Bàn luận về vai trò quan trọng của Hiền tài trong phát triển quốc gia, bao gồm dàn ý và 9 bài mẫu xuất sắc, được tổng hợp bởi Mytour từ các bài viết của các học sinh giỏi có điểm cao. Điều này sẽ giúp các bạn có thêm nguồn cảm hứng và ý tưởng trong việc viết nghị luận xã hội, đồng thời áp dụng kiến thức và kĩ năng về văn nghị luận vào thực tế cuộc sống.
Kế hoạch viết về vai trò của Hiền tài trong phát triển quốc gia
I. Giới thiệu
Hướng dẫn và giới thiệu ý nghĩa của tư tưởng
Trong quá khứ, Thân Nhân Trung đã viết rằng “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” để nhấn mạnh điều này và để kêu gọi những người có tài năng đóng góp cho đất nước. Anh ấy đã nói 'Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp'. Quả thật, sự tồn tại của một quốc gia phụ thuộc vào tài năng của mỗi cá nhân trong quốc gia đó. Đó là quá khứ, nhưng trong thời đại hiện đại, vai trò của người tài là gì đối với sự phát triển mạnh mẽ của một quốc gia?
II. Nội dung chính
1. Ý nghĩa của câu nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
- “Hiền tài” là những người có trình độ cao, kiến thức rộng và đạo đức, có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của quốc gia.
- “Nguyên khí” được hiểu là sức mạnh vật chất và tinh thần ẩn chứa trong con người, trong đất nước, mà mỗi quốc gia có và mong muốn có, có giá trị to lớn với mỗi quốc gia.
- “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” có ý nghĩa: Hiền tài là yếu tố quan trọng nhất, là nền tảng để tạo nên sự sống và sự phát triển của đất nước. Một quốc gia có nhiều hiền tài và biết cách sử dụng tài năng đó thì sẽ phát triển mạnh mẽ.
2. Lý giải vì sao “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”
- Một quốc gia nếu thiếu hiền tài sẽ không thể duy trì được sự độc lập, sự phát triển kinh tế, và sự phát triển của dân tộc.
- Trong quá khứ, lịch sử đã chứng minh rằng nếu không có những nhân vật hiền tài như Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp,... thì liệu đất nước của chúng ta có thể đạt được sự độc lập và hòa bình như ngày nay không.
- Trong thời đại hiện đại, nếu không có những nhà nghiên cứu khoa học dày công tìm ra các loại thuốc chữa bệnh, liệu cuộc sống của chúng ta có được an yên hay không. Những người hiền tài đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc sống xã hội của chúng ta.
- Người tài không chỉ là những người thông minh, có tài, sáng tạo, và có kiến thức sâu rộng về mọi lĩnh vực. Sự kiến thức sâu rộng này đóng góp vào sự phát triển và hiện đại hóa của quốc gia, mở rộng giao lưu với các quốc gia khác trên thế giới.
- Hiền tài cũng là những người có khả năng nhìn xa, suy luận sâu, và có tầm nhìn chiến lược, đưa ra các hướng đi quan trọng cho xã hội trong tương lai. Các hướng đi của họ có ảnh hưởng lớn đến đất nước vì xã hội luôn thay đổi, đòi hỏi người tài phải chú ý và xây dựng những hướng đi phù hợp cho dân tộc.
- Hiền tài không chỉ là những người thông minh, mà còn là những người có phẩm chất tốt, sẵn lòng hy sinh, để suy nghĩ vì lợi ích của cộng đồng và tương lai phát triển của cả đất nước.
3. Cách thức để phát huy vai trò của người tài trong sự phát triển toàn diện của đất nước trong xã hội hiện nay
- Việt Nam hiện nay là một quốc gia đang phát triển, và việc lãng phí nguồn nhân lực trí tuệ lớn, tạo ra khoảng cách giàu nghèo rõ rệt giữa nước ta và các cường quốc khác.
- Một lực lượng trí thức trẻ đang tìm kiếm cơ hội phát triển bản thân ở các quốc gia có điều kiện sống và phát triển năng lực mạnh mẽ hơn. Nhiều người, sau khi học tập và làm việc ở các quốc gia phát triển như Anh, Pháp, Mỹ,... đã quyết định định cư lâu dài, không quay trở lại làm việc trong nước.
- Để giữ chân được những người hiền tài, đất nước cần có những phương án dài hạn và hợp lý để khuyến khích và sử dụng người tài. Chính phủ cần có các chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực này một cách hợp lý và hiệu quả. Tạo điều kiện thuận lợi để người tài phát triển tài năng và đóng góp hiệu quả nhất cho sự phát triển giàu mạnh của đất nước, tạo ra môi trường làm việc thích hợp và xứng đáng.
- Mỗi cá nhân cần không ngừng phát triển, cập nhật kiến thức và đạo đức để trở thành hiền tài của đất nước, góp phần vào sự phát triển toàn diện của đất nước.
III. Kết luận
- Trong bối cảnh hội nhập ngày nay, nhu cầu phát triển của đất nước ngày càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Để cùng bước chân với các quốc gia mạnh mẽ trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần có nhiều người hiền tài hơn nữa. Điều này làm cho tư tưởng của Thân Nhân Trung lại được khẳng định tính đúng đắn và tiến bộ của nó. Điều này chính là chìa khóa cho sự thịnh vượng thực sự của một quốc gia.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia - Mẫu 1
Thế hệ hiện nay, có lẽ nhiều người biết đến việc Thân Nhân Trung viết bài văn cho tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, ông ghi nhận về trí thức 'Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và ngày càng phát triển, nguyên khí suy thì nước yếu và ngày càng suy giảm.' Điều này là tư tưởng quan trọng nhất về văn hóa, giáo dục của Thân Nhân Trung, được trình bày một cách tập trung và rõ ràng trong bài ký đề tên bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3(1442). Đây cũng là khát vọng của toàn dân. Tư tưởng này, trước hết, khẳng định tầm quan trọng của hiền tài đối với quốc gia, là việc mang lại sự thịnh vượng cho đất nước.
Trong bài kí, Thân Nhân Trung không nói về người tài mà nói về 'hiền tài', Hiền tài theo quan niệm của người xưa, cũng như của tác giả, là người có cả tài năng không chỉ học rộng biết nhiều, có khả năng giúp vua trị nước, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân; cũng như có đức hạnh, là người gương mẫu về đạo đức, suốt đời chăm sóc bản thân, đem hết tài năng và đức hạnh phục vụ cho đất nước. Đó là những người “tuân thủ trung nghĩa để thực hiện những việc mà họ học được, làm nên những công việc vĩ đại, làm cho mọi người sau này kính trọng và khâm phục họ...”. Về khái niệm “nguyên khí', trong kho tàng thư tịch cổ Trung Hoa đã có nhiều sách đề cập. Sách “Bạch hổ Thông' viết: “Địa giả, nguyên khí sơ sinh, vạn vật chi tổ' (Đất là nơi sản sinh ra nguyên khí, tổ của muôn loài), xem nguyên khí là khí đại hoá lớn lao. Còn sách 'Đường thư' viết: Liễu Công Độ thiệp nhiếp sinh. Thường viết: “ Ngô sở vô thuật, bất dĩ nguyên khí tả hỉ nộ nhĩ' (Liễu Công Độ giỏi việc dưỡng sinh. Ông thường nói: Ta vốn không có thuật gì, chẳng qua biết dựa vào tính khí mà điều hoà sự yêu ghét, mừng, giận mà thôi), xem nguyên khí là để chỉ tính khí con người ta. Thần Nhân Trung đã mượn nghĩa từ sách Đường thư: nguyên khí chính là tình khí và vận dụng một cách sáng tạo.
Có thể nói, trong lịch sử văn hóa, giáo dục trước đời Lê Thánh Tông, chưa có ai đặt vấn đề như Thân Nhân Trung. Mọi người đều biết mối quan hệ giữa hiền tài và sự thịnh suy của một triều đại, một quốc gia. Tuy nhiên, việc coi người “hiền tài là nguyên khí quốc gia' chỉ bắt đầu từ Thân Nhân Trung, một câu tổng kết chính xác cho cả một chiến lược văn hóa, giáo dục của mọi thời đại, mọi chính thể.
Tư tưởng đó, một lần nữa được nhắc lại trong bài kí ghi tên bia Tiến sĩ khoa Đính Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487): 'Nếu thiếu người tài đông đảo thì làm sao có thể có sự thịnh vượng thanh bình' và 'để có nền văn minh, quốc gia thịnh vượng đó là phải có hiền tài'.
Quan niệm 'Hiền tài là nguyên khí quốc gia' được Thân Nhân Trung đưa ra trong các triều đại phong kiến Việt Nam từ thời vua Lê Thánh Tông trở đi được coi là một tư tưởng quan trọng trong chính sách văn hoá, giáo dục.
“Nhân tài thịnh, chính trị lên cao, vận nước nhà rực rỡ vô cùng, càng sâu xa càng lâu dài, mà càng sáng sủa lớn lao thêm” (Bia số 4, khoa Bính Tuất, niên hiệu Quang thuận 7, 1467). “Quốc gia có người tài cũng như thân thể con người có nguyên khí. Nguyên khí cường thịnh thì con người được hưởng thọ lâu dài, người tài đông đảo thì quốc gia được thái bình vững chãi “(Bia số 29, khoa Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định 20, 1616).
Quan điểm như vậy là khẳng định hiền tài quyết định số phận của đất nước, dân tộc. Tư tưởng này dẫn đến sự cầu nguyện hiền tài. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc 'chăm sóc nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài tăng cường nguyên khí'.
Có thể nói, ở Việt Nam thời phong kiến, chưa bao giờ giáo dục, thi cử lại thịnh hành cũng như vai trò của người trí thức được coi trọng, đãi ngộ như thời Lê Thánh Tông. Do đó, trong suốt gần 40 năm trị vì, Lê Thánh Tông đã dẫn nhà Lê tiến triển tới đỉnh cao về mọi mặt, đạt đến vinh quang trong công việc xây dựng và phát triển đất nước vào thế kỷ XV. Sử gia Ngô Sĩ Liên tán dương Lê Thánh Tông là vị vua “anh hùng, tài lược”. Vai trò của nhà nước, người đứng đầu chế độ phong kiến là nhà vua. Để bồi dưỡng hiền tài, theo Thân Nhân Trung người trên (nhà vua) phải biết chăm sóc cho dân, làm việc cho dân khiến cho quốc gia mạnh mẽ dân giàu. 'Hiền tài phồn thịnh có liên quan đến sức sống của trời đất và nguồn gốc văn hóa của thánh nhân'. Nói về sự giáo dưỡng của thánh nhân là nói về sự quan tâm đặc biệt của nhà vua đối với việc giáo dục lựa chọn và đãi ngộ những người tài. Thời kỳ của Thân Nhân Trung, Lê Thánh Tông là một nhà văn minh có tầm nhìn chính trị, trình độ văn hoá, tinh thần yêu nước và dân, quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng người tài trong công cuộc xây dựng quốc gia đưa nước Đại Việt trở thành thịnh vượng. Việc đào tạo người hiền tài, sử dụng người tài của vua Lê Thánh Tông được thể hiện rõ nét trong 12 kỳ thi tiến sĩ với 502 người đỗ, trong đó có 10 người đỗ hạng nhất, hạng nhất danh, và thu hút sự tham gia của nhiều hiền tài vào cuộc cải cách mạnh mẽ của quốc gia. Nhà vua cũng cho xây dựng các tấm bia khắc tên những người thi đỗ và đặt ở Quốc Tử Giám.
Tiếp tục thụ hưởng bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà văn hoá, nhà giáo dục vĩ đại, suốt đời dành cho sự độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân, 'chỉ có một khao khát, khao khát tột cùng, đó là làm cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, mọi người đều được học hành'. Vì vậy, sau khi đất nước giành được độc lập, Người coi việc giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu để làm sống lại đất nước. Người chỉ ra rằng: 'Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu'. Người kêu gọi mọi người Việt Nam nắm bắt kiến thức mới để xây dựng tổ quốc; đặc biệt là trẻ em phải cố gắng học tập để đưa Việt Nam, dân tộc Việt Nam vươn lên bên cạnh các cường quốc trên thế giới.
Ngoài việc chăm sóc giáo dục, Người còn áp dụng chính sách thu hút tài năng. Người đã triển khai vào chính phủ tạm thời, các bộ, một số nhà tri thức là những người yêu nước như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, các luật sư, bác sĩ, kỹ sư phương Tây như Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Tôn Thất Tùng... và một số nhà tri thức yêu nước đang làm việc ở Châu Âu như Trần Đại Nghĩa, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Thọ, Đặng Văn Ngữ... về nước tham gia cuộc chiến. Các nhà văn, nghệ sĩ nổi tiếng của thời đại cũng đã đứng lên dưới lá cờ của Bác như Huy Cận, Xuân Diệu, Lưu Hữu Phước, Văn Cao, Thế Lữ, Nguyễn Tuân, Nguyễn Xuân Khoát, Nguyễn Đình Thi... Trong cuộc chiến đấu chống Pháp, đội ngũ tri thức này đã có đóng góp xứng đáng vào chiến thắng của dân tộc. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất Tổ quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến việc đào tạo và sử dụng tài năng. Người đặt ra nhiệm vụ cần đào tạo những người Việt Nam mới, có đầy đủ phẩm chất và tài năng, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người coi giáo dục văn hoá là một mặt trận quan trọng của cách mạng trong từng giai đoạn cụ thể và có tác động to lớn đối với sự phát triển của một quốc gia, một dân tộc. Trên tinh thần đó, từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta luôn khẳng định: 'Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu', 'khoa học công nghệ là động lực, giáo dục và đào tạo là nhân tố cơ bản để tạo ra động lực' (Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung ương khóa IX) cho sự phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, đào tạo và sử dụng tài năng đã thúc đẩy sự phát triển của giáo dục quốc gia, tôn vinh tài năng và bản lĩnh, nhận biết đúng vai trò của tài năng trong quá trình giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước độc lập, thịnh vượng - điều mà Thân Nhân Trung đã nêu rõ hơn 500 năm trước.
Ngày nay, đất nước đang trải qua những biến đổi mới trong bối cảnh mới của dân tộc và thời đại, đang tích cực hội nhập kinh tế, chuẩn bị nội lực, thực lực cho kinh tế Việt Nam khi tham gia đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo, việc xây dựng một hệ thống giáo dục chất lượng cao, chính sách sử dụng tài năng như thế nào để tài năng có điều kiện phát triển toàn diện và hiệu quả phục vụ cho sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là những vấn đề đang được quan tâm nhất để xây dựng và phát triển đất nước. Giáo dục hiện đang là quốc sách hàng đầu, chấn hưng giáo dục là chìa khóa mở cửa vào tương lai của dân tộc. Văn hóa, khoa học và đội ngũ tri thức đang đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển chung của đất nước. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Trần Nhân Trung thường nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với tài năng, và luôn minh chứng cho lời nói bất hủ của ông về sự thịnh suy của đất nước liên quan chặt chẽ đến sự thịnh suy của tài năng.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia - Mẫu 2
Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy:
“Như sao buổi sớm tỏa sáng
Như lá thu những khúc đồng dao”
để tôn vinh giá trị của những người dũng cảm, tài năng trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ lâu, vai trò của hiền tài luôn được đánh giá cao trong mọi hoàn cảnh và triều đại. Trong bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại bảo thứ ba - 1442, Thân Nhân Trung đã viết: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì quốc gia mạnh mẽ, nguyên khí suy thì quốc gia yếu đuối.
Thật vậy, đối với mọi quốc gia, hiền tài chính là nguyên khí. “Hiền tài” là thuật ngữ dùng để chỉ những người có trí tuệ và phẩm chất đạo đức cao. Những người này sẽ đem lại sự thịnh vượng cho đất nước. “Nguyên khí” là sức mạnh bên trong của mỗi quốc gia, dân tộc trong quá trình xây dựng. Nói một cách khác, những người có tài, có đức chính là nguồn sức mạnh lớn giúp đất nước phát triển. Thân Nhân Trung đã thấu hiểu sâu sắc vấn đề này, khi khẳng định, nguyên khí thịnh thì quốc gia mạnh, nguyên khí suy thì quốc gia yếu.
Có thể nói ngoài Thân Nhân Trung, chưa có ai khác có thể thúc đẩy mối liên hệ giữa hiền tài và sự thịnh vượng của một triều đại, một quốc gia như ông. Ông đã đề ra một quan điểm vững chắc về văn hóa giáo dục, và điều đó vẫn đúng dù ở bất kỳ thời đại nào.
Từ khi Thân Nhân Trung đưa ra nhận định này, nó đã trở thành một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hóa giáo dục của các triều đại phong kiến. Quan điểm này khẳng định vai trò quan trọng của hiền tài đối với vận mệnh dân tộc và nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc chăm sóc và đào tạo nhân tài.
Thời đại của vua Lê Thánh Tông là thời kỳ phồn thịnh và phát triển đa dạng, với 502 người đỗ tiến sĩ, trong đó có 10 người đạt hạng cao nhất và những người hiền nhân này đóng vai trò quan trọng trong công cuộc chấn hưng của quốc gia.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền thống tốt đẹp đó và đặc biệt coi trọng việc đào tạo nhân tài. Ông đã nói rằng, độc lập hoàn toàn, tự do hoàn toàn, và sự phát triển văn minh của dân ta đều phụ thuộc vào giáo dục. Ông cũng nhấn mạnh rằng, một dân tộc dốt là một dân tộc yếu, và kêu gọi thiếu niên phải chăm chỉ học hành để sánh vai với các quốc gia khác.
Ngoài ra, ông cũng sử dụng chính sách chiêu mộ nhân tài vào chính phủ lâm thời, từ các nhân sĩ như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn Văn Huyên, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Hữu Thọ... Quan điểm của ông kế thừa từ tư tưởng của Thân Nhân Trung cách đây hơn 500 năm.
Có thể nói rằng, trong mọi hoàn cảnh và chế độ, việc đào tạo nhân tài luôn đóng vai trò quan trọng, không chỉ làm cho cuộc sống con người tốt đẹp hơn mà còn làm phồn vinh hơn vận mệnh đất nước.
Không gian tài năng là nguồn sinh khí quốc gia - Mẫu 3
“Không gian tài năng là nguồn sinh khí quốc gia, sức sống phát triển thì quốc gia mạnh mẽ, tiến xa hơn, sinh khí suy kiệt thì quốc gia yếu đuối, suy thoái”. Do đó, các vị vua tài trí của thời xưa luôn quan tâm đến việc nuôi dưỡng và phát triển tài năng, thúc đẩy năng lượng sinh khí quốc gia. Đây thực sự là tư duy cốt lõi về văn hóa, giáo dục được Thân Nhân Trung nêu bật một cách rõ ràng trong bài kí đề trên bảng tên tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Bảo Đại thứ 3 (1942).
Tư tưởng này đầu tiên nhấn mạnh vai trò quan trọng của không gian tài năng đối với sự phát triển của quốc gia.
Trong bài kí, Thân Nhân Trung không sử dụng thuật ngữ 'nhân tài' mà là 'không gian tài năng'. Không gian tài năng theo quan điểm của người xưa, cũng như của tác giả, là người có kiến thức rộng, hiểu biết sâu, và có khả năng giúp vua trị quốc, mang lại cuộc sống bình yên cho nhân dân; ngoài ra, họ còn có phẩm hạnh, là mẫu mực về đạo đức, luôn chăm chỉ tu dưỡng đức tính cho bản thân, dốc hết tài năng và phẩm hạnh phục vụ cho quốc gia, tạo nên sự nghiệp rực rỡ, ghi danh mãi mãi trong lòng người, được tôn trọng và kính trọng. Về khái niệm 'khí sinh khí' trong di sản văn hóa cổ truyền Trung Hoa đã có nhiều tác phẩm đề cập.
Sách 'Bạch Hổ Thông' viết: 'Đất trời, không gian sinh khí, tồn tại vạn vật' (Đất là nơi tạo ra không gian sinh khí, nơi của mọi sự sống), coi trọng không gian sinh khí như một khí lớn. Còn trong sách 'Đường từ', có câu: Liễu Công Độ tinh thông dưỡng sinh. Thường nói: Ta không có phép thuật gì, chỉ biết dựa vào tính khí để điều tiết tình cảm, Sự vui vẻ và tức giận, đây chính là điều chỉnh bằng không gian sinh khí), coi không gian sinh khí như là chỉ sự linh hoạt của tính cách con người. Ở đây, Thân Nhân Trung đã mượn ý từ sách 'Đường Thi': 'Không gian sinh khí quốc gia' chính là sức sống, bản chất, là linh hồn của dân tộc đó và áp dụng ý này một cách sáng tạo.
Mỗi người đều biết rằng mối liên hệ giữa hiền tài và sự thịnh vượng hoặc suy thoái của một triều đại, một quốc gia là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, việc coi 'hiền tài là nguyên khí' thì phải công nhận là đã bắt đầu từ Thân Nhân Trung, người đã tổng kết một cách chính xác không chỉ một triết lý văn hóa, giáo dục mà còn một chiến lược quốc gia, dù ở bất kỳ thời kỳ hay chế độ nào. Tư tưởng đó một lần nữa được nhắc lại trong bài kí đề trên bảng tên tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức 18 (1487): “Nếu thiếu người tài đức, làm sao có thể có sự thịnh vượng và bình yên” và để có một văn hóa, một quốc gia thịnh vượng thì điều kiện cần là phải có hiền tài.
Quan điểm 'hiền tài là nguyên khí quốc gia' do Thân Nhân Trung đề xuất đã trở thành một tư tưởng quan trọng trong sách văn hóa giáo dục của các triều đại từ thời Lê Thánh Tông trở đi. “Quốc gia có người tài cũng giống như cơ thể con người có nguyên khí. Khi nguyên khí thịnh vượng, con người được hưởng mạng sống lâu dài, khi có nhiều người tài, quốc gia sẽ duy trì được sự bình yên và vững chãi. (Bia số 29, khoa Bính Thìn, niên hiệu Hoằng Định 20, 1616). Từ việc đánh giá cao hiền tài, tư tưởng đã nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc 'chăm sóc, đào tạo và phát triển hiền tài, để thêm phần sinh khí cho quốc gia'. Trong thời kỳ phong kiến, vai trò của nhà nước, đặc biệt là vua, rất quan trọng. Để nuôi dưỡng hiền tài, những người ở trên (vua) phải biết lo lắng cho dân, quản lý vấn đề quốc gia, tạo điều kiện cho sự mạnh mẽ, giàu có của quốc gia. Vua cũng phải chú trọng đến việc giáo dục, tuyển chọn và tôn trọng những người tài, từ đó đưa quốc gia trở thành một quốc gia mạnh mẽ.
Tư tưởng tiến bộ của Thân Nhân Trung vẫn còn ý nghĩa trong mọi thời đại. Hiền tài luôn được coi trọng và những người hiền tài luôn là những người mang lại vinh quang cho quốc gia, dân tộc. Đó là lý do mà câu chuyện về các nhân vật lịch sử như Nguyễn Trãi viết 'Bình Ngô đại cáo' thời Lê Lợi; Trần Quốc Tuấn viết 'Hịch tướng sĩ' kêu gọi, động viên tướng sĩ đứng lên chống lại kẻ thù... Những người này không chỉ là những nhà quân sự tài năng mà còn có phẩm hạnh đạo đức. Hồ Chí Minh, người lãnh đạo vĩ đại, nhà văn hóa của dân tộc cũng là một tấm gương cho một hiền tài của dân tộc. Không chỉ thế, giống như những nhà chiến lược xuất sắc khác, ông đã nhận ra vai trò quan trọng của văn hóa trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước. Trong quá trình độc lập, ông đã coi trọng giáo dục là một trong những nhiệm vụ hàng đầu để củng cố đất nước.
Một dân tộc thiếu hiền tài sẽ trở nên yếu đuối. Mọi người Việt Nam cần phải nhận thức được quyền lợi và trách nhiệm của mình trong việc học hỏi kiến thức mới để đóng góp vào sự phát triển của đất nước, đặc biệt là các em thiếu niên cần phải nỗ lực học tập để đem lại vinh quang cho quê hương, cho dân tộc trước các quốc gia mạnh mẽ khác. Hồ Chí Minh cũng đã thể hiện ý thức cao trong việc tìm kiếm và sử dụng nhân tài. Ông đã đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có phẩm chất và kiến thức (có đủ đức, tài); ông coi trọng giáo dục và văn hóa là một mặt trận quan trọng trong cuộc cách mạng, có tác động lớn đến sự phát triển của quốc gia, của dân tộc. Điều này cho thấy sự tiếp nhận tư tưởng tiến bộ từ Thân Nhân Trung trong quan điểm của một nhà lãnh đạo vĩ đại.
Ngày nay, đất nước đang tiến lên trong môi trường mới của thời đại và dân tộc. Làm thế nào để chuẩn bị sức mạnh và năng lực cho kinh tế Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập? Làm thế nào để có một hệ thống giáo dục chất lượng, phát triển đạt tiêu chuẩn quốc tế? Làm thế nào để có một chính sách sử dụng nhân tài hợp lý để họ có thể phát huy hết tiềm năng của mình, hỗ trợ mạnh mẽ và hiệu quả cho sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước? Đó là những vấn đề được Đảng, Nhà nước và mọi người quan tâm. Giáo dục hiện đang trở thành ưu tiên hàng đầu, việc nâng cao chất lượng giáo dục là chìa khóa mở cánh cửa tương lai. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” của Trần Nhân Trung thường xuyên nhắc nhở các triều đại về chính sách đối với nhân tài, và luôn luôn minh chứng lời nói bất hủ của ông về sự thịnh vượng hoặc suy yếu của đất nước kết hợp với sự thịnh vượng hoặc suy yếu của nhân tài.
Để nhận thức được sự quan trọng của việc học tập và sự chú trọng của xã hội đối với việc rèn luyện tài năng, chúng ta cần nỗ lực để trở thành những cá nhân có ích cho cộng đồng, đóng góp vào sự phát triển của đất nước.
Hiền tài là nguồn lực tinh thần của một quốc gia - Mẫu 4
Thân Nhân Trung (1418 – 1499) tên thật là Hậu Phủ, xuất thân từ xã Yên Ninh, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang ngày nay. Ông đỗ tiến sĩ vào năm 1469 và từng là thành viên của Hội Tao đàn được vua Lê Thánh Tông thành lập. Với tài văn xuất chúng, vào năm 1484, ông được nhà vua phong làm người soạn thảo Bài kí danh cho tiến sĩ khoa Nhâm Tuất theo niên hiệu Đại Bảo thứ ba. Bài kí này đóng vai trò quan trọng như một lời tựa cho 82 tấm bia tiến sĩ tại Văn Miếu, Hà Nội. Bài viết về Hiền tài là nguồn lực tinh thần của quốc gia được trích từ bài kí này, với câu nổi tiếng: Hiền tài là nguồn lực tinh thần của quốc gia, nếu nguồn lực tinh thần thịnh vượng thì quốc gia mạnh mẽ, vươn lên cao, còn nếu nguồn lực tinh thần suy yếu thì quốc gia sẽ yếu đuối, suy tàn.
Vấn đề mà tác giả đặt ra trong đoạn trích là khẳng định vai trò, vị thế của các hiền tài đối với quốc gia. Đây là một quan điểm sáng suốt và chính xác, được đúc kết từ những bài học lịch sử của dân tộc, chứng tỏ tầm nhìn sâu rộng của người viết.
Vậy hiền tài được hiểu như thế nào và tại sao lại là nguồn lực tinh thần của quốc gia?
Hiền tài là gì? Theo nghĩa hiển ngôn của từng từ, hiền là biết ứng xử tốt với mọi người, đạo đức; tài là khả năng đặc biệt trong một lĩnh vực nào đó. Theo nghĩa bóng, hiền tài là người có tài năng cao, trí tuệ rộng lớn và đạo đức, luôn hướng tới lợi ích của nhân dân và Tổ quốc.
Nguyên khí là gì? Đó là khí mạnh mẽ ban đầu tạo nên sự sống của mọi sinh vật. Trong góc độ rộng lớn, nguyên khí quyết định sự sống và phát triển của xã hội cũng như của một quốc gia.
Vậy tại sao hiền tài lại được coi là nguyên khí của quốc gia?
Hiền tài là tổng hòa của trí tuệ và phẩm hạnh, là sự kết tinh của tinh hoa văn hóa, truyền thống dân tộc. Như câu ca cổ: 'Địa linh nhân kiệt', hiền tài chính là nguồn sinh khí của quốc gia.
Các hiền tài có vai trò không thể phủ nhận đối với sức mạnh của một quốc gia. Lịch sử đã chứng minh điều này qua những tên tuổi vĩ đại như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi, Giang Văn Minh, Tô Hiến Thành, Chu Văn An, Lê Quý Đôn, Nguyễn Huệ và trong thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh - vĩ nhân đã dẫn dắt cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, mang lại độc lập và tự do cho Việt Nam, vang danh toàn cầu.
Trong cuộc chiến chống lại thực dân Pháp, có những nhà lãnh đạo, nhà trí thức được đào tạo ở nước ngoài như một biểu hiện của sự kính trọng đối với tinh thần hy sinh cao cả của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ sẵn lòng từ bỏ cuộc sống sang trọng ở nước ngoài để quay về đất nước và đóng góp cho cuộc chiến. Kỹ sư Trần Đại Nghĩa đã chế tạo ra nhiều loại vũ khí hữu ích cho cuộc chiến. Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Đặng Văn Ngữ... đã dành nhiều công sức nghiên cứu, sáng tạo ra các loại thuốc kháng sinh quý giá để điều trị cho thương binh, lính trên chiến trường. Nhà nông học Lương Định Của đã nghiên cứu, phát triển các loại giống lúa mới có khả năng chống sâu bệnh và tăng năng suất, cải thiện cuộc sống của nông dân và cung cấp thêm nguồn lương thực cho chiến trường miền Nam trong cuộc chiến với Mĩ. Đó chính là những ví dụ rõ ràng về những hiền tài sẵn lòng hy sinh vì lợi ích chung của nhân dân và Tổ quốc.
Như đã đề cập trước đó, hiền tài đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước. Tuy nhiên, hiền tài không phải là điều tự nhiên. Ngoài khả năng bẩm sinh, những người tài phải được khám phá và giáo dục theo một quy trình nghiêm ngặt để họ có nhận thức chính xác về mục đích của việc học là để rèn luyện đạo đức và nhận thức trách nhiệm của bản thân đối với xã hội. Theo triết học Khổng giáo, giáo dục con người phải dựa trên đạo đức, với tài là một phần của nó. Nguyễn Trãi cũng đặt đạo đức lên trên tài: 'Tài thấp đạo cao'. Nguyễn Du cũng nhấn mạnh: 'Tâm đạo mới thật tài'. Quan điểm đó vẫn giữ nguyên giá trị cho đến ngày nay. Bác Hồ đã nhấn mạnh: 'Có tài mà không có đạo là vô ích. Có đạo mà không có tài thì làm việc gì cũng khó'.
Đầu tiên, hiền tài phải là người có đạo đức. Trong thời kỳ phong kiến, đạo đức là lòng trung quân, lòng yêu nước. Tất cả suy nghĩ và hành động của hiền tài đều xoay quanh bốn chữ đó. Họ không hề ham muốn cá nhân mà luôn hướng tới lợi ích chung, không để những mưu mô, tham vọng cá nhân ảnh hưởng đến lý tưởng cao cả giúp vua và quốc gia. Xét theo chuẩn mực đạo đức Nho giáo, họ là những người chính trực, trung thực: 'Giàu không làm thay đổi, nghèo không làm biến đổi, uy vũ không làm rung chuyển'. Hiền tài là những tấm gương quả cảm, tận trung với quốc gia và dân tộc. Mạc Đĩnh Chi, trạng nguyên đời Trần khi đi sứ phương Bắc đã thể hiện chí khí mạnh mẽ của một người quân tử bằng trí thông minh của mình. Giang Văn Minh hy sinh tính mạng để bảo vệ danh dự của vương thất và quốc gia, xứng đáng là sứ thần của Đại Việt. Danh sách các hiền tài của nước Việt không thể kể hết, như Nguyễn Trãi từng viết: 'Mạnh yếu từng lúc khác nhau, song hào kiệt đời nào cũng có'.
Tuy nhiên, trong lịch sử hàng ngàn năm của đất nước, có nhiều giai đoạn biến động, đôi khi lịch sử phát triển theo hướng tích cực, nhưng cũng có những thời kỳ suy thoái, đau buồn. Vận mệnh của dân tộc và quốc gia đặt trên vai của hiền tài, nhưng vì nhiều lý do, họ không thể hoàn thành trọng trách được giao phó. An Dương Vương oai hùng với thành Cổ Loa kiên cố và nỏ thần hiệu nghiệm, nhưng vì kiêu căng mà đã đánh mất quốc gia. Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống vì lòng tham mà đã làm tay sai cho quân thù xâm lược phương Bắc. Đó là khi nguyên khí suy, thế nước yếu rồi xuống thấp.
Điều quan trọng nhất là hiền tài phải thực sự có tài. Chỉ khi có kiến thức sâu rộng và tài năng vượt trội, họ mới có thể nghĩ ra những kế sách thông minh, giúp vua và triều đình cai trị đất nước. Kỹ năng quân sự xuất sắc của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đóng góp lớn vào chiến công của quân dân nhà Trần trong cuộc chiến với quân Mông – Nguyên. Kỹ năng quân sự và ngoại giao tài ba của Nguyễn Trãi là yếu tố quyết định cho chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, giúp giành lại độc lập cho đất nước.
Một tượng điển hiền tài, được ngưỡng mộ không chỉ trong nước mà còn trên toàn thế giới là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ông là biểu tượng của cuộc chiến chống lại thực dân Pháp và Mĩ xâm lược, góp phần tạo nên lịch sử kiêng kiệt và hùng hồn của dân tộc Việt Nam. Tên tuổi của ông trở nên vĩ đại trong lòng dân ta và bạn bè quốc tế, còn kẻ thất bại cũng phải kính trọng.
Trong lịch sử, các triều đại phong kiến luôn coi trọng việc mở rộng giáo dục và tổ chức thi cử để tuyển chọn nhân tài cho đất nước.
Sau khi đánh bại quân xâm lược nhà Minh và mở ra thời kỳ thái bình, vua Lê Thái Tổ quan tâm đặc biệt đến việc nâng cao giáo dục và tìm kiếm nhân tài để thúc đẩy phát triển quốc gia. Trong quá khứ, việc tuyển chọn quan lại chủ yếu qua con đường tiến cử, nhưng đến thời Lê, chủ yếu là qua thi cử để chọn ra những người có tài giúp vua trị nước. Vua Lê Thánh Tông đã nói: 'Muốn có nhân tài, trước hết phải chọn người có học'.
Vai trò của những người có tài, có đức đối với sự phát triển của đất nước ngày nay rất quan trọng. Họ là những người vượt qua khó khăn để thành công; là những doanh nhân có tâm huyết, sáng tạo ra các sản phẩm chất lượng, góp phần vào phát triển kinh tế quốc gia; là những nhà khoa học có những công trình tiên tiến, hữu ích; là những lãnh đạo có tư duy đổi mới, đưa ra các chính sách phù hợp để thúc đẩy sự phát triển đa mặt của xã hội.
Hiện nay, hiền tài không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực nào cũng có. Họ là những người có thành công vượt trội, doanh nhân thành đạt, nhà khoa học tiên tiến, và các nhà lãnh đạo đổi mới, góp phần vào sự phát triển toàn diện của quốc gia.
Để trở thành hiền tài của đất nước, người tài cần được phát hiện và đào tạo một cách nghiêm túc và bài bản, bên cạnh năng khiếu bẩm sinh.
Để có hiền tài, Nhà nước cần có chính sách đào tạo và sử dụng đúng đắn, cùng với chính sách đãi ngộ trân trọng và hợp lí.
Học sinh cần phấn đấu không ngừng để trở thành hiền tài, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh và văn minh.
Hiền tài là nguyên khí quốc gia - Mẫu 5
'Hiền tài là nguyên khí quốc gia'', vàng về sức sống của dân tộc. Nhân tài đóng vai trò quan trọng trong sáng tạo ra các giá trị văn hóa và công nghệ hiện đại.
Hiền tài là cốt lõi quan trọng làm nên sự sống còn và phát triển của quốc gia. Quốc gia sở hữu hiền tài và biết sử dụng chúng sẽ phát triển mạnh mẽ.
Trí thức đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ tổ quốc và phát triển đất nước, như minh chứng của những hịch tướng sĩ và bài học lịch sử.
Trí thức cần phải có trách nhiệm cống hiến tài năng cho đất nước, được khuyến khích và tôn trọng nhưng không bao giờ bị biến thành công chức sáng vác ô đi, tối vác về.
Nước ta cần phải thu hút nhân tài và tạo điều kiện để họ cống hiến cho đất nước thay vì làm việc ở nước ngoài.
Hiền tài cần được hướng tới lớp người trẻ tuổi và tạo môi trường thuận lợi để họ phát huy năng lực và đóng góp cho xã hội.
Hiểu sâu về 'Hiền tài là nguyên khí của quốc gia' không cần phải chờ đợi những biểu hiện lớn mà chỉ cần có kế sách cụ thể và sự trân trọng tài năng để khơi dậy người có thực tài.
Mỗi cá nhân, gia đình, nhà trường đều cần có biện pháp giáo dục để thế hệ trẻ phát triển tiềm năng phục vụ cho đất nước, vì hiền tài luôn là nguyên khí quan trọng của quốc gia.
Tư tưởng về Hiền tài là nguyên khí quốc gia từ thế kỉ XV đến nay vẫn được ca ngợi và đề cao, chứng tỏ vai trò quyết định của hiền tài trong sự phát triển của quốc gia.
Tư tưởng về hiền tài là nguyên khí quốc gia không chỉ là triết lí mà còn là hành động, là sự chăm sóc, bồi dưỡng và tạo điều kiện cho người có tài phát triển.
Bồi dưỡng hiền tài là nhiệm vụ hàng đầu của nhà nước, vì hiền tài là yếu tố quyết định sự thịnh vượng hay suy yếu của quốc gia, là nguồn sống còn và phát triển của xã hội.
Tư tưởng của Thân Nhân Trung khẳng định vai trò quan trọng của hiền tài đối với quốc gia và nêu cao sự cần thiết của việc trọng dụng hiền tài.
Để xây dựng một đất nước phồn thịnh, cần trọng dụng và bảo vệ những người hiền tài, đồng thời chú trọng vào việc bồi dưỡng và phát triển họ.
Hiền tài không chỉ có tư chất bẩm sinh mà còn là kết quả của tu dưỡng và rèn luyện không ngừng. Mọi người trong xã hội đều cần phải rèn luyện và phấn đấu để trở thành người tài đức.
Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, việc phát triển đất nước đặt ra yêu cầu cao cần có nhiều người tài đức hơn nữa. Tư tưởng của Thân Nhân Trung về hiền tài là nguyên khí quốc gia vẫn cần được khẳng định và thực hiện.
Tư tưởng của Thân Nhân Trung về hiền tài là nguyên khí quốc gia không chỉ là kim chỉ nam của một thời đại mà còn là định hướng quan trọng để xây dựng một quốc gia thịnh vượng.
Người hiền tài thường có trí thông minh và niềm khát vọng, đam mê trong công việc và sẵn lòng chấp nhận rủi ro để đạt được hiệu quả cao nhất.
Có người tài chuyên sâu vào một lĩnh vực nhất định, trong khi khác lại giỏi giang trên nhiều lĩnh vực. Sự năng động và thành công của họ khi làm quản lý phụ thuộc vào khả năng đa dạng và quan tâm của họ.
Người hiền tài sống độc lập, không sợ mất bản thân và luôn tự tin thể hiện ý kiến của mình, dù có thể không được ủng hộ. Sự kiên định và lòng quả cảm là đặc điểm nổi bật của họ.
Hiền tài có khả năng dự đoán và thích ứng với biến động của xã hội. Họ có thể làm việc một cách cô đơn và khắc nghiệt mà vẫn không từ bỏ đam mê và ước mơ của mình.
Người hiền tài không tham lam, không lấn sân, không làm ảnh hưởng xấu đến người khác. Họ luôn thành thật và ghét sự dối trá, hợm hĩnh.
Người hiền tài cần có tâm hồn trong sáng và lãng mạn để sáng tạo ra những công trình vĩ đại và tác phẩm nghệ thuật bất hủ.
Tính hài hước thường xuất hiện ở người hiền tài, giúp họ chế giễu thói hư tật xấu của xã hội và đôi khi tự chế nhạo bản thân. Việc nhận diện và sử dụng người hiền tài là một vấn đề khó, bởi kẻ bất tài thường che giấu sự kém cỏi bên trong.
Dung nạp và khai thác tài năng của người hiền tài là trách nhiệm của mọi người, không chỉ của lãnh đạo. 'Hiền tài là nguyên khí quốc gia' luôn là một lời khẳng định đúng đắn.
Người hiền tài thường hiện hữu trước đồng loại với tất cả những gì họ có, trong khi kẻ bất tài thường che đậy sự kém cỏi. Sự sử dụng người hiền tài đôi khi gặp khó khăn vì sự cạnh tranh và ghen ghét.
Hiền tài không chỉ là những nhà khoa học hay văn hào, mà còn là những người có tâm hồn lãng mạn, sẵn lòng đóng góp cho xã hội. Câu 'Hiền tài là nguyên khí quốc gia' vẫn luôn đúng và cần được tôn trọng.
Vị vua anh minh, Nguyễn Huệ, từng nói: 'Xây dựng quốc gia, học hành là trên hết. Muốn thịnh vượng, cần phải tập trung vào nhân tài.' Mặc Tự cũng đồng tình với quan điểm này, khẳng định: 'Quốc gia có nhiều người tài, thì quốc gia đó càng phồn thịnh'.
Để hiểu rõ hơn về 'hiền tài', ta cần phải hiểu rằng họ là những người có phẩm chất cao quý, đạo đức lương thiện và có tài năng vượt trội. Trần Nhân Tông đã nói đúng: 'Hiền tài là nguyên khí của quốc gia', vì họ là những sức mạnh tiềm ẩn giúp đất nước phát triển.
Qua lịch sử, ta thấy rõ vai trò của những người tài giỏi như Quang Trung, Lí Thái Tổ, Lê Lợi trong việc bảo vệ và phát triển đất nước. Cùng với đó, các vị tướng quân như Lí Thường Kiệt và Võ Nguyên Giáp cũng đóng góp không nhỏ vào sự phồn thịnh của nước ta.
Hiện nay, việc tìm kiếm và phát triển những người tài giỏi vẫn là ưu tiên hàng đầu của đất nước. Tuy nhiên, vẫn còn những người tài chọn cách ra nước ngoài sinh sống và không quay trở về, điều này đòi hỏi chúng ta cần phải tạo điều kiện thuận lợi hơn để họ có thể góp phần vào sự phát triển của quê hương.
Dù thế giới thay đổi, nhưng những người hiền tài vẫn sẽ luôn là tài nguyên quý báu của đất nước. Điều quan trọng là mỗi cá nhân cần phải không ngừng học hỏi và phát triển bản thân để có thể đóng góp vào sự phồn thịnh của quốc gia.
Mẫu 9: Hiền tài, khí thế quốc gia
Quang Trung - Nguyễn Huệ từng nói: “Xây dựng quốc gia, học vấn là hàng đầu. Muốn thịnh vượng, phải dựa vào nhân tài.” Dân tộc Việt Nam đã dày công gìn giữ và xây dựng quốc gia qua hàng nghìn năm với sự hi sinh không ít. Để đạt được hòa bình ngày nay, chúng ta không chỉ cần sự đoàn kết mà còn cần có những tâm hồn sáng suốt, yêu nước.
Thân Nhân Trung đã nói: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, khí thế mạnh mẽ thì quốc gia phồn thịnh, còn khí thế suy tàn thì quốc gia yếu đuối.” Ý kiến này vẫn giữ nguyên giá trị qua thời gian.
Tư tưởng của Thân Nhân Trung là hoàn toàn chính xác và tiến bộ. Hiền tài không chỉ có trí tuệ mà còn có phẩm chất, đó là người có khả năng ảnh hưởng tích cực đến sự phát triển của xã hội.
Trong số những người có tài, không phải ai cũng là hiền tài. Những người thực sự là hiền tài luôn suy nghĩ về lợi ích chung của cộng đồng, không chỉ tập trung vào lợi ích cá nhân. Đó mới là yếu tố quan trọng thúc đẩy phát triển của một quốc gia.
Vì vậy, rõ ràng tài chính là nền móng của một quốc gia, đóng vai trò then chốt trong sự phát triển hay suy thoái của một đất nước. Xã hội, quốc gia càng có nhiều tài chính, họ sẽ phát triển mạnh mẽ hơn; ngược lại, khi thiếu hụt tài chính, sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì ổn định và phát triển bền vững.