TOP 10 bài thuyết minh về Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về tinh thần yêu nước của Bác Hồ - Vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng sáng ngời mà các thế hệ sau nên học tập, noi theo để xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, đứng vững trước các cường quốc. Hãy cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để viết văn thuyết minh ngày càng xuất sắc hơn.
Dàn ý thuyết minh về Bác Hồ: Một tấm gương sáng cho thế hệ trẻ
Dàn ý số 1
I. Bắt đầu:
* Giới thiệu tổng quan về Chủ tịch Hồ Chí Minh:
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo cách mạng kiệt xuất, người chiến sĩ vì hòa bình, và một biểu tượng văn hóa của thế giới.
- Đối với dân tộc Việt Nam, ông được coi là Cha, là Bác, và là một người anh đáng kính.
- Đất nước ta tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
II. Phần chính:
* Tinh thần yêu nước sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
- Vào đầu thế kỷ XX, trải qua nỗi đau của nô lệ, Nguyễn Tất Thành, thanh niên tương lai của dân tộc, bắt đầu hành trình tìm kiếm con đường cứu nước trên toàn thế giới.
- Sau nhiều năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, năm 1941, ông trở về Việt Nam, lãnh đạo một cách trực tiếp cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
- Ông dẫn dắt toàn dân tiến lên trong cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945, đánh bại chế độ thực dân, phong kiến, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, độc lập và tự do, và trở thành Chủ tịch nước đầu tiên của nước Việt Nam.
- Ông thông thái và kiên trì lãnh đạo Đảng và nhân dân vượt qua hai cuộc kháng chiến lịch sử chống Pháp và chống Mỹ xâm lược.
- Lí tưởng và mục đích cao cả của ông luôn hướng về lợi ích của dân tộc, của quốc gia.
- Tình thương dân tộc của ông lan tỏa khắp nơi, sâu vào lòng mọi tầng lớp xã hội.
- Phong cách cao quý, sự khiêm tốn, và tính chân thành của ông gây ấn tượng mạnh mẽ.
* Sự tôn vinh từ dân tộc và nhân loại đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh là biểu tượng vĩ đại, anh hùng dân tộc, tên tuổi ông vẫn sáng mãi trong lịch sử và trong lòng nhân dân.
- Ông là nhà ngoại giao hòa bình kiệt xuất của thế giới và một biểu tượng văn hóa đối với nhân loại.
III. Kết luận:
- Chúng ta tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, biểu tượng của lòng tự hào dân tộc Việt Nam, là nguồn cảm hứng cho mọi thế hệ.
- Bác Hồ là hình mẫu lý tưởng về tính cách và phẩm chất, là biểu hiện cao quý của con người trong lịch sử nhân loại.
Dàn ý 2
I. Mở đầu
Việt Nam tự hào có Chủ tịch Hồ Chí Minh, người biểu tượng của tinh hoa truyền thống, là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng dân tộc, và danh nhân văn hóa toàn cầu.
II. Nội dung chính
1. Sơ lược về cuộc đời của Hồ Chí Minh
- Thông tin sinh tử
- Xuất thân, gia đình
2. Đóng góp quan trọng của Hồ Chí Minh
* Bác Hồ - người lãnh đạo kiệt xuất:
- Bác đã hoàn thành nhiệm vụ quan trọng với dân tộc, với quê hương.
- Bác là người khởi xướng Đảng Cộng Sản Việt Nam, và dẫn dắt Đảng trong cuộc chiến đấu giành độc lập cho dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân và phong kiến.
- Bác trở thành tổng thống đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đánh dấu bước đầu tiên của quốc gia trong hành trình tự do, độc lập. Bác đã dành cuộc đời mình cho lý tưởng cao cả: thống nhất đất nước, xây dựng một Việt Nam mạnh mẽ.
- Bác đã dẫn dắt nhân dân chiến thắng cuộc chiến chống Pháp và chiến tranh chống Mỹ, tôn vinh danh tiếng của Việt Nam trên trường quốc tế.
- Đóng góp của Bác có thể so sánh với sức mạnh của trời cao, đại dương rộng lớn.
* Bác Hồ - mẫu gương rực rỡ về triết lí “Ta vì mọi người”
- Bác sống một cuộc sống vô cùng giản dị, gần gũi với cuộc sống của nhân dân.
- Bác đã “hi sinh tất cả, chỉ biết quên mình”, dâng hiến cho đất nước là niềm vui và hạnh phúc của mình.
- Đức tính giản dị và khiêm tốn của Bác có sức ảnh hưởng và thuyết phục rất lớn đối với mọi người.
- Trong Bác, giao hoà đầy đủ 3 phẩm chất cao quý: đại trí, đại nhân, đại dũng.
* Tình cảm của dân tộc Việt Nam và thế giới dành cho Bác Hồ:
- Sự yêu mến, tôn trọng và lòng biết ơn sâu sắc.
- Bác được gọi là vị lãnh tụ cách mạng xuất sắc, chiến sĩ hòa bình kiệt xuất, danh nhân văn hóa của nhân loại.
- Bác sẽ mãi sống trong lòng của đất nước và nhân dân.
III. Kết luận
- Danh tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mang lại vinh quang cho dân tộc và quốc gia Việt Nam.
- Các thế hệ sau đang nỗ lực thực hiện ước mơ của Bác Hồ, xây dựng Tổ quốc mạnh mẽ, văn minh, đứng vững bên cạnh các cường quốc trên thế giới.
Thuyết minh về Bác Hồ - Mẫu 1
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại, một danh nhân văn hóa của thế giới. Ông như một người cha già của dân tộc, có công lớn trong việc tìm đường giải phóng dân tộc, dẫn dắt nhân dân thoát khỏi kiếp lầm than lầm than.
Chính nhờ con đường mà Người đã chỉ dẫn chúng ta, chúng ta mới có cơ hội đánh bại hai đế quốc lớn là Pháp và Mỹ, giúp dân tộc thoát khỏi sự áp bức của các nước thuộc địa và đế quốc. Chỉ có con người mới có thể tự do kiểm soát cuộc sống của mình, làm chủ vận mệnh của mình.
Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước vĩ đại, với lòng yêu nước mạnh mẽ, sinh ra trong thời kỳ mà đất nước chúng ta đang chìm trong bóng tối của nô lệ. Nhân dân chúng ta đau khổ, chịu đựng, lao động vất vả mà không có đủ thức ăn, do bị lợi dụng và bóc lột bởi chế độ phong kiến và chế độ thực dân Pháp.
Cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19, kinh tế của đất nước chúng ta đối mặt với khủng hoảng. Chế độ phong kiến dưới triều vua Khải Định được xem là thời kỳ của sự thiếu nhân quyền, tham vọng, và bất công, bỏ quên trách nhiệm với dân và đất nước. Thực dân Pháp giả mạo làm người văn minh, xâm nhập và thống trị đất nước ta.
Chúng đã lan truyền nền văn minh dưới hình thức tiêu thụ rượu và ma túy, làm dân ta rơi vào cảnh nghiện ngập để dễ dàng kiểm soát. Dù có những nhà yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, họ cũng đã nhiều lần cố gắng tìm cách giải cứu đất nước nhưng đều thất bại vì phương pháp họ lựa chọn chưa phù hợp.
Trong tình trạng khó khăn này, vào năm 1911, khi mới 21 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định ra nước ngoài. Thay vì chọn các quốc gia láng giềng, ông chọn Pháp, một đất nước mà ông tin rằng có thể học hỏi về tự do, công bằng, và nhân đạo, cũng như về những kẻ áp bức và giữ chân dân tộc ta.
Ông muốn tới Pháp để hiểu sâu hơn về quốc gia đó. Trong chuyến đi này, ông đã đến Nga và chứng kiến sự thành công của cách mạng vô sản trong Cách mạng Tháng Mười Nga. Đó là lúc ông bắt đầu tiếp xúc với chủ nghĩa Marx - Lenin và tìm ra con đường giải phóng dân tộc Việt Nam.
Sau đó, ông trở về nước và tham gia vào việc hợp nhất ba tổ chức Đảng tồn tại ở cả nước: Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng Cộng sản Đông Dương và Liên minh Cộng sản Đông Dương.
Ba tổ chức này đều do những nhà tri thức yêu nước, mang tư tưởng tiên tiến nhưng thiếu khả năng lãnh đạo, thiếu đoàn kết trong một tổ chức đồng nhất, không biết cách kêu gọi người nông dân, công nhân - những người có vẻ như không có tri thức nhưng lại sẵn sàng cầm súng, cầm dao chống lại kẻ thù.
Chính nhờ việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam, lá cờ đỏ sao vàng đã trở thành quốc kỳ của đất nước.
Nhờ có Đảng Cộng sản dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam đã vượt qua từng thử thách, từ chiến thắng này đến chiến thắng khác. Từ Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước ta đã lập nên Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ngày 2-9-2015, chiến thắng trước thực dân Pháp năm 1954, thống nhất hai miền Nam-Bắc năm 1975, tất cả những thành tựu đều là nhờ công lao của Người, Lãnh tụ vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ông thực sự là một nhà lãnh đạo xuất sắc, là người cha già của cả dân tộc. Như thơ của Tố Hữu đã viết:
Con tim của bác rộng lớn
Ôm trọn non sông, trọn cuộc đời con người.
Thuyết minh về Chủ tịch Hồ Chí Minh - Mẫu 2
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hành trình cao đẹp của một người cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc tài ba, một chiến sĩ quốc tế kiệt xuất, đã dành trọn cuộc đời cho Tổ quốc, cho nhân dân, cho lý tưởng cộng sản, cho độc lập, tự do của các dân tộc, cho hòa bình và công bằng trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (sinh ra với tên Nguyễn Sinh Cung, sau đổi tên thành Nguyễn Tất Thành khi đi học, và có nhiều bí danh khác như Nguyễn Ái Quốc) sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, và qua đời vào ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội. Người sinh ra trong một gia đình truyền thống yêu nước, lớn lên ở một vùng đất nắng gió anh hùng, nơi đã chứng kiến nhiều cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Sống trong thời kỳ đất nước bị áp bức dưới chế độ thực dân Pháp, từ nhỏ Chủ tịch đã nảy sinh lòng yêu nước và nhiệt huyết cách mạng.
Năm 1911, Chủ tịch Hồ Chí Minh rời quê hương để tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc. Từ năm 1912 đến năm 1917, ông đã đi khắp nơi trên thế giới, sống cùng với nhân dân lao động và các dân tộc thuộc địa, chia sẻ khó khăn và hiểu biết sâu sắc về ước nguyện của họ. Người sớm nhận ra cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của Việt Nam là một phần của cuộc chiến lớn của nhân loại. Ông đã tích cực tham gia vào việc đoàn kết dân tộc, giành lại tự do và độc lập.
Cuối năm 1917, Bác trở lại Pháp sau thời gian ở Anh, tiếp tục hoạt động trong phong trào Việt kiều và công nhân Pháp. Năm 1919, với tên Nguyễn Ái Quốc, Bác đại diện cho người Việt Nam tại Pháp gửi bản yêu sách tới Hội nghị Versailles, đòi quyền tự do cho dân tộc Việt Nam và các nước thuộc địa. Dưới ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và Luận cương của Lênin về dân tộc và thuộc địa, vào tháng 12 năm 1920, Bác tham gia Đại hội Đảng Xã hội Pháp và ủng hộ Đảng gia nhập Quốc tế III, Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1921, cùng với những người yêu nước từ các thuộc địa Pháp, Bác thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4 năm 1922, Hội phát hành báo “Người cùng khổ” nhằm đoàn kết và hướng dẫn phong trào giải phóng dân tộc ở các thuộc địa. Nhiều bài báo được in vào tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp”, xuất bản năm 1925. Tháng 6 năm 1923, Bác sang Liên Xô làm việc trong Quốc tế Cộng sản. Tháng 10 năm 1923, Bác được bầu vào Hội đồng Quốc tế Nông dân. Bác tham gia các hội nghị quốc tế và kiên trì bảo vệ tư tưởng của V.I. Lênin về dân tộc và thuộc địa.
Tháng 11 năm 1924, Bác về Quảng Châu chọn thanh niên Việt Nam ở đó để huấn luyện, viết sách “Đường Kách Mệnh” – văn kiện quan trọng cho cách mạng Việt Nam. Năm 1925, Bác thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ra báo “Thanh niên”, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tháng 5 năm 1927, Bác rời Quảng Châu sang Mátxcơva, sau đó đi nhiều nơi trên thế giới tham dự các hội nghị quốc tế. Từ tháng 7 năm 1928 đến tháng 11 năm 1929, Bác hoạt động trong phong trào vận Đảng Việt kiều ở Thái Lan, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Mùa xuân năm 1930, Bác chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Cửu Long, đặt nền móng cho cách mạng giải phóng dân tộc. Đảng ngay sau đó lãnh đạo cao trào cách mạng 1930 - 1931, với cao điểm là Xô Viết Nghệ Tĩnh, sự kiện đầu tiên của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Tháng 6 năm 1931, Hồ Chí Minh bị cầm tù tại Hong Kong bởi chính quyền Anh. Đây là một giai đoạn khó khăn trong cuộc đời cách mạng của Hồ Chí Minh. Mùa xuân năm 1933, Người được phóng tự do.
Từ năm 1934 đến 1938, Người nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các vấn đề dân tộc thuộc địa tại Matxcơva. Kiên trì con đường cách mạng của Việt Nam, Người tiếp tục theo dõi phong trào trong nước. Tháng 10 năm 1938, Người rời Liên Xô về Trung Quốc để liên lạc với tổ chức Đảng. Ngày 28 tháng 1 năm 1941, Hồ Chí Minh trở về nước sau hơn 30 năm xa quê hương. Tháng 5 năm 1941, Người triệu tập Hội nghị lần thứ Tám Ban chấp hành Trung ương Đảng, quyết định thành lập Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) và tổ chức lực lượng vũ trang giải phóng.
Cuộc chiến tranh thế giới thứ II dần khép lại với các chiến thắng của Liên Xô và các nước đồng minh. Tháng 5 năm 1945, Hồ Chí Minh rời Cao Bằng đến Tân Trào (Tuyên Quang) và tổ chức Hội nghị toàn quốc của Đảng và Đại hội Quốc dân, quyết định tổng khởi nghĩa. Đại hội Quốc dân bầu ra Ủy ban giải phóng dân tộc Việt Nam, do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch.
Tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình, Người đọc “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và trở thành Chủ tịch đầu tiên của nước.
Ngay sau đó, thực dân Pháp tấn công, âm mưu xâm chiếm Việt Nam lần nữa. Trước nguy cơ này, Hồ Chí Minh kêu gọi cả nước đứng lên bảo vệ độc lập tự do với tinh thần quyết tâm. Người khởi xướng phong trào thi đua yêu nước và lãnh đạo cuộc kháng chiến toàn dân, từng bước giành thắng lợi.
Tại Đại hội thứ Hai của Đảng (1951), Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch Đảng Lao động Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chủ tịch, cuộc kháng chiến vĩ đại của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược đã đạt được chiến thắng to lớn, kết thúc bằng chiến thắng lịch sử tại Điện Biên Phủ (1954), giải phóng hoàn toàn miền Bắc.
Từ năm 1954, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng Lao động Việt Nam lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tại Đại hội lần thứ Ba của Đảng Lao động Việt Nam, diễn ra vào tháng 9 năm 1960, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đại hội này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình, thống nhất nước nhà”. Tại Đại hội, ông được bầu lại làm Chủ tịch Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Năm 1964, đế quốc Mỹ khởi động cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân tấn công miền Bắc Việt Nam. Hồ Chí Minh động viên toàn bộ nhân dân Việt Nam vượt qua gian khó, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Ông nói: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do! Đến ngày chiến thắng, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước mình đàng hoàng hơn, lớn đẹp hơn”.
Từ năm 1965 đến năm 1969, cùng với Trung ương Đảng, Hồ Chí Minh tiếp tục lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện cách mạng trong điều kiện cả nước có chiến tranh, xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, thực hiện thống nhất đất nước.
Rõ ràng, suốt cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đều dành cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Ông là vị lãnh tụ đáng kính của nhân dân Việt Nam.
Bản thuyết minh về Bác Hồ - Mẫu 3
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình nhà nho, gốc gác từ nông dân, tại làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống chiến đấu kiên cường chống lại sự thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến ông từ khi còn thiếu niên.
Với lòng yêu nước sâu sắc, lòng thương dân sâu nặng, sự nhạy bén về chính trị, ông bắt đầu suy ngẫm về nguyên nhân của thành bại của các phong trào yêu nước thời đó và quyết tâm đi tìm con đường cứu dân, cứu nước.
Tháng 6 năm 1911, ông rời Việt Nam, suốt ba mươi năm hoạt động, ông đã đi đến Pháp và nhiều quốc gia khác ở châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Ông tham gia vào các phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa làm việc kiếm sống, vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu các lý thuyết cách mạng. Năm 1917, chiến thắng của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa ông đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, ông nhận ra rằng đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giai cấp.
Vào năm 1919, Ông tham gia Đảng Xã hội Pháp và tham gia vào phong trào công nhân Pháp. Tháng 6 năm 1919, thay mặt cho Hội Người Việt Nam Yêu Nước tại Pháp, Ông gửi Bản Yêu Sách của nhân dân Việt Nam tới Hội nghị Versailles (Pháp), yêu cầu Chính phủ Pháp thừa nhận quyền tự do và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Tháng 12 năm 1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tours, Ông bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và tham gia vào việc thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện này đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Ông, từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến chủ nghĩa cộng sản.
Năm 1921, tại Pháp, Ông tham gia vào việc thành lập Hội Liên Hiệp các Dân tộc Thuộc Địa, với mục đích tuyên truyền cách mạng trong nhân dân các nước thuộc địa. Ông viết nhiều bài trên các tờ báo 'Người Cùng Khổ', 'Đời sống Thợ thuyền'. Đặc biệt, Ông viết tác phẩm 'Bản Án Chế Độ Thực Dân Pháp' để chỉ trích mạnh mẽ chế độ thực dân và đánh thức lòng yêu nước của nhân dân các nước thuộc địa. Tất cả các bài viết của Ông được chuyển về nước một cách bí mật và lưu truyền trong mọi tầng lớp nhân dân. Ngày 30 tháng 6 năm 1923, Ông đến Liên Xô và bắt đầu một giai đoạn hoạt động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ nghĩa ngay trên đất nước của Lênin vĩ đại. Tại Đại hội lần thứ I Quốc tế Nông dân (10/1923), Ông được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Năm 1924, Ông tham dự Đại hội lần thứ V của Quốc tế Cộng sản và được bầu làm cán bộ Ban phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân. Nguyễn Ái Quốc được phân công theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở một số nước châu Á.
Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (Hồng Kông), Ông tổ chức Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước, thống nhất thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm 1940, Ông tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản ở nước ngoài, đồng thời theo dõi chặt chẽ phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ đạo đúng đắn cho Ban Chấp hành Trung ương Đảng của chúng ta.
Sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, năm 1941, Ông trở về nước, tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám, quyết định chiến đấu chống Pháp, đuổi Nhật, lập Mặt trận Việt Minh, xây dựng lực lượng vũ trang, tăng cường phong trào đấu tranh cách mạng quần chúng, sẵn sàng cho cuộc khởi nghĩa tổng lực giành chính quyền toàn quốc.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chí Minh, ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại khu rừng Sam Cao, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng, Đội Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân ra đời do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy. Tháng 8 năm 1945, Ông cùng Trung ương Đảng tổ chức Hội nghị toàn quốc của Đảng và chủ trì Đại hội Quốc dân ở Tân Trào. Đại hội đồng thuận với chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng và Tổng bộ Việt Minh, bầu Hồ Chí Minh làm Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thay mặt Chính phủ tạm thời, Ông đã ra lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền toàn quốc.
Cuộc đời của Bác Hồ không chỉ nổi tiếng với những công lao to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc mà còn là bởi phong cách sống giản dị không giống với bất kỳ nguyên thủ quốc gia nào khác trên thế giới. Vẻ đẹp trong phong cách của Hồ Chí Minh đến từ sự giản dị trong cuộc sống hàng ngày. Hàng loạt những bằng chứng cụ thể và toàn diện đã được đưa ra để chứng minh điều đó. Dù có tư cách là một nhà lãnh đạo, nhưng Bác Hồ lại chọn sống trong một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh chiếc áo như là 'cung điện' của mình. Chiếc nhà sàn chỉ có vài phòng, được sử dụng để tiếp khách, họp Bộ chính trị, làm việc và ngủ. Trang phục của Bác cũng vô cùng đơn giản, với bộ áo bà ba nâu, chiếc áo trắn thủ, đôi dép lốp thô sơ. Món ăn hàng ngày của Bác cũng rất đơn giản, toàn là các món ăn dân dụ như cá kho, rau luộc, dưa góp, cà muối, cháo hoa. Bác sống một mình với ít đồ đạc như một chiếc va li nhỏ và một bộ quần áo, vài vật kỷ niệm. Có vẻ như, chúng ta có thể cảm nhận được hình ảnh của chính người nông dân Việt Nam trong con người Bác - một vị lãnh tụ của dân tộc. Lối sống giản dị của Người khiến mỗi người dân Việt Nam cảm nhận được sự gần gũi, thân tình không thể tìm thấy được trong bất kỳ một vị chủ tịch hay tổng thống nào khác trên thế giới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là tấm gương sáng ngời để các thế hệ sau học tập và làm theo.
Thuyết minh về Bác Hồ - Mẫu 4
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời của Người là một cuộc sống trong sáng, cao đẹp của một vị anh hùng dân tộc, một chiến sĩ cộng sản kiên cường. Người đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Sen, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội. Tên khai sinh của Bác là Nguyễn Sinh Cung, trong suốt cuộc đời, Người đã có nhiều tên gọi khác nhau, mỗi cái tên liên quan đến một giai đoạn hoạt động cách mạng riêng và trong các hoàn cảnh cụ thể.
Bác Hồ sinh ra trong một gia đình yêu nước và ở quê hương có truyền thống anh dũng chống giặc ngoại xâm. Sinh ra trong bối cảnh nước mất, dân chúng lầm than dưới ách đô hộ của Thực dân Pháp đã khiến lòng yêu nước của Bác bùng cháy và nảy nở ý chí đánh đuổi thực dân từ khi Bác còn rất trẻ. Trong thời kỳ đó, Bác Hồ đã chứng kiến nhiều nỗi đau của dân chúng và các cuộc chiến chống thực dân của dân tộc thất bại và rơi vào bế tắc.
Cũng vào thời điểm đó, Nguyễn Sinh Cung quyết định ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Bác quyết định đi sang các nước phương Tây và sống đồng lòng với nhân dân lao động. Trải qua ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài, Bác đã đi qua nhiều quốc gia, học hỏi và hoạt động cách mạng, nghiên cứu để tìm đường cứu nước. Năm 1917, sau thành công của cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của cộng sản quốc tế, Bác đã tiếp cận với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Bác nhận ra con đường để giải phóng dân tộc là cách mạng vô sản. Năm 1919, Bác gia nhập Đảng xã hội Pháp, tích cực tham gia đòi quyền tự do và bình đẳng cho dân tộc. Sau 30 năm ở nước ngoài, Bác đã trở về lãnh đạo phong trào cách mạng của dân tộc. Quân và dân ta đã đạt được nhiều chiến thắng, đặc biệt là chiến thắng của Cách mạng tháng Tám năm 1945 và chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Khi hòa bình được thiết lập, Bác đã lên làm lãnh đạo đất nước, đưa ra nhiều chính sách, khuyến khích nhiều phong trào và tiếp tục lãnh đạo nhân dân chiến đấu giải phóng miền Nam để thống nhất đất nước.
Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một người có tình yêu nước mãnh liệt. Một nhà lãnh đạo tài ba, dũng cảm. Ngoài ra, Bác còn được thế giới biết đến với vai trò của một nhà thơ vĩ đại. Mặc dù thời gian Bác dành cho thơ không nhiều nhưng Bác là người có tâm hồn thơ nhạy cảm, lãng mạn và có phong cách tự do, tự tại nên Bác có nhiều bài thơ gắn liền với từng giai đoạn của cuộc chiến tranh của dân tộc và hoạt động cách mạng của Bác.
Trong thời gian hoạt động ở Trung Quốc, Bác Hồ đã từng bị chính quyền Tưởng giam giữ. Trong thời gian này, Bác đã viết một tập thơ có giá trị và được nhiều người biết đến, tập thơ “Nhật ký trong tù”. Có thể thấy rằng, dù hoàn cảnh ra sao thì Bác vẫn rất tự do, nhạy cảm trước thiên nhiên, trước thời đại. Thơ của Bác là sự kết hợp tinh tế giữa bản sắc dân tộc và văn hóa thời đại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã trở thành tấm gương về nhiều mặt cho nhiều tầng lớp mọi người học tập. Bác không chỉ tài năng, dũng cảm, quyết tâm mà còn mang nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Một người là chủ tịch của một quốc gia nhưng lại vô cùng giản dị. Sự giản dị của Bác đã được bác Phạm Văn Đồng mô tả rõ trong bài “Đức tính giản dị của Bác Hồ”. Giản dị từ cách ăn mặc, sinh hoạt cho đến lời nói, cử chỉ. Những chiếc áo nâu cũ, đôi dép cao su đã đi theo Bác từ những ngày chiến khu đến khi về thủ đô. Chúng đã đi theo Bác trên mọi con đường. Và những bữa ăn giản dị, nơi ở là một căn nhà sàn nhỏ, đơn giản. Bác luôn gần gũi với nhân dân, yêu thương và chăm sóc cho đời sống của mọi người, đặc biệt là các em nhỏ. Mỗi câu chuyện về Bác đều mang lại cảm xúc sâu lắng, những bài học mà chúng ta có thể học hỏi. Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân yêu quý và gọi một cách thân mật, kính trọng: Bác Hồ - người cha già của dân tộc.
Hồ Chí Minh là một nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Khi nhắc đến Bác, nhân dân Việt Nam luôn kính trọng và yêu mến vô cùng.
Thuyết minh về Bác Hồ - Mẫu 5
Hồ Chủ tịch là một lãnh đạo cách mạng vĩ đại, một chiến sĩ cộng sản kiệt xuất, và một danh nhân văn hóa của thế giới. Với dân tộc Việt Nam, Người là Cha, là Bác, là Anh, Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ… (Tố Hữu). Đất nước và dân tộc chúng ta tự hào về Hồ Chủ tịch - một con người đơn giản và vĩ đại - là biểu tượng của truyền thống bốn ngàn năm lịch sử vẻ vang.
Vào đầu thế kỷ XX, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành hiểu được sự nhục nhã dưới chế độ nô lệ của thực dân Pháp, do đó đã lấy Phạn Bội Châu, Phan Chu Trinh làm gương mẫu để tìm đường cứu nước. Rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) vào năm 1911, Nguyễn Tất Thành quyết tâm phải đi đến nước Pháp để tìm hiểu kẻ thù, từ đó có cách để đấu tranh chống lại chúng.
Sau ba mươi năm hoạt động cách mạng ở nước ngoài, chiến sĩ cộng sản quốc tế Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp rất nhiều cho phong trào đấu tranh bảo vệ quyền lợi của các dân tộc thuộc địa bị áp bức trên toàn thế giới và trở thành người sáng lập của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vào năm 1941, với kinh nghiệm và kiến thức sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã về nước, trực tiếp lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, dân tộc ta quyết tâm phá vỡ xiềng xích của chế độ phong kiến suy tàn và ách nô lệ của thực dân Pháp cùng phát xít Nhật, khôi phục chủ quyền độc lập, tự do. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cộng sản lão thành, đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập và trở thành Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp, Bác Hồ thông suốt lãnh đạo cả Đảng và nhân dân, truyền cảm hứng cho cuộc chiến và kết thúc một cách hào hùng với chiến thắng Điện Biên Phủ làm rung chuyển thế giới. Sau khi miền Bắc được giải phóng, nhân dân đã nỗ lực xây dựng quê hương và hỗ trợ miền Nam trong cuộc chiến. Bác Hồ, thông minh và quả cảm, với tấm gương suốt đời chiến đấu và hy sinh cho dân và nước, đã thống nhất toàn Đảng, toàn quân, toàn dân để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, khẳng định truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Lòng nhân ái của Hồ Chủ tịch phản ánh lí tưởng cao cả của một cuộc đời hy sinh cho độc lập tự do của dân, của nước: Tôi muốn tự do cho dân tộc, ấm no cho đồng bào. Tôi chỉ có một mong muốn, đó là đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Tình yêu thương con người của Bác sâu sắc và bao la. Trong thời gian bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam oan ức, Bác thương em bé mới nửa tuổi phải đi cùng mẹ vào lao tù. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, Bác thương các em nhỏ phải chịu khổ vì thiếu thốn, vì bom đạn: Nay vì lợi ích quốc gia gian nan, trẻ em cũng phải gánh chịu những khó khăn. Bác luôn quan tâm và yêu thương các em với tình cảm chân thành, ruột thịt: Ai yêu thương trẻ em, không kém Bác Hồ Chí Minh.
Bác hiểu biết và chia sẻ với người lao động cần cù, đầy cám dỗ, lo lắng về mất mùa, về nguy cơ bão táp: Nghe nói năm nay mùa khô, Mười phân sản lượng chỉ vài phân… Khắp nơi những người nông dân mỉm cười hạnh phúc, Nông thôn rộn ràng tiếng ca hân hoan...
Tình thương của Bác Hồ lan tỏa khắp các tầng lớp nhân dân:
“Bác tồn tại như một phần của bầu trời và đất đá của chúng ta,
Yêu thương từng bông lúa, từng cành hoa,
Tự do cho mỗi linh hồn bị cầm tù,
Thức ăn cho tuổi thơ, vải lụa cho người già”
(Bác ơi, Tố Hữu)
“Tấm lòng của Bác như vậy, luôn thương yêu chúng ta,
Yêu thương cuộc sống, yêu thương mỗi cây cỏ và bông hoa,
Chỉ biết hy sinh bản thân để tất cả đều được hạnh phúc,
Như dòng sông mãi mãi chảy đi qua mọi chướng ngại”
(Theo dấu chân của Bác, Tố Hữu).
Bác suốt cuộc đời dành hết tâm huyết, hi sinh cho lợi ích của đất nước và dân tộc: Nuôi dưỡng tất cả chỉ để quên mình (Theo dấu chân của Bác, Tố Hữu). Bác sống một cuộc sống đơn giản, trong sạch, không bao giờ tự cao tự đại. Tính khiêm nhường, sự hòa hợp giữa tư duy vĩ đại và tính cách tự nhiên, lòng tốt bụi phủ, liên kết hòa hợp với con người và thiên nhiên của Bác đã tạo ra một sức mạnh thuyết phục lớn đối với dân tộc và nhân loại.
Hồ Chủ tịch là một tâm hồn khiêm nhường, đơn giản và vĩ đại. Sự tài năng và phẩm hạnh của Bác xứng đáng với những danh hiệu cao quý mà toàn nhân loại đã tôn vinh: lãnh tụ cách mạng vô sản xuất sắc, chiến sĩ hòa bình, Danh nhân văn hóa thế giới. Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam tự hào về Chủ tịch Hồ Chí Minh, bởi Bác là kết tinh tinh hoa của bốn ngàn năm lịch sử và thời đại. Bác Hồ là hình ảnh đẹp nhất về một Con Người chân chính.
Thuyết minh về Bác Hồ - Mẫu 6
“Tháp mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Nếu như Xô - Viết tự hào vì có Mác - Lênin; nước Mỹ tự hào với Oasinhton thì Việt Nam tự hào biết mấy khi có Bác Hồ. Bác không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một doanh nhân văn hóa của cả nhân loại. Hình ảnh Bác Hồ kính yêu luôn là hình mẫu lý tưởng để nhân dân ta noi gương, học tập.
Bác Hồ tên thật là Nguyễn Sinh Cung, quê ở Nghệ An. Là một nhà nho yêu nước, không chịu chấp nhận tình trạng mất nước, đất nước bị chia cắt, với bàn tay trắng Bác đã lên đường ra nước ngoài học hỏi. Người đi khắp năm châu bốn bể, học những điều tốt, những điều khoa học, những điều mới để truyền dạy cho dân ta; người đọc và nghiên cứu những nguyên tắc, để rồi áp dụng vào tình thế đất nước để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn nhất, giúp nhân dân ta thoát khỏi ách thống trị lầm than. Trong suốt hành trình đó với bao gian nan, nguy hiểm, khó khăn, có khi bị truy bắt, nhưng người không bao giờ nản chí. Người sử dụng tuổi trẻ và sức lực của mình để hiến dâng cho dân tộc, tạo ra cuộc sống an lành cho nhân dân. Có thể kể đến những đóng góp lớn trong con đường cứu nước gian khó của người như: Bản yêu sách 8 điểm; Bản án chế độ thực dân Pháp (1925); Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946). Mọi điều Bác làm, từ những điều đơn giản nhỏ nhặt nhất cũng đều bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước và thương dân rộng lớn. Và với sự công phu, cực nhọc, suy nghĩ chân thành dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác, quân và dân ta đã chiến đấu mạnh mẽ và đạt được chiến thắng, đuổi đuổi bè lũ xâm lược ra khỏi bờ cõi đất nước, trả lại toàn vẹn tổ quốc, mang lại hòa bình và sự ấm no cho dân tộc.
Khi hòa bình được thiết lập lại, Chủ tịch Hồ đã đứng ra điều hành đất nước với nhiều chính sách phát triển, đối nội và đối ngoại hợp lý để cải thiện đời sống nhân dân, ổn định và thúc đẩy kinh tế phát triển. Ông được nhân dân tin yêu với danh xưng Anh hùng giải phóng dân tộc.
Một con người mạnh mẽ, dũng cảm trong quân sự và chính trị, nhưng Bác Hồ luôn là một tâm hồn nhạy cảm, lãng mạn, một nhà văn văn hóa được thế giới công nhận. Thơ của Bác ít ỏi, không dài nhưng rất sâu sắc, ngắn gọn và ý nghĩa. Tiếng thơ của ông mang nhiều màu sắc và phong cách khác nhau. Có lúc là tiếng thơ chiến đấu hùng hồn:
“Chúng ta có đoàn Việt Minh
Đủ khả năng lãnh đạo chúng ta đấu tranh
Mai sau khi nhiệm vụ hoàn thành
Rõ danh Nam Việt, rạng rỡ Lạc Hồng
Dân ta hãy nhớ bốn chữ:
Đồng lòng, đồng sức, đồng tâm, đồng đội!”
Có lúc lại là tiếng trái tim rạo rực, vui mừng với thiên nhiên và cuộc sống:
“Giam cầm không có rượu, không có hoa,
Mà sống sao thoải mái đến vậy?
Nhìn người như mặt trời và ngắm mặt trăng,
Mặt trăng và mặt trời cùng sáng soi lòng người”
Dù ở bất kỳ tình huống nào, từ những bài thơ, Bác vẫn thể hiện tình yêu non sông nước nhà và tâm hồn rộng lớn, lạc quan, yêu thiên nhiên và sự sống; say mê với vẻ đẹp; trân trọng những điều nhỏ nhặt và giản dị nhất. Thơ của Bác kết hợp giữa bản sắc văn hóa dân tộc và thời đại, tạo nên một phong cách thi ca riêng biệt mang dấu ấn của Hồ Chí Minh.
Không chỉ là một tài năng vĩ đại, Bác Hồ còn là tấm gương đạo đức sáng ngời cho mọi người. Bác để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng quân dân và bạn bè quốc tế bởi tính thanh bạch, liêm khiết và giản dị. Sự giản dị của Bác thể hiện qua cách ăn mặc và sinh hoạt: tấm áo nâu sờn và đôi dép cao su đã đi theo Bác khắp nơi; khi đi xa, Bác luôn yêu cầu đầu bếp chuẩn bị cơm sẵn để nhân lúc nghỉ ngơi dọc đường; mặc dù là một vị lãnh tụ vĩ đại, nhưng Bác chọn một căn nhà sàn nhỏ ở cuối vườn để làm việc và nghỉ ngơi. Bác luôn gần gũi với nhân dân, thấu hiểu cuộc sống của họ và chăm sóc cho tất cả, đặc biệt là trẻ em... Bác luôn dẫn đầu trong các phong trào, khuyến khích mọi người học tập và làm theo để phát triển kinh tế cá nhân và cộng đồng, ví dụ như: Phong trào diệt đói; diệt dốt; phong trào thể dục thể thao; và tết trồng cây. Mỗi câu chuyện về Bác đều làm lòng người xúc động và đầy ý nghĩa.
Tích tụ trong hình dáng nhỏ bé đó là vẻ đẹp vĩ đại. Bác Hồ – vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người cha già yêu thương của con em Việt Nam và là một tấm gương đạo đức sáng ngời. Dù đã ra đi, nhưng tư tưởng chỉ đạo của Bác, những câu chuyện và bài học đó vẫn được mọi người tiếp tục và phát triển. Những tư tưởng ấy sẽ là đèn soi sáng để Đảng, Nhà nước và nhân dân học tập, lao động, cố gắng và phấn đấu để đưa đất nước phát triển; xứng đáng với các cường quốc trên thế giới như Bác đã từng nói.
Thuyết minh về Bác Hồ - Mẫu 7
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo yêu nước và cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là một cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ cho sự cách mạng của dân tộc. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, Người còn để lại một di sản văn học to lớn với nhiều giá trị. Ở bất kỳ vị trí nào, Người đều hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Hồ Chí Minh sinh vào ngày 19 tháng 5 năm 1890 trong một gia đình theo triều pháp tôn giáo yêu nước. Quê hương của Người làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Thân phụ là cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân mẫu là bà Hoàng Thị Loan. Trong tuổi trẻ, Người từng dạy học tại trường Dục Thanh (Bình Thuận) trong một thời gian ngắn. Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn), Người đã bắt đầu hành trình tìm đường cứu nước. Sau hơn 30 năm tìm hiểu ở nước ngoài, Bác đã tiếp xúc với lý thuyết Mác - Lênin và tìm ra hướng đi cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Tháng 2 năm 1941, Người trở về nước và trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước. Tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh đi sang Trung Quốc để tìm kiếm sự giúp đỡ quốc tế. Tại đây, Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ và giam giữ suốt mười ba tháng. Sau khi được phóng thích, Bác trở về nước và tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng, cùng nhân dân Việt Nam khởi nghĩa để chiếm chính quyền trong cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945. Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng mà còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Đối với Bác, văn chương là một loại vũ khí chiến đấu quan trọng phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Các tác phẩm của Người luôn tập trung vào tính chân thực và tính dân tộc của văn học. Mỗi khi viết, Người luôn tự hỏi: “Viết cho ai?” (đối tượng), “Viết vì cái gì?” (mục đích), sau đó mới quyết định “Viết cái gì?” (nội dung), “Viết như thế nào?” (hình thức). Tùy thuộc vào trường hợp cụ thể, Bác đã áp dụng phương châm đó theo các cách khác nhau. Vì vậy, các tác phẩm của Bác luôn chứa đựng những tư tưởng sâu sắc, nội dung thực tế cùng với hình thức nghệ thuật phong phú, đa dạng.
Di sản văn học mà Hồ Chí Minh để lại không chỉ lớn về phạm vi, phong phú về thể loại mà còn đa dạng về phong cách nghệ thuật. Đầu tiên, chúng ta không thể không nhắc đến văn chính luận. Từ những năm đầu của thế kỷ XX, các bài văn chính luận dưới bút danh Nguyễn Ái Quốc viết bằng tiếng Pháp đăng trên các tờ báo, như cùng khổ, Đời sống thợ thuyền… đã thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ. Các tác phẩm này đã chỉ trích những chính sách tàn ác của chế độ thực dân Pháp, kêu gọi người nô lệ bị áp bức đoàn kết lại, đấu tranh. Một số tác phẩm tiêu biểu như Con rồng tre, Bản án chế độ thực dân Pháp... Khi nhắc đến văn chính luận của Người, không thể không nhắc đến “Tuyên ngôn độc lập” - một tài liệu chính trị có ý nghĩa lịch sử to lớn của dân tộc Việt Nam. Cùng với đó là Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (1946), Không có gì quý hơn độc lập tự do (1966)... Ngoài các tác phẩm chính luận, Bác còn sáng tác một số truyện ngắn, ký, tiểu luận. Hầu hết đều là những truyện viết bằng tiếng Pháp như: Pa-ri (1922), Lời than vãn của bà Trưng Trắc (1922), Vi hành (1923)... Tất cả các tác phẩm này đều nhằm mục đích chỉ trích tội ác của thực dân và phong kiến đối với nhân dân lao động các nước thuộc địa. Cuối cùng là thơ ca - danh tiếng của Hồ Chí Minh gắn với tập thơ chữ Hán “Ngục trung nhật ký” (Nhật ký trong tù) được sáng tác trong thời gian Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch giam giữ. Người đã ghi lại những điều mắt thấy tai nghe trong nhà tù, trên đường đi đày. Tập thơ đã phản ánh một cách chân thực về chế độ nhà tù Quốc dân đảng với ý nghĩa chỉ trích sâu sắc. Ngoài ra, tập thơ cũng thể hiện được tính cách cao quý của Hồ Chí Minh.
Phong cách sáng tác của Hồ Chí Minh vô cùng đa dạng và độc đáo. Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, rành mạch, chứng minh thuyết phục, giàu tính luận chiến. Các tác phẩm truyện kí của Người rất hiện đại, thể hiện sự chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Thơ ca thể hiện sâu sắc và tinh tế vẻ đẹp tâm hồn của Bác. Những bài thơ với lời lẽ đơn giản, mộc mạc và có sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại. Đáng chú ý là phong cách sống của Bác cũng rất độc đáo. Hiếm có nguyên thủ quốc gia nào lại chọn lối sống giản dị như Hồ Chí Minh. Bác giản dị trong cuộc sống hàng ngày từ cách ăn, mặc đến cách ở. Bác giản dị trong cách nói, cách viết. Nhưng đó không phải là sự khổ hạnh của nhà tù, mà là sự lựa chọn - một cách để nuôi dưỡng tinh thần. Cuộc đời hoạt động chính trị của Bác là tấm gương rạng ngời về đạo đức để thế hệ sau bắt chước.
“Hồ Chí Minh đẹp nhất tên người” - cuộc đời của Người là một kết tinh của tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại. Cả sự nghiệp cách mạng và sự nghiệp văn chương của Bác đều rất quý giá.
Bản thuyết minh về Bác Hồ - Tập 8
Trong cuộc hành trình gian nan và vô tận, con người luôn tìm kiếm những hình mẫu có thực trong cuộc sống để tôn vinh và noi theo với hy vọng trở nên hoàn thiện hơn. Một trong những hình mẫu lý tưởng đó là Bác Hồ yêu quý của chúng ta. Bác là người lãnh đạo vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc, và đồng thời là một nhân văn tầm cỡ của thế giới.
Nếu Lênin là niềm tự hào của nước Nga, Fidel Castro là tia sáng của nhân dân Cuba, thì Bác Hồ chính là người anh hùng vĩ đại trong trái tim của người Việt Nam. Bác đã chiếu sáng con đường thành công của cách mạng Việt Nam. Làm thế nào một người con bé nhỏ từ xứ Nghệ có thể thực hiện được điều lớn lao đó? Trước Bác, cũng có nhiều người đi qua khắp nơi trên thế giới, nhưng họ đi thám hiểm, đi buôn, đi truyền giáo. Người đi qua khắp thế giới để cứu dân tộc của mình chỉ có một. Đó chính là Bác Hồ yêu quý của dân tộc Việt Nam. Mỗi nơi mà Bác đi qua, Bác để lại một biểu tượng đẹp về lòng yêu nước. Bác lên tàu tìm đường cứu nước khi còn trẻ, và khi trở về, mái tóc Bác đã chuyển màu bạc. Bác không tiếc nuốt trọn tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác đã mang lại cuộc sống an lành mơ ước cho người dân Việt Nam. Mọi việc Bác đã làm, từ nhỏ đến lớn, đều bắt nguồn từ lòng yêu nước chân thành và mãnh liệt. Chính tình yêu nước đó đã tạo nên Bác Hồ, người anh hùng dân tộc của chúng ta ngày nay.
Dưới sự lãnh đạo thông minh của Bác, quân dân ta đã dũng cảm đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược với một niềm tin tuyệt đối vào ngày chiến thắng. Tuy nhiên, Bác không chỉ cứng rắn trong hoạt động quân sự mà còn rất tinh tế trong lĩnh vực văn học. Thơ của Bác không phong phú nhưng rất sâu sắc và ý nghĩa. Từng câu từng chữ đều thể hiện sự kiên định, niềm hy vọng, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dù lúc ấy Bác đang trong tù hay sống giữa vô vàn gian khổ. Một danh nhân đã từng nói: “Khi nói về văn học Việt Nam, trước tiên cần hiểu về Bác, hiểu về con người văn hóa Hồ Chí Minh”. Quả thật như vậy, Bác đã kết hợp tinh hoa văn hóa nhân loại với cội nguồn văn hóa Việt Nam, tạo ra một nét văn hóa rất riêng biệt ở Bác. Mọi điều trên đã thuyết phục UNESCO trao tặng Bác danh hiệu “Danh nhân văn hóa thế giới”.
Không chỉ có tài năng, Bác còn là một tấm gương đạo đức rực rỡ. Biết bao người chiến sĩ cộng sản từng sống và làm việc với Bác thường không khỏi xúc động khi nhớ lại những ký ức đó. Bác luôn để lại ấn tượng đẹp trong lòng mỗi người gặp Bác bởi vẻ giản dị, mộc mạc và cực kỳ trong sạch. Trong mỗi lời nói của Bác đều ẩn chứa những nguyên tắc đạo đức mà không khô khan mà lại nhẹ nhàng, sâu sắc và dễ dàng lọt vào lòng người. Lối sống của Bác cũng rất bình dân, mộc mạc như mục đích sống của Bác là hết lòng vì nước, vì dân. Bác không có lâu đài như các vua chúa khác mà sống trong ngôi nhà sàn đơn giản để có thể hòa mình với thiên nhiên. Tủ quần áo của Bác cũng rất đơn giản, chỉ là hai bộ quần áo mà Bác thường mặc cùng vài kỷ vật sau những chuyến đi nước ngoài. Là một người lãnh đạo vĩ đại nhưng Bác lại giản dị và mộc mạc như thế. Mỗi câu chuyện về Bác đều là một bài học đạo đức nhẹ nhàng và sâu sắc.
Ngày nay, thế hệ trẻ luôn được khuyến khích học tập và làm việc theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ. Đó là một hướng dẫn rất quan trọng trong cuộc sống của học sinh: “Học tập tốt, lao động tốt”, “Khiêm nhường, trung thực, dũng cảm” là những lời dạy mà chúng tôi luôn ghi nhớ. Càng hiểu biết và tìm hiểu về Bác Hồ, chúng tôi càng tự hào về đất nước Việt Nam của mình, một đất nước nhỏ bé nhưng đã sinh ra những danh nhân vĩ đại.
Hồ Chí Minh là một người chiến sĩ cộng sản kiên trung, là một người con anh hùng của dân tộc Việt Nam, cũng là một vị lãnh đạo vĩ đại của dân tộc. Bác là tia sáng của lý tưởng và niềm tin trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Dù đã đi xa, nhưng sao vẫn cảm thấy Bác đang dõi theo từng bước tiến của dân tộc. Ai dám hiến dâng cuộc đời cho nhân dân, cho loài người, thì người đó trở nên bất tử. Và Bác Hồ của chúng ta sẽ sống mãi cùng với non sông đất nước.
Bản thuyết minh về Bác Hồ - Mẫu 8
Nếu có ai hỏi: Niềm tự hào của người dân Việt Nam là gì? Tôi sẽ không ngần ngại trả lời mạch lạc, rõ ràng: “Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam”.
Bác Hồ (19/5/1890 - 2/9/1969) tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung; quê làng Kim Liên (làng Sen), xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Người sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, cha là cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Mẹ là cụ bà Hoàng Thị Loan. Trước khi tham gia hoạt động cách mạng, Người học chữ Hán, sau đó học tại trường Quốc học Huế, có thời gian dạy học tại trường Dục Thanh (Phan Thiết). Ngày 5 tháng 6 năm 1911 tại bến Nhà Rồng, Người ra đi tìm đường cứu nước. Năm 1941 trở về nước lãnh đạo phong trào cách mạng. Bên cạnh sự nghiệp cách mạng, Người còn để lại một số di sản văn học quý giá, xứng đáng là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc. Trong sự nghiệp hoạt động Cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay đổi tên của mình nhiều lần. Trong số đó, có những cái tên nổi tiếng như: Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí Minh,… đây cũng là những cái tên liên quan đến nhiều tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn học của Người.
Con dân Việt Nam chúng ta ai cũng ghi nhớ những đóng góp to lớn của Bác Hồ cho đất nước. Những công lao của Người không thể nào diễn tả hết. Một vị lãnh đạo ra đi tìm con đường cứu nước và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Qua nhiều khó khăn, Nguyễn Ái Quốc đã xác định rằng để thành công, phong trào giải phóng dân tộc và phong trào công nhân quốc tế phải kết hợp. Dưới sự chỉ đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân tộc ta đã giành thắng lợi rực rỡ trong cuộc Cách mạng Tháng Tám, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và chiến thắng trong cuộc kháng chiến chống Pháp, đưa miền Bắc tiến lên đường lối chủ nghĩa xã hội. Ngày 2/9/1969, Bác Hồ đã ra đi và để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân bản Di chúc với tầm tư tưởng và trí tuệ của thời đại.
Con cháu đời sau không thể không bày tỏ sự cảm kích với những đóng góp vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với đất nước. Dù đã ra đi từ lâu, nhưng Người sẽ mãi sống trong trái tim của chúng ta - những công dân Việt Nam đã, đang và sẽ được hưởng một nền độc lập dân tộc mà Hồ Chí Minh và thế hệ tiền bối đã mang lại.
Đoạn văn thuyết minh về Bác Hồ
Bác Hồ - vị lãnh đạo vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Người đã soi sáng con đường thành công của cách mạng Việt Nam. Làm thế nào một người con bé nhỏ từ xứ Nghệ có thể thực hiện điều lớn lao ấy? Trước Bác, có rất nhiều người đi khắp thế giới, nhưng họ đi với mục đích khác nhau. Người đi khắp thế giới để thám hiểm, buôn bán, truyền giáo,… Chỉ có một người đi để cứu dân tộc mình. Đó chính là Bác Hồ - người anh hùng của chúng ta. Dù đi đến đâu, Bác luôn để lại dấu ấn đẹp về tình yêu nước. Bác lên tàu đi tìm con đường cứu nước khi còn trẻ, và khi trở về, mái tóc Người đã bạc phơ. Bác không tiếc cống hiến cả cuộc đời thanh xuân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác đã mang lại cuộc sống ấm no, mơ ước cho nhân dân Việt Nam. Tất cả những gì Bác đã làm, từ nhỏ đến lớn, đều bắt nguồn từ tình yêu nước chân thành và mãnh liệt. Chính tình yêu nước ấy đã tạo nên Bác Hồ - người anh hùng dân tộc của chúng ta ngày hôm nay.