Đàn bà không nên kể về Thúy Vân, Thúy Kiều là một quan điểm sai lầm của một số nhà Nho cổ xưa bênh vực lễ giáo phong kiến, phủ nhận tác phẩm Truyện Kiều. Chúng ta nên đọc Truyện Kiều để hiểu sự thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm, cũng như tài năng hiếm có của tác giả; đồng thời nhận thấy phẩm chất đáng quý của Thúy Kiều.
Dàn ý của bài làm văn số 5 lớp 11 đề 1
- Theo quan điểm của các nhà Nho, Thúy Kiều có những hành động không phù hợp với lễ giáo phong kiến. Đây là một cách đánh giá sai lầm, bảo thủ, chỉ nhìn nhận sự việc và con người một cách hẹp hòi.
- Thật ra, Kiều là một nhân vật đáng thương chứ không phải là đáng trách. Vì lòng hiếu thảo, Kiều phải hy sinh hạnh phúc cá nhân và cả tương lai của mình: Kiều bị bán để chuộc cha, rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng,...
- Cuộc đời của Kiều đầy đau khổ, lưu lạc và truân chuyên, hơn mười lăm năm chịu đựng ba lần tủi nhục sống trong lầu xanh: “Hết nạn này đến nạn khác/ Lầu xanh hai lượt, cầu cứu ba lần”.
- Nguyên nhân chính là do chế độ phong kiến tàn bạo gây ra, dù Kiều đã cố gắng vượt lên, thậm chí Kiều đã tự tử nhiều lần để giải thoát cho chính mình nhưng không thành công.
- Đọc Truyện Kiều, chúng ta nhận thấy sự tàn ác, thiếu nhân đạo của chế độ phong kiến đối với con người, đặc biệt là đối với phụ nữ.
Đừng kể chuyện về Thúy Vân, Thúy Kiều - Mẫu 1
Câu ngạn ngữ của ông cha ta xưa có nội dung như sau:
Đàn ông không nên kể về Phan Trần,
Đàn bà không nên kể về Thúy Vân, Thúy Kiều.
Câu nói này cấm đoán phụ nữ và đàn ông trong xã hội cũ không được đọc những câu chuyện tình lãng mạn, đàn ông không nên đọc những câu chuyện tình cảm nặng nề, yếu đuối, có ảnh hưởng đến phẩm chất của nam giới. Đây là quan niệm kém thời, không công bằng, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của con người.
Truyện về Phan Trần kể về câu chuyện tình yêu giữa chàng Phan Sinh và nàng Trần Liên, vì nhớ nhung nàng mà chàng sinh bệnh và tự vẫn. Đó là suy nghĩ không được chấp nhận đối với nam giới vào thời điểm đó. Còn Truyện Kiều là một câu chuyện tình lãng mạn nhưng đầy bi thảm.
Trong xã hội cổ, tư tưởng xã hội bị ảnh hưởng bởi triết lý Khổng Tử, phụ nữ không được tự do và không được hạnh phúc theo ý mình. Phụ nữ phải sống dựa vào cha, chồng và con cái. Những người phụ nữ vượt quá giới hạn của 'Tam Tòng, Tứ Đức' thì cuộc đời họ mất đi giá trị trước mắt gia đình và xã hội. Nghĩa là suốt đời họ bị kiểm soát bởi nam giới, từ khi còn nhà phải tuân theo cha, sau khi lấy chồng phải theo chồng, và khi chồng mất phải theo con. Người phụ nữ trong xã hội cổ phải đạt đủ cả bốn phẩm chất như: Công (giỏi nghề nghiệp và khéo léo trong mọi công việc), Dung (xuất sắc về ngoại hình, thân thiện), Ngôn (nói dịu dàng, lễ phép), Hạnh (dịu dàng, hiền lành, có đạo đức).
Cách suy nghĩ để đánh giá một người phụ nữ trong xã hội cổ là quá nghiêm khắc, quá tàn nhẫn. Tuy nhiên, trong truyện Kiều, nàng Kiều đã đưa ra quyết định tình yêu mà không có sự cho phép của cha mẹ, tự sang nhà Kim Trọng, bán mình vào lầu xanh làm gái mại dâm, có nhiều người đàn ông... Những hành động này không thể chấp nhận được trong xã hội lúc đó. Nếu phụ nữ đọc truyện này sẽ bị ảnh hưởng, có tư tưởng không tốt, không phù hợp với lễ giáo ông cha đã truyền bá. Tất cả người đọc truyện Kiều đều phải thấy rằng, nàng Kiều là người đáng khinh, nhơ nhớp và đáng thương:
'Không phải sự sai lầm của bạc mệnh,
Mà là đoạn đường dẫn đến kiếp tà dâm,
Bán mình trong bao nhiêu năm,
Dễ dàng mất đi lòng hiếu thảo,
Chán nản với cuộc sống.'
Câu nói có thể hiểu theo hai cách, là đàn bà không nên đọc Truyện Kiều, và những người như Thúy Kiều và Thúy Vân không nên được gọi là đàn bà. Trong xã hội hiện đại, con người đã có những quan điểm linh hoạt hơn, vì vậy nàng Kiều là người bị bất hạnh, đáng thương chứ không phải là đáng trách.
Bên ngoài cửa, rèm sương mờ,
Đi lang thang trong vườn đêm cô đơn.
Hành động của phụ nữ trong đêm khuya sang nhà một người đàn ông được coi là sai trái và hư hỏng, khó chấp nhận. Tuy nhiên, nếu ta đọc kĩ, chúng ta sẽ hiểu rằng Kiều sang nhà Kim Trọng vào đêm khuya chỉ để thề nguyện, không có bất kỳ lợi dụng vật chất hay thể xác nào. Việc thề nguyện là điều tự nhiên trong tình yêu trong sáng.
Nhiều quan điểm cho rằng, việc Kiều bán mình để chuộc cha là biểu hiện của đức tính, luân lý đang suy đồi, có nhiều cách để kiếm tiền chuộc cha mà lại chọn cách đáng xấu nhất. Nhưng thực tế, không phải Kiều muốn bán mình chuộc cha mà là xã hội thối nát đã thúc đẩy Kiều vào thế bí. Kiều cảm thấy nhục nhã nhưng vẫn can đảm vì lòng hiếu. Nàng đã hoàn thành bổn phận con cái đúng với quan niệm của lễ giáo phong kiến, nhưng lại bị lễ giáo đó chỉ trích.
Nếu gia đình Kiều không gặp tai họa, không có người mua Kiều về làm vợ, cuộc đời nàng sẽ không dẫn đến cái kết đau lòng như vậy. Kiều đã cố gắng thoát khỏi vũng lầy nhưng lại bị đắm sâu hơn khi cố gắng nổi lên.
Hiểu được những khổ cực mà Kiều phải chịu đựng, ta mới có thể khâm phục và tôn trọng. Nàng không chỉ là người tài năng vượt trội mà còn là người có phẩm hạnh cao quý, tấm lòng trong sáng, thanh cao. Nguyễn Du đã vẽ nên hình ảnh Kiều để thể hiện lòng nhân đạo đối với những người phụ nữ bất hạnh trong xã hội xưa.
Tính nhân đạo và tính vượt thời đại của truyện Kiều được Nguyễn Du thể hiện sâu sắc. Điều này gây ra sự thiếu hiểu biết của một số người xưa, người luôn lấy lễ nghĩa Nho giáo làm chuẩn mực tuyệt đối trong đánh giá con người.
Quan điểm 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' chỉ là quan điểm cổ xưa và sai lầm. Chúng ta không nên coi thường Kiều mà hãy thông cảm với nàng.
Đàn bà không nên kể về Thúy Vân, Thúy Kiều - Mẫu 2
Truyện Kiều đã lâu được coi là một tác phẩm vĩ đại, đỉnh cao của nghệ thuật thơ ca tiếng Việt và thi sĩ Nguyễn Du được thế giới công nhận là một danh nhân văn hóa. Tuy nhiên, trong thời phong kiến xưa, Truyện Kiều đã từng bị coi là 'dâm thư' và câu nói 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' vẫn được dân gian lưu truyền. Dựa trên giá trị bất hủ của Truyện Kiều, chúng ta có thể khẳng định rằng đây là một quan điểm sai lầm của một số nhà Nho bảo thủ.
Câu nói đầy đủ như sau:
Nam giới không nên kể về Phan Trần,
Đàn bà không nên kể về Thúy Vân, Thúy Kiều.
Ý nghĩa của câu này là răn đe nam nữ không nên noi gương Phan Trần trong thơ Phan Trần và Thúy Kiều trong Truyện Kiều, làm những điều vi phạm chuẩn mực đạo đức phong kiến. Các nhà Nho bảo thủ cho rằng Thúy Kiều là một cô gái hư vì đã coi thường chuẩn mực đạo đức phong kiến. Đạo đức đó quy định phụ nữ phải đoan chính, giữ chữ trinh làm đầu. Trong khi luân lí quy định nam nữ thụ thụ bất thân, nhưng Thúy Kiều lại dám: Lang thang trong vườn đêm một mình sang gặp Kim Trọng để thổ lộ tình cảm. Hơn nữa, trong cuộc đời lưu lạc mười lăm năm, Thúy Kiều phải trải qua nhiều thăng trầm: Hết nạn nọ đến nạn kia, lần thứ hai vào thanh lâu, hai lần tìm kiếm thanh y, kết duyên với Từ Hải sau khi đã hết tình với Thúc Sinh. Chính những điều đó đã khiến các nhà Nho bảo thủ chỉ trích Thúy Kiều mà không cần tìm hiểu sâu, phân tích nguyên nhân.
Chúng ta thấy họ đã đánh giá sai Thúy Kiều và Truyện Kiều với phiến diện, vì Thúy Kiều là người con gái đáng thương và đáng trân trọng. Nàng không chỉ tài sắc vẹn toàn mà còn có phẩm hạnh cao quý hiếm có. Trong tình yêu với Kim Trọng, Thúy Kiều là người tình xuất sắc. Nàng đã dám vượt qua những ràng buộc nghiêm ngặt của lễ giáo phong kiến để chủ động tìm kiếm hạnh phúc. Điều đó thể hiện sự dũng cảm và tiến bộ của Thúy Kiều.
Hãy quay trở lại mối tình đặc biệt của đôi bạn Kim Trọng, Thúy Kiều, một trong những nguyên nhân dẫn đến những quan niệm cực đoan. Hai người đã bị 'tiếng sét ái tình' đánh trúng ngay từ phút gặp gỡ đầu tiên trong một buổi chiều thanh minh, khi Người quốc sắc kia gặp thiên tài, tình cảm trong họ đã nảy nở. Sau khi chia tay, hình bóng Kim Trọng đã vẹn trong trái tim nhạy cảm của Thúy Kiều khiến nàng thao thức, băn khoăn suốt đêm: Liệu chúng ta có duyên gặp gỡ, hay chỉ là tình cờ? Tình yêu chân thành, mãnh liệt đã thúc đẩy nàng sang tâm sự với Kim Trọng. Sự dũng cảm và mạnh mẽ của Thúy Kiều đã gây sự ngạc nhiên và phản ứng dữ dội từ những người theo luân thường đạo lý của Nho giáo. Họ không thể chấp nhận một tiểu thư như Thúy Kiều có tư tưởng tự do và tình yêu vượt ra ngoài khuôn khổ của lễ giáo, và sợ rằng nàng sẽ là một gương xấu cho nữ giới. Điều này dễ hiểu trong thời phong kiến.
Thúy Kiều đã tự tìm đến người yêu với sự chân thành và mãnh liệt. Dù chủ động tìm gặp Kim Trọng nhưng Thúy Kiều luôn giữ sự đoan trang, đúng mực. Trong đêm thề ước, khi Kim Trọng đề nghị: Nếu có chuyện gì xảy ra, hãy giữ chữ trinh làm đầu. Thúy Kiều đã tế nhị, nhẹ nhàng khuyên nhủ:
Khi đã làm vương miện đời mình,
Theo chồng làm chữ trinh vẫn là ưu tiên.
Nếu phải tuồng trên con đường quyền quy,'
Thì con người đó sẽ cân nhắc tốt hơn!
Thúy Kiều không làm gì sai trái với đạo đức, nàng chỉ không tuân theo những ràng buộc cổ hủ, phi lí của chế độ phong kiến.
Nếu nhìn nhận và đánh giá tình yêu của Kim Trọng - Thúy Kiều theo quan niệm của thời nay, chúng ta thấy đó là một tình yêu hồn nhiên, trong sáng. Không bị chi phối, không vướng bận bởi bất cứ một toan tính vật chất nào, mà thuần là tiếng nói của hai trái tim, hai tâm hồn hòa hợp. Vì vậy, nó nhanh chóng trở thành lời thề nguyền vàng đá trăm năm. Tình yêu ấy dù dang dở nhưng vẫn ám ảnh mọi suy nghĩ, cảm xúc của Thúy Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc: Ở Vô Tích, ở Lâm Tri, nơi thì lừa đảo, nơi thì xót thương với thân phận tủi nhục: Thanh lâu hai lần, thanh y hai lần. Mỗi lần chìm đắm trong đau khổ, Thúy Kiều đều nghĩ tới Kim Trọng với tình cảm xót xa, nuối tiếc: Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý vẫn còn vương tơ lòng.
Tình yêu và phẩm giá của Thúy Kiều rất xứng đáng với hai câu thơ ca ngợi của Nguyễn Du: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay? Hay như nhận xét của Chu Mạnh Trinh, một nhà Nho tiến bộ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, rất mê hình tượng Thúy Kiều: Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên.
Đối với cha mẹ, Thúy Kiều là người con hiếu thảo hiếm có. Sau lời vu oan của một thằng bán tơ nào đó, gia đình nàng tan tác. Thúy Kiều đành phải ngậm ngùi gác mối tình đầu trong sáng, thiết tha với Kim Trọng rồi quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy ba trăm lạng vàng chuộc cha và em ra khỏi chốn ngục tù: Để lời thệ hải minh sơn, Làm con trước phải đền ơn sinh thành. Hành động bán mình chuộc cha của Thúy Kiều khiến người đọc cảm phục và thương xót.
Sau khi bước chân lên cỗ xe định mệnh: Đùng đùng gió giục mây vần, Một xe trong cõi hồng trần như bay, Thúy Kiều đã dấn thân vào kiếp đoạn trường. Suốt mười lăm năm lưu lạc, nàng luôn bị những thế lực đen tối vùi dập xuống bùn nhơ. Mấy lần nàng cố gắng vùng vẫy để thoát khỏi đêm tối của số phận nhưng lại càng bị nhấn chìm sâu hơn nữa. Làm sao chúng ta có thể trách một người con gái như Thúy Kiều?! Có trách là trách cái xã hội vạn ác đã nhẫn tâm chà đạp lên số phận của người phụ nữ đáng thương ấy.
Để thoát khỏi kiếp kĩ nữ tủi nhục chốn lầu xanh nhơ nhớp, Thúy Kiều đành chấp nhận làm vợ Thúc Sinh. Cuộc hôn nhân tạm bợ này kéo dài không được lâu thì nàng bị vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư bắt cóc về nhà làm con dâu, đày đọa không ngớt, đến đêm phải bỏ trốn khỏi Quan Âm Các. Thoát khỏi hang hùm, Thúy Kiều lại rơi vào bẫy của Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đau đớn và tuyệt vọng, nàng đã thốt lên những lời bất bình, uất hận:
Cắt hoa đào rồi gom lại, Thấy đời chán ngán khôn cùng. Nhiều tài năng khiến trời đất ghen ghét! Rửa sạch nước đắng nhưng bùn vẫn dâng lên không ngớt.
Từ Hải yêu Thúy Kiều vì nhan sắc và tài năng của nàng, đã chi tiền chuộc cô ra khỏi lầu xanh để cưới làm vợ. Anh chàng còn giúp nàng thực hiện ước nguyện đền ơn, giải oan, xoa dịu những nỗi buồn chất chứa trong lòng. Dù có cuộc sống sung sướng, đầy đủ bên người anh hùng hiểu mình, thương mình hết lòng, Thúy Kiều vẫn không thể quên được tình cũ, người xưa:
Thật tiếc chút nghĩa còn sót lại, Dù đã rời xa nhưng vẫn còn dây tơ trong lòng.
Xã hội đánh giá cao nam nhân và khinh thường phụ nữ với quan niệm: Nam thì có thể có nhiều vợ nhiều thiếp, còn nữ thì chỉ nên có một chồng. Từ đó, các nhà Nho dựa vào quan niệm này để buộc tội Thúy Kiều là: đã đi vào con đường tà dâm mà không xem xét kỹ để tìm ra nguyên nhân nào đã đẩy nàng vào tình cảnh éo le, trớ trêu đó.
Có lẽ chỉ Nguyễn Du là người thấu hiểu và đồng cảm nhiều nhất với nỗi đau khổ của Thúy Kiều, từ đó đưa ra nhận xét sâu sắc, đầy cảm xúc chua xót, đắng cay:
Nỗi đau của phụ nữ là điều chung, là lời nói bất di bất dịch!
Nguyễn Du đã dành tình cảm và lòng tôn trọng với Thúy Kiều qua những câu thơ hoa mỹ:
Như nàng tuân hiếu làm đức trinh, Không ai có thể làm mờ đi điều đó... Hoa tàn vẫn thấy sắc mới, Trăng tàn vẫn thấy rạng rỡ hơn ngày xưa...
Thúy Kiều không chỉ đáng thương mà còn đáng quý. Khi đọc Truyện Kiều, chúng ta chia sẻ nỗi đau và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn của cô gái tài sắc này.
Câu 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' không chỉ là một nhận xét sai lầm về nhân vật Thúy Kiều mà còn là một lời nhận định sai về Truyện Kiều của Nguyễn Du, khi coi đó là 'dâm thư', không nên đọc. Truyện Kiều là một kiệt tác của văn học dân tộc, là đỉnh cao của thơ ca tiếng Việt, vì vậy khi đánh giá Truyện Kiều, chúng ta cần phải có thái độ khách quan và đúng đắn.
Đọc Truyện Kiều, ta nhận thấy sự tàn ác của chế độ phong kiến đối với phụ nữ. Thúy Kiều - người con gái tài sắc và hiếu nghĩa - lại bị coi như một món hàng vô tri vô giác: Mua bán như thỏa thuận, chẳng cần vương lợi. Cuộc đời Thúy Kiều chìm trong khổ đau và nhục nhã vì những thế lực đen tối trong xã hội vô đạo. Sức mạnh của tiền bạc khiến những kẻ vô lương tàn ác đẩy Thúy Kiều từ cảnh đau khổ này sang cảnh đau khổ khác. Hơn hết, Truyện Kiều phản ánh rất rõ bức tranh về một xã hội rối ren, bất công, suy đồi.
Trải qua biển người sóng nước, Những gì nhìn thấy làm lòng đau đớn!
Truyện Kiều vươn tới đỉnh cao của giá trị nhân đạo vì nó là lời kêu gọi thấm thiết về số phận của một người con gái tài sắc vẹn toàn, nên được sống trong tình yêu và hạnh phúc nhưng lại phải chịu đựng nhiều khổ đau, nhục nhã.
Về mặt nghệ thuật, Truyện Kiều đạt tới đỉnh cao của văn chương, đặc biệt là nghệ thuật thơ ca tiếng Việt. Nguyễn Du thành công xuất sắc trên nhiều mặt như tả cảnh, tả người, thể hiện tâm lý nhân vật… Với Truyện Kiều, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào của dân tộc Việt Nam.
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều - Mẫu 3
'Truyện Kiều' là một tác phẩm vĩ đại của đại thi hào Nguyễn Du, kể về những nhân vật nhân cách đáng quý như Thúy Kiều và Thúy Vân, để lại nhiều ấn tượng đẹp trong lòng độc giả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, câu 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' là một quan niệm sai lầm, chúng ta cần phải có cái nhìn đúng đắn để hiểu rõ hơn ý nghĩa của câu nói này.
Nguyên văn của câu này là:
'Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.'
Ông cha ta xưa nhìn nhận rất nghiêm khắc về vấn đề này. Họ cấm phụ nữ, đặc biệt là con gái, đọc những câu chuyện lãng mạn. Đàn ông cũng bị cấm đọc những câu chuyện tình cảm ủy mị, yếu đuối có thể ảnh hưởng xấu đến đạo đức của nam giới. Câu nói trên thể hiện ý định của ông cha rằng phụ nữ không nên học hỏi mẫu hình của Thúy Vân, Thúy Kiều, cho rằng họ không tuân theo các nguyên tắc lễ giáo phong kiến.
Quan niệm đạo đức của xã hội phong kiến theo các nhà Nho xưa rất nghiêm khắc, họ ràng buộc con người, đặc biệt là phụ nữ phải tuân theo 'tam tòng tứ đức', giữ gìn 'tam cương ngũ thường', 'công dung ngôn hạnh'... đặc biệt là phải nghe theo cha mẹ, theo nguyên tắc 'cha mẹ đặt đâu con ngồi đó'. Theo quan điểm của họ, Thúy Vân và Thúy Kiều đã có những hành động không phù hợp với những nguyên tắc lễ giáo phong kiến. Kiều theo đuổi tình yêu được coi là tự do, thề non hẹn biển, đi khuya một mình, tự đính ước duyên mà không có sự cho phép của cha mẹ. Đây là hành vi bị cấm trong xã hội phong kiến của thời đại đó. Kiều bán mình, vào làm gái lầu xanh, vi phạm các nguyên tắc lễ giáo phong kiến như không được lấy nhiều chồng, coi trọng trinh tiết.
Trong thời đại đó, quan điểm đó có thể phù hợp với lối suy nghĩ truyền thống, nhưng đây là cách tiếp cận hạn hẹp và không công bằng. Đó là cách đánh giá hẹp hòi, sai lầm, không thể nhìn nhận đầy đủ và khách quan về cuộc sống của chị em, đặc biệt là Thúy Kiều. Thúy Kiều là một người con gái tài năng, có phẩm hạnh... Điểm nổi bật nhất ở nàng là tấm lòng hiếu thảo. Nàng hy sinh tình yêu, bán mình để cứu cha và em trai, làm tròn nghĩa hiếu. Những bất công, sự tàn bạo của chế độ phong kiến là nguyên nhân gián tiếp gây ra những bi kịch trong cuộc đời Kiều. Trong những thăng trầm của cuộc đời, Kiều vẫn giữ được phẩm giá cao quý. Nàng có tình yêu cao thượng, trước khi bán mình, nàng trao duyên lại cho Thúy Vân, hai lần lưu lạc lầu xanh nhưng vẫn trung thành với Kim Trọng nên bị kết tội một cách nghiêm khắc. Dù sống trong lầu xanh, nhơ nhuốc và đầy cạm bẫy, Kiều vẫn ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình:
'Như nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục được mình ấy vay'
Sống trong hoàn cảnh khó khăn, Thúy Kiều luôn cố gắng tìm cách thoát khỏi cuộc sống trong lầu xanh, nhưng số phận không ngừng đối xử tàn nhẫn, mỗi lần cố gắng là một lần thất bại sâu hơn. Cuộc đời đầy biến động, nỗi đau của Kiều là do xã hội tàn bạo gây ra, nàng không thể tránh khỏi số phận bi kịch. Tuy vậy, nhìn vào cuộc đời của Kiều, sau 15 năm lưu lạc, nàng được đoàn tụ với gia đình và với Kim Trọng. Với lòng trung thành với tình yêu đầu tiên trong sáng, nàng 'Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ' (biến tình yêu thành tình bạn tri âm tri kỉ). Dù số phận không công bằng, gánh nặng nặng lên vai, Kiều vẫn giữ vững phẩm giá cao quý, lòng hiếu thảo. Chính vì những lý do đó, 'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' là một quan điểm sai lầm, hạn hẹp.
Truyện Kiều là một kiệt tác văn học của dân tộc với nhiều giá trị sâu sắc. Tác phẩm phản ánh sự tàn bạo của xã hội phong kiến thời đó, cướp đi quyền sống của con người, đặc biệt là của phụ nữ, chỉ ra sự thái quá của các đạo giáo trong việc đánh giá nhân vật, chỉ trích, phê phán.... Phê phán một xã hội không tôn trọng quyền sống của phụ nữ. Từ đó ca ngợi, trân trọng nhân cách Thúy Vân, Thúy Kiều dù đã trải qua bao khó khăn vẫn tỏa sáng, ca ngợi vẻ đẹp của người phụ nữ và thể hiện lòng nhân đạo của Nguyễn Du.
'Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều' thực sự là một quan điểm sai lầm, hạn hẹp. Thúy Vân, Thúy Kiều là những nạn nhân của sự tàn bạo của xã hội phong kiến, của các nguyên tắc lễ giáo khắt khe, nhưng vẻ đẹp tâm hồn của họ vẫn rực rỡ và xứng đáng được tôn trọng. Đó là tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời là biểu hiện của vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam trong thời đại đó.
Thúy Vân, Thúy Kiều - Mẫu 4
“Truyện Kiều” là một kiệt tác của đại thi hào Nguyễn Du, là niềm tự hào của cả dân tộc Việt Nam. Trong tác phẩm đỉnh cao đó, Thúy Kiều và Thúy Vân với những phẩm chất đáng quý đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả qua nhiều thời kỳ. Tuy nhiên, người xưa đã có câu tục ngữ “Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều”. Đây là quan điểm sai lầm, hạn hẹp, cần được đánh giá lại.
Nguyên văn câu tục ngữ đó là:
“Đàn ông chớ kể Phan Trần,
Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều.”
Có thể nói cái nhìn của ông cha đối với Thúy Kiều và Thúy Vân ngày xưa rất khắt khe. Trong thời đại đó, đàn bà con gái bị cấm đọc những truyện tình lãng mạn, đàn ông cấm đọc những câu chuyện tình cảm nhạt nhòa, nhu nhược, có ảnh hưởng xấu tới tinh thần của nam giới. Quan điểm của ông cha về Kiều và Vân ngụ ý rằng phụ nữ, con gái không nên đọc (chớ kể) Truyện Kiều và không nên bắt chước Thúy Vân, Thúy Kiều. Ông cha cho rằng những người này không tuân theo lễ giáo phong kiến.
Vì sao lại có quan niệm như vậy? Nhìn vào thời bấy giờ, xã hội phong kiến với nhiều lễ nghi, thủ tục, và quan niệm đạo đức theo các nhà nho xưa, bao gồm lễ giáo phong kiến khắt khe, trói buộc quyền con người, đặc biệt là người phụ nữ. Phụ nữ trong xã hội xưa phải tuân theo “tam tòng tứ đức”, giữ 'tam cương ngũ thường', 'công dung ngôn hạnh'... và phải nghe theo cha mẹ theo nguyên tắc 'cha mẹ đặt đâu con ngồi đó'.
Tư tưởng ấy đã trói buộc hàng nghìn năm, ăn sâu vào ý thức cha ông thuở đó. Vì thế, theo quan điểm của các nhà nho, hành động ứng xử của Thúy Vân, Thúy Kiều là không phù hợp với lễ giáo phong kiến. Kiều theo đuổi tình yêu, thề non hẹn biển, đi khuya một mình, tự đính ước nhân duyên mà không có sự cho phép của cha mẹ. Điều này là điều tối kị trong xã hội phong kiến đương thời, tự do yêu đương mà không nghe theo cha mẹ. Kiều bán mình, trở thành gái lầu xanh, bị coi như người đàn bà lẳng lơ, vi phạm giáo điều không được lấy nhiều chồng, coi trọng trinh tiết.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, ý kiến đó đúng với tư tưởng đạo đức của xã hội phong kiến, nhiều lễ giáo và khắt khe, nhưng vẫn là quan điểm rất hạn hẹp. Quan niệm trên không hề nhìn nhận đúng cho hoàn cảnh của chị em Kiều, đặc biệt là Thúy Kiều. Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, có lòng hiếu thảo đáng ngợi ca. Tuy nhiên, hành động hiếu thảo của nàng lại bị hiểu lầm là lẳng lơ, vi phạm giáo điều. Nàng tự đính ước nhưng sẵn sàng hi sinh cả tình yêu, danh dự, và tự do, bán mình để chuộc cha và em trai.
Trong sóng gió cuộc đời, Kiều vẫn giữ trọn phẩm giá đáng trân trọng. Kiều có tình yêu cao thượng, trước khi bán mình, nàng đã trao duyên cho Thúy Vân. Dù đã trải qua nhiều nỗi đau ở lầu xanh, Kiều vẫn thủy chung với Kim Trọng, bị tội danh không đoan chính gắn trên người nàng. Sống trong lầu xanh nhiều bẩn thỉu và nhơ nhuốc, Kiều vẫn ý thức sâu sắc về nhân phẩm của mình, không để hoàn cảnh làm sa đọa bản thân.
Từ trong nghịch cảnh, Kiều luôn cố gắng tìm cách trốn thoát khỏi lầu xanh, nhưng số phận không ngừng buông tha, một lần lên là một lần bị nhấn xuống sâu hơn. Cuộc đời lưu lạc, khổ đau của nàng suy cho cùng cũng là do xã hội tàn bạo tạo ra, nàng không thể thoát khỏi bàn tay của bi kịch. Tuy nhiên, sau 15 năm lưu lạc, khi được đoàn tụ với gia đình và gặp lại Kim Trọng, Kiều vẫn tôn trọng mối tình đầu trong sáng, tôn trọng người yêu cũ và em gái. Nàng đã đổi tình yêu thành tình bạn tri âm tri kỉ. Cuối cùng, sau bao sóng gió, nàng vẫn làm tròn chữ hiếu, chữ trung, tài sắc vẹn toàn.
“Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều” là một quan điểm sai lầm, phiến diện. Thúy Vân, Thúy Kiều trong cơn bi kịch của xã hội phong kiến tàn bạo, của lễ giáo khắt khe vẫn toả sáng vẻ đẹp tâm hồn trong sáng, đáng được trân trọng. Đây là tấm lòng nhân đạo của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời cũng là vẻ đẹp của phụ nữ Việt Nam đương thời.