân vật Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương.
Mẫu văn số 2
Với đặc điểm riêng của thể loại truyền kỳ, Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm phần cuối của câu chuyện. Vũ Nương không chết, chính xác hơn là nàng được sống một cuộc sống mới tốt đẹp và bình yên ở thủy cung. Tại đây, Vũ Nương tình cờ gặp Phan Lang, một người cùng làng. Nàng nhờ Phan Lang gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn cho Trương Sinh. Trương Sinh nghe Phan Lang kể, biết vợ mình bị oan, liền lập đàn giải oan trên bến Hoàng Giang. Vũ Nương trở về, ngồi trên một chiếc kiệu hoa giữa dòng nước, lúc xuất hiện, lúc biến mất, nói lời tạ từ với chồng và sau đó mãi mãi trở về chốn làng mây cung nước.
Đây là một kết thúc có phần hậu hạ. Vì Vũ Nương được minh oan, nàng sống trong chốn thủy cung với các tiên nữ, giống như các truyền thuyết về Thánh Gióng lên trời, An Dương Vương xuống biển, Mị Châu khuất người, máu biến thành ngọc trai... trong truyện cổ tích Việt Nam. Điều này thể hiện ước mơ của nhân dân về sự công bằng trong cuộc sống: những người tốt sẽ gặp được điều tốt lành, dù gặp phải bao nhiêu oan trái, cuối cùng cũng sẽ được phục hồi danh dự và phẩm giá.
Tuy nhiên, kết thúc vẫn mang tính bi kịch: Vũ Nương trở về với sự uy nghi và rực rỡ, nhưng chỉ là một phần nhỏ, lúc ẩn lúc hiện giữa dòng nước rồi mãi mãi biến mất. Tất cả chỉ là hư ảo, vô vọng và tan biến nhanh chóng, điều này càng làm đậm nỗi đau của phụ nữ bị bất hạnh. Thực tế trở lại: Vũ Nương mãi mãi không thể trở lại thế giới thực, không bao giờ trở thành vợ mẹ như mong đợi của mình; Trương vẫn phải trả giá cho hành động đê tiện của mình, sống trong cảnh đơn độc dưới ánh đèn chiếu buồn; còn Đản mãi mãi không còn mẹ...
Qua kết thúc này, chúng ta thấy được sự căm ghét, lên án của Nguyễn Dữ đối với xã hội bất công của thời đại, xã hội mà ở đó phụ nữ không thể tìm được hạnh phúc. Điều này càng làm nổi bật nỗi đau và lòng thương cảm của tác giả đối với số phận bi thảm của phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến.
Mẫu văn số 3
Trong văn học Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm mang tính chất truyền kỳ được ca ngợi là “thiên cổ kỳ bút”, nhưng cho đến nay chỉ có một “Truyền kỳ mạn lục” của Nguyễn Dữ. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số những câu chuyện kỳ lạ đó. Nhân vật chính là Vũ Nương, đã để lại trong lòng người đọc một cảm xúc sâu sắc về sự thương cảm.
Tác phẩm này là sự biểu đạt, khen ngợi từ tác giả đến con người, đặc biệt là phụ nữ. Toàn bộ câu chuyện tập trung vào cuộc đời và số phận bi kịch của một cô gái xinh đẹp, dịu dàng tên là Vũ Thị Thiết từ Nam Xương. Nguyễn Dữ không muốn Vũ Nương trở thành biểu tượng của một phụ nữ yêu nước hay một người đẹp nơi cao sang. Vũ Nương là một phụ nữ bình thường, có ước mơ phủ bóng cả cuộc đời - thú vui nghi gia nghi thất. Nàng mang vẻ đẹp của một người phụ nữ lý tưởng: 'tính đã thuỳ mị nết na lại thêm có tư dung tốt đẹp'. Càng đọc, ta càng cảm nhận được vẻ đẹp đó được tác giả tập trung thể hiện rõ ràng. Trong những ngày gia đình đoàn viên ít ỏi, dù Trương Sinh, con trai nhà giàu, có tính vốn đa nghi, vợ nhưng nàng khéo léo, kính trọng để gia đình luôn hòa thuận. Khi chồng đi lính, ước mơ lớn nhất của nàng không phải là giàu có mà là hạnh phúc gia đình: 'mang theo hai chữ bình yên là đủ'. Trong thời gian chồng đi xa, nàng là một mẹ hiền, dâu thảo, chăm sóc tận tình mẹ chồng bệnh tật, chúc yên linh cho mẹ chồng qua đời. Nguyễn Dữ đã đặt những lời ca ngợi đẹp nhất về Vũ Nương vào miệng mẹ chồng nàng, khiến nó trở nên cực kỳ ý nghĩa: 'sau này trời xét lòng lành ban phúc đức, giống dòng tươi tốt con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng phụ mẹ'. Phụ nữ trung thực, hiếu nghĩa ấy cũng là một người vợ trung thành. Trong suốt ba năm chồng đi chiến đấu, người phụ nữ trẻ đó chờ đợi, nuôi dưỡng con: 'cách biệt ba năm giữ gìn một tiết, tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót'. Dưới bút của Nguyễn Dữ, Vũ Nương được yêu thương bởi tính cách và phẩm hạnh của mình. Trong ánh mắt trân trọng của tác giả, Vũ Nương là biểu tượng của gia đình, đức hạnh của nàng là đức hạnh của một người vợ hiền, dâu thảo, người yêu thương cuộc sống gia đình và làm mọi thứ để giữ gìn hạnh phúc.
Người phụ nữ dịu dàng, hiếu nghĩa, tận tuỵ và trung thành đáng lẽ ra phải được đền bù bằng một gia đình hạnh phúc, phúc lộc. Nhưng trái với dự định, một ngày chồng nàng trở về từ chiến trường, tin đồn xấu về vợ do con trẻ nói, anh mắng nhiếc, đánh đập và đuổi nàng đi mặc dù sự can ngăn của hàng xóm và lời thanh minh của người vợ trẻ. Không có cơ hội để làm sáng tỏ, trái tim tan nát, tuyệt vọng vì “bình rơi, trâm gãy, mây tạnh, mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió”. Đến bến Hoàng Giang, người phụ nữ đau khổ nguyền rủa rằng: “Kẻ bạc mệnh này số phận bi kịch chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh xin ngài chứng giám, nếu tôi đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, xuống nước xin làm ngọc Mị Nương, vào đất xin làm cỏ Ngu Mĩ...”. Với nàng, cái chết là hành động cuối cùng cần phải có để bảo vệ danh dự. Lời văn dày dặn, sâu lắng như cực tả nỗi đau, sự đồng cảm, thương xót của tác giả dành cho người phụ nữ trung thực mà bạc mệnh! Ngưỡng mộ nàng, ông tạo ra một thế giới thần tiên bình yên trong làng mây cung nước để Vũ Nương sống như một tiên nữ. Có lẽ đó cũng là thông điệp của tác giả: người tốt sẽ nhận được đền bù xứng đáng, ở hiền sẽ gặp lành?
Lý do gì đã khiến người phụ nữ đẹp đẽ, hiếu nghĩa đó phải tìm đến cái chết bi thảm? Đó là vì chiến tranh phi nghĩa đã khiến gia đình tan rã. Đó cũng là sự đàn áp của lễ giáo phong kiến với tư duy nam chủ độc tôn đã biến Trương Sinh thành một tên ác ôn gia đình... Trên bờ Hoàng Giang, nỗi đau và nỗi ám ảnh về một người phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp, hiếu nghĩa, trung thành mà bạc mệnh đã nằm mãi.
Câu chuyện về Vũ Nương có kết thúc, nhưng sự bất bình, căm hận với xã hội phong kiến bất công, thiếu nhân đạo vẫn còn. Chính vì vậy, em yêu thương, trân trọng hơn xã hội đẹp đẽ mà em đang sống.
Tinh thần nhân đạo đã trở thành trọng tâm của nhiều tác phẩm văn học. Ý tưởng đó được thể hiện qua nhiều phong cách và hình thức. Trong văn học cổ điển, một trong những biểu hiện của tinh thần nhân đạo là lòng nhân ái đối với số phận mong manh, đầy bi kịch của phụ nữ. Qua “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, điều đó được thể hiện qua lòng trân trọng của tác giả đối với vẻ đẹp và sự cao cả của người phụ nữ cũng như sự đồng cảm với số phận đau khổ mà họ phải đối mặt.
Người phụ nữ Việt Nam luôn được ca ngợi với vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và lòng nhân từ bao dung. Truyện 'Chuyện người con gái Nam Xương' cũng không ngoại lệ. Vai diễn của Vũ Nương đẹp và tự trọng.
Vũ Nương nổi tiếng với 'tư duy tốt đẹp'. Điều này được chứng minh qua việc Trương Sinh - một người 'con nhà giàu' phải xin mẹ trăm lạng vàng để cưới nàng. Nàng cũng là người phụ nữ hiền lành, dịu dàng, vợ hiền, dâu thảo và mẹ yêu thương con.
Trong cuộc sống hằng ngày, mặc dù chồng có tính đa nghi, nhưng Vũ Nương vẫn giữ được khuôn phép, không để xảy ra mâu thuẫn. Khi chia xa, nàng chỉ nghĩ về sự an nguy của chồng: 'Ngày chồng đi, thiếp không cầu giàu có, chỉ mong chút bình yên là đủ rồi. Dù có thư từ nghìn lá, cũng chỉ sợ không có tin vui'.
Khi Trương Sinh trở về, nói nàng những lời cay độc, hành động thô bạo. Nhưng ngay cả trong tình hình đó, Vũ Nương vẫn nói lên lời chân thành, biểu đạt mong ước về hạnh phúc gia đình.
Trong mối quan hệ với mẹ chồng, nàng luôn quan tâm và chăm sóc mẹ chồng khi ốm đau. Khi mẹ chồng qua đời, nàng thể hiện sự thương xót và lo lắng. Tấm lòng của nàng khiến mẹ chồng rất động lòng và chúc phúc cho nàng trước khi mất.
Dành cho con, Vũ Nương đã dạy dỗ, bảo bọc, yêu thương và chiều chuộng hết mực (đến nỗi một hành động nhỏ của nàng đã dẫn đến quyết định tự vẫn...).
Không chỉ vậy, trong xã hội, Vũ Nương tỏ ra rất tự trọng và đầy cảm động. Mặc dù bị hiểu lầm và bị oan uất, nàng vẫn chọn cái chết để chứng minh sự trong sạch và phẩm tiết của mình. Hành động này là minh chứng cho lòng tự trọng và ý thức giữ gìn danh dự, phẩm chất của người phụ nữ này.
Nguyễn Dữ đã ca ngợi vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, đồng thời đóng góp vào việc tôn vinh người phụ nữ đầy nhân văn trong văn học trung đại. Ngoài Vũ Nương của Nguyễn Dữ, còn có Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du và nhiều nhân vật khác trong văn học Việt Nam.
Trong xã hội phong kiến, cái đẹp thường đồng đi với nỗi đau và tai họa: “Chữ tài không đợi tuổi, chữ tai không đợi thời”. Trong thời kỳ này, văn học thường thể hiện sự đồng cảm với những người gặp phải nghịch cảnh.
Đầu tiên, nàng bị buộc phải kết hôn mà không được lựa chọn. Dù có vẻ đẹp và phẩm chất, nàng không được quyền chọn cho mình một người chồng phù hợp. Cuộc hôn nhân của nàng trở thành một cuộc trao đổi, mua bán bằng vàng bạc.
Về nhà chồng, Vũ Nương phải cẩn thận trước tính đa nghi của Trương Sinh: “đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Nhưng hạnh phúc cần sự đồng lòng từ cả hai phía. Sau nhiều năm đợi chờ chồng về, cái giá Vũ Nương trả là quá đắng.
Khi chồng đi lính, Vũ Nương đêm đêm kể con nghe con đó là cha. Nhưng sự thiện ý của nàng đã bị hiểu lầm. Trương Sinh, nghi ngờ và đa nghi, lắng nghe con nói rồi kết luận sai lầm về vợ: “Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được'.
Trước nỗi oan không thể giải thích (vì Trương Sinh không nói rõ nguyên nhân của sự giận dữ của mình), cuộc sống của Vũ Nương trở nên bế tắc. Nàng không muốn sống trong sự phản bội, nên đã lựa chọn tự vẫn xuống sông Hoàng Giang.
Thân phận của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vô cùng bèo bọt, họ không được quyền kiểm soát cuộc sống của mình và phải chịu đựng sự bất công và đau đớn. Số phận bi thảm của Vũ Nương làm nhớ đến những nhân vật khác như Đạm Tiên, Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người cung nữ, người chinh phụ,... trong văn học trung đại.
Nhưng tác phẩm của Nguyễn Dữ không chỉ dừng lại ở việc kể một câu chuyện dân gian. Nhà văn đã sâu sắc tâm trạng với số phận của nhân vật. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, Nguyễn Dữ đã cho nàng trở về một nơi thần tiên dưới nước. Dù không ở bên con cái và người thân, nhưng đó vẫn là nơi nàng tìm thấy sự bình yên và đẹp đẽ. Vũ Nương trở về thế giới thực với ánh sáng vàng ấm của ánh nến, dưới bề mặt nước thanh bình.
“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã đề cao nhân đạo, lòng nhân ái, nơi phản ánh sự mong muốn được sống, được hưởng hạnh phúc của phụ nữ Việt Nam dưới thời phong kiến suy tàn. Sự nhân ái trong tác phẩm đã giúp nó đi qua những biến cố lịch sử của dân tộc.
Bài văn mẫu 4
Trong xã hội phong kiến, những người phụ nữ và những người dân thấp cổ bé họng phải chịu nhiều nỗi đau khổ, bất hạnh. Cảm xúc của họ như núi đổ, nước mắt tràn thành sông. Những đau khổ ấy, con người chỉ có thể thổ lộ qua văn thơ và văn chương giàu cảm xúc. Trong các tác phẩm đặc trưng của thời kỳ này, ta có thể thấy những ước mơ, khát vọng của người dân về một xã hội công bằng, nơi nhân bản thắng ác, kẻ hung tàn bị trừng phạt. Vì vậy, không chỉ trong truyện cổ tích mà cả trong các tác phẩm văn học, chúng luôn hướng tới kết cục hạnh phúc để đáp ứng mong muốn, cảm xúc và ước mơ của nhân dân. Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ và Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng có những kết thúc ấm áp như thế.
Chuyện người con gái Nam Xương được sáng tạo dựa trên một câu chuyện có thật từ thế kỷ XIII thời đời Hồ. Nguyễn Dữ không chỉ ghi lại một cách trung thực mà còn phát triển thêm để tạo ra ý nghĩa sâu sắc. Nếu câu chuyện gốc kết thúc với cái chết oan ức của Vũ Nương trên bờ sông Hoàng Giang, thì trong tác phẩm của ông, nhân vật được sống dưới nước và được lập đàn giải oan, hiện về giữa dòng Hoàng Giang trong sự lung linh của hoa vàng và võng lọng.
Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều dựa trên tác phẩm Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. So với tác phẩm gốc, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã thành công hơn, tỏa sáng hơn, là một tác phẩm văn học vĩ đại của Việt Nam. Thành công của tác phẩm không chỉ từ giá trị hiện thực sâu sắc và tài năng văn chương của tác giả mà còn từ tinh thần nhân đạo cao cả của một trái tim nghệ sĩ. Thanh Tâm Tài Nhân kết thúc tác phẩm của mình với cái chết bi thảm của Kiều trên sông Tiền Đường. Nhưng Nguyễn Du đã sáng tạo thêm phần “đoàn tụ”, không để cho Kiều phải chết như lời báo mộng của Đạm Tiên. Tác giả đã để cho Kiều vượt lên trên số phận, được cứu rỗi bởi sư Giác Duyên và sau đó trở về nhà sum họp với gia đình và sống hạnh phúc giữa người thân.
Cả hai tác phẩm đều có một kết thúc đầy ý nghĩa. Mỗi kết thúc đều chứa đựng tư tưởng và tình cảm của Nguyễn Du và Nguyễn Dữ - những nhà văn nhân đạo.
Vũ Nương, sau một cuộc đời đầy khổ cực và hy sinh cho gia đình, phải đối mặt với cái chết oan trái. Nguyễn Dữ muốn tránh cho người phụ nữ đó phải chịu đựng số phận không công bằng. Vì vậy, ông tạo ra một kết thúc mang tính kỳ diệu. Vũ Nương không qua đời mà được sống ở dưới nước trong một thế giới tiên. Sống ở đó, nàng có thể giải thoát phần nào khỏi nỗi khổ của cuộc sống. Nhưng tình yêu và trách nhiệm với gia đình vẫn kéo nàng quay trở lại thế gian. Dù không được sống trong hạnh phúc trần gian, việc được minh oan và chiêu tuyết làm đắm say lòng người.
Mặc dù có một kết thúc có hậu, câu chuyện vẫn mang tính bi kịch. Vũ Nương trở về nhưng chỉ tồn tại “giữa dòng”, 'lúc ẩn, lúc hiện'. Sự chia lìa giữa nàng và gia đình không bao giờ chấm dứt. Nguyễn Dữ khiến người đọc cảm thấy hài lòng vì Vũ Nương được minh oan, nhưng sau đó lại đưa chúng ta trở lại hiện thực. Màn sương huyền ảo như một giấc mơ tan biến, để lại nỗi đau đớn và tuyệt vọng. Nỗi oan trách của người phụ nữ không thể xóa tan, dù có sự hối hận muộn màng của chồng cô hay lời cầu nguyện của tôn giáo. Đó là một cách tố cáo đầy quyết liệt, gây cho lòng người những cảm xúc sâu sắc.
Nguyễn Dữ mong muốn giải phóng những kẻ bất hạnh trong xã hội cũ bằng một kết thúc kỳ diệu. Nguyễn Du cũng muốn gửi gắm hy vọng hạnh phúc cho những số phận tài hoa bất hạnh thông qua một kết thúc có hậu cho Truyện Kiều, khác biệt so với nguyên tác Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Thuý Kiều được cứu sống và trở về với gia đình. Điều này phản ánh lòng nhân đạo rộng lớn của tác giả. Thấu hiểu nỗi đau của phụ nữ và mong muốn họ được sống cuộc sống hạnh phúc, Nguyễn Du làm thỏa mãn tâm hồn của người đọc.
Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc
Sắc tài sao mà lắm truân chuyên
(Chế Lan Viên)
Dù sống trong ba thế kỷ khác nhau, Nguyễn Dữ và Nguyễn Du vẫn thể hiện sự nhất quán trong lòng nhân ái và tình yêu sâu đậm dành cho phụ nữ trong xã hội phong kiến. Điều này làm nên giá trị vượt thời gian của hai tác phẩm trong tâm hồn dân tộc.
Hiện nay, những ước mơ xưa đã trở thành hiện thực. Cuộc sống đã thay đổi và phụ nữ không còn bị ràng buộc như trước mà được tận hưởng hạnh phúc. Tuy nhiên, ý nghĩa cao cả về nhân đạo trong Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều vẫn tiếp tục lan tỏa như một bài học ấm áp về tình người.
Bài văn mẫu 5
“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương
Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.”
(Lê Thánh Tôn)
Từ một câu chuyện dân gian Việt Nam về nỗi oan trái của một người phụ nữ, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái Nam Xương”, để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Dưới bàn tay nhân ái của tác giả, bức tranh xã hội đầy bất công và oan trái bộc lộ ra một cách rõ ràng, đẩy người đọc suy tư về những khó khăn mà phụ nữ phải đối mặt. Tác phẩm như một lời phê phán về xã hội phong kiến và là biểu tượng cho phẩm chất cao quý của phụ nữ Việt Nam. Khi đọc về phần cuối, khi Vũ Nương xuất hiện rồi biến mất, có người cho rằng: “Nếu tác giả để Vũ Nương sống hạnh phúc với chồng con trên trần gian, thì kết thúc sẽ ý nghĩa hơn”; nhưng cũng có ý kiến khác: “Cách kết thúc như vậy hoàn toàn hợp lý.”
Nguyễn Dữ là một trong những tác giả nổi bật của văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Với tập truyện ngắn Truyền kì mạn lục, ông đã mang lại cho văn học dân tộc một sự phong phú đích thực. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong những câu chuyện xuất sắc nhất trong tập này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết của Vũ Nương, tác phẩm thể hiện sự đau thương đối với số phận bi thảm của phụ nữ dưới thời phong kiến, đồng thời tôn vinh vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm không chỉ xuất sắc về mặt nghệ thuật trong việc xây dựng câu chuyện và miêu tả nhân vật mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc về tình yêu thương và sự hy sinh.
“Chuyện người con gái Nam Xương” kể về cuộc đời và cái chết bi thương của Vũ Nương. Vũ Nương, người con của Nam Xương, vừa xinh đẹp vừa hiền lành, bị ép kết hôn với Trương Sinh, một người đàn ông đa nghi và khó tính. Khi Trương Sinh phải nhập ngũ, Vũ Nương chăm sóc cho gia đình với tình yêu thương và trách nhiệm. Khi ở một mình, cô thường chơi với con trẻ và chỉ vào bóng của mình trên vách, nói rằng đó là cha Đản. Khi Trương Sinh trở về, do sự ngây thơ của con trẻ và tính đa nghi, anh đã nghi ngờ Vũ Nương vô tội và cô đã nhảy xuống sông tự tử để chứng minh lòng trung thành của mình.
Một số người cho rằng: “Nếu tác giả để Vũ Nương sống hạnh phúc cùng chồng con trên trần gian, thì kết thúc của truyện sẽ ý nghĩa hơn.” Điều này thường thấy trong các câu chuyện dân gian, thể hiện niềm tin vào sự công bằng và hạnh phúc. Điều này cũng phản ánh tinh thần nhân đạo của văn học truyền thống Việt Nam. Mặc dù cách kết thúc như vậy có thể chấp nhận được vì không vi phạm tinh thần nhân đạo của văn học, nhưng có thể ảnh hưởng đến tính logic và hiện thực của cốt truyện.
Truyện Chuyện người con gái Nam Xương kết thúc với sự thể hiện rõ nét tinh thần nhân đạo và ước mong về cuộc sống: Vũ Nương không chết, mà được sống trong hạnh phúc, sung sướng dưới lòng đất; cô trở về để minh oan, khẳng định tình yêu thương của mình với Trương Sinh.
Kết thúc của câu chuyện còn phản ánh sự sáng tạo trong truyền thống dân gian của tác giả. Nguyễn Dữ đã tận dụng yếu tố kì ảo và cách kể dân gian để truyền đạt ý tưởng của mình. Tác phẩm xây dựng một thế giới dưới lòng đất đầy tình cảm và nghĩa tình. Phan Lang, một thủy thủ ở bến đò Hoàng Giang, được cứu thoát bởi một cô gái áo xanh trong giấc mơ. Sáng hôm sau, anh nhận được một con rùa xanh, và nhờ sự giúp đỡ của nó mà thoát khỏi hiểm nguy. Điều này không chỉ làm cho câu chuyện thêm hấp dẫn mà còn thể hiện ước mơ cao đẹp về nhân đạo. Kết thúc như vậy không chỉ phản ánh tư duy của tác giả mà còn đảm bảo tính logic của cốt truyện và phản ánh thực tế số phận của phụ nữ trong xã hội.
Mặc dù kết thúc có hậu, tuy nhiên không làm mất đi tính bi kịch của tác phẩm. Vũ Nương trở về nhưng chỉ thoáng qua giữa dòng sông. Sau lời cảm ơn đầy tiếc nuối: “Cảm ơn lòng cây, tôi không thể trở lại thế gian nữa”, “trong chốc lát, hình bóng của nàng mờ dần và biến mất”. Cô không thể quay lại, không phải chỉ vì lời hứa với Linh Phi mà chủ yếu là cô không còn gì để trở lại. Việc giải oan chỉ là một phần an ủi cho người khổ sở, không thể làm sống lại quá khứ. Dẫu biết oan đã được xoa dịu, nhưng hạnh phúc thực sự đã mất đi. Việc rời bỏ áo còn là biểu hiện sự chỉ trích đối với xã hội không công bằng, nơi mà phụ nữ không thể tìm thấy hạnh phúc. Điều này càng làm nổi bật tình cảm thương xót của tác giả đối với số phận của người phụ nữ trong xã hội.
Trong các truyện cổ tích, thường thấy kết thúc có hậu. Cô Tấm trở thành Hoàng Hậu, sống trong hạnh phúc; Thạch Sanh trở thành hoàng tử; Sọ Dừa trở thành trạng Nguyên… Kết thúc trong Chuyện người con gái Nam Xương cũng có hậu nhưng mang nét bi kịch. So với truyện dân gian, kết thúc của Nguyễn Dữ còn thêm sự trừng phạt đối với Trương Sinh. Vũ Nương không quay lại, khiến Trương Sinh phải sống trong ân hận vì lỗi của mình. Chính Trương Sinh phải chịu trách nhiệm về hành động ghen tuông của mình. Điều này là hợp lý và đúng đắn.
Có thể thấy rằng, hai ý kiến không đối lập mà bổ sung cho nhau, tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về phẩm chất cao quý của phụ nữ trong xã hội phong kiến. Cách kết thúc của tác giả không chỉ làm cho tác phẩm trở nên sống động mà còn khẳng định tài năng của ông. Chuyện người con gái Nam Xương là một bài học sâu sắc về gia đình, tình yêu và sự chung thuỷ. Đọc câu chuyện, người ta cảm thấy xót xa với số phận không công bằng của phụ nữ trong xã hội xưa, đồng thời cũng tức giận về xã hội bất công đã làm cho phụ nữ khó khăn đến vậy.
Khi kết thúc, hình ảnh của Vũ Nương hiện lên, mang lại cho chúng ta những cảm xúc sâu sắc. Câu chuyện thật bi thảm, đặc biệt là số phận của Vũ Nương. Kết cục đó làm cho lòng ta đau xót. Đau xót vì Vũ Nương là một người phụ nữ đoan trang, chung thủy, nhưng lại phải chịu cảnh tự tử để rửa sạch danh dự, và chỉ khi Trương Sinh hiểu được sự thật, lập đàn giải oan, thì đã là quá muộn màng. Có lẽ số phận của Vũ Nương cũng là bi kịch của nhiều người phụ nữ trong thời phong kiến. Số phận ấy mong manh như ngọn nến trước gió, sẵn sàng phụt tắt bất cứ lúc nào. Vũ Nương, Thúy Kiều… và biết bao số phận thảm thương khác của phụ nữ vẫn mãi bị lãng quên. Cách mạng tháng Tám là cơ hội tái sinh, đem đến cho phụ nữ một tương lai tươi sáng hơn.