TOP 52 bài Thuyết minh về một loài vật nuôi SIÊU HAY, đặc sắc nhất, giúp các em học sinh lớp 9 hiểu rõ hơn về nguồn gốc, hình dáng, vai trò của các loài vật nuôi, nhanh chóng hoàn thiện bài viết số 1 lớp 9 đề 3 thật hay.
Mỗi loài vật nuôi có những đặc điểm đặc trưng riêng, với 52 bài thuyết minh về con lợn, con gà, con trâu, con mèo,... dưới đây các em sẽ biết cách giới thiệu, mang đến những hiểu biết cụ thể nhất tới người đọc. Vậy mời các em cùng theo dõi bài viết dưới đây của Mytour để ngày càng học tốt môn Văn 9.
Đề 3: Thuyết minh về một loài động vật hay vật nuôi ở quê em
Thuyết minh về con chó
Dàn ý Thuyết minh con chó
I. Mở bài:
Nhiều cách, trực tiếp hoặc gián tiếp. Cứ chọn cái nào thu hút người đọc
VD: Chó là loài vật thông minh và sống tình cảm, thậm chí hơn cả loài mèo nữa.
II. Thân bài:
1. Phân loại:
Chó ta, chó tây, chó Béc, Chihuahua v.v...
Tuy nhiên, chủ yếu ta thuyết minh về chó nhà.
2. Cung cấp những kiến thức về đặc điểm hình dạng:
- Từ tổng quát đến chi tiết, từ đầu --> đuôi (Thông tin trên mạng, trong cuộc sống hàng ngày, và cả trong bài của Susu kia). Lưu ý những đặc điểm nổi bật: Là loài động vật! có 3 mí chẳng hạn v.v...
3. Thuyết minh về đặc điểm sống (Tìm thông tin trên mạng nhé):
- Đặc điểm phát triển cơ thể - không chỉ là mô tả như ở trên (số ngày mở mắt, biết đi, tự lập, trưởng thành v.v..).
- Đặc điểm sinh sản (lứa, số con mỗi lứa v.v...)
- Đặc điểm tổ chức: Sống thành bầy/đơn độc v.v..., quan hệ gia đình, cha mẹ con cái v.v..
- Đặc điểm sống: Những thói quen, tập tính...
Ví dụ: Chúng thường định vị vùng sống bằng nước tiểu...
4. Vai trò:
- Là loài vật nuôi (mô tả rõ loại vật nuôi như thế nào)
- Là bạn đồng hành
- Khác biệt: Chó canh cảnh, chó cảnh sát v.v...
Phân tích từng vai trò (tại sao chúng lại có thể thực hiện công việc đó, chúng thực hiện công việc đó như thế nào)
5. Mối quan hệ với con người:
- Đồng minh, trung thành v.v...
6. Tầm quan trọng của vấn đề:
- Tư duy hiện tại của con người (tình cảm, yêu thương, thịt v.v...) ==> Đánh giá có nên hay không
- Giải pháp và hướng đi cho việc đối xử với loài vật này.
III. Kết luận: Đánh giá tổng quan và cá nhân về chúng..
Thuyết minh về con chó - Mẫu 1
Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta đều cần có những người bạn đồng hành. Điều đó làm cho cuộc sống thêm phần ấm áp và ý nghĩa hơn. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, việc nuôi thú cưng trở nên phổ biến hơn bao giờ hết, bởi nó mang lại sự vui vẻ, hỗ trợ tinh thần và kỷ luật cho con người. Với bản thân, tôi cũng nuôi một chú chó và xem nó như một phần không thể thiếu trong gia đình.
Chú chó nhà tôi tên là Đốp. Nó thuộc giống chó Corgi, được nhập khẩu từ nước ngoài về. Giá của loài chó này khá cao, dao động từ 12 - 20 triệu tùy từng con. Chúng thuộc giống chó chăn gia súc, có nguồn gốc từ Pembrokeshire, xứ Wales. Tổ tiên của chúng là giống chó đuôi cuộn ở Bắc Cực. Gần đây, giống chó này ngày càng trở nên phổ biến và quen thuộc với nhiều người nuôi để làm bạn. Tuy nhiên, việc chăm sóc chúng khá khó khăn, đòi hỏi người nuôi phải có kiến thức và sự quan tâm đặc biệt.
Chú chó nhà tôi đã trưởng thành và không còn phát triển quá nhiều như những chú chó nhỏ khác. Thân người của chú dài khoảng 60cm, bốn chân rất ngắn (không bằng một gang tay người lớn). Bộ lông của chú màu vàng óng, bốn chân màu trắng làm chú trở nên rất dễ thương. Điểm đặc biệt của chú là đôi tai to, dựng cao lên, thỉnh thoảng vẫy vẫy cùng với đôi mắt to tròn đen láy nhìn rất thông minh. Chiếc mõm của chú khá dài và màu đen, bên trong là lưỡi hồng và hàm răng thưa không đều nhau rất ngộ nghĩnh. Đuôi ngắn ngủn lấp ló sau đám lông dày nhìn mãi không thấy. Những đặc điểm riêng biệt này khiến không chỉ gia đình tôi mà cả những người xung quanh đều rất yêu quý Đốp.
Khác với giống chó ta, loài chó này khá kén ăn và cần được chăm sóc kỹ lưỡng. Mỗi khi mùa hè đến, tôi thường đưa chú Đốp đi tiệm chăm sóc thú cưng để cắt tỉa lông, ngăn không cho thân nhiệt của chú tăng cao, tránh trường hợp bị sốc nhiệt. Hàng tuần đều cuối tuần, tôi đưa chú đi tắm, cắt tỉa móng cẩn thận, đẹp đẽ, sạch sẽ. Chú ăn thức ăn riêng dành cho thú cưng. Ngoài ra, chú còn rất thích sữa chua và xúc xích. Để chăm sóc tốt loại chó này, chúng ta cần hiểu và nắm được tính cách, thói quen và sở thích của chúng để có thể chơi với chúng và nuôi chúng tốt nhất có thể. Chỗ ngủ của Đốp cũng được chăm sóc kỹ lưỡng. Chú được ở trong một chiếc cũi sắt màu xanh đẹp, kèm theo đó là một chiếc đệm, gối và chăn cùng màu. Hai tuần một lần, tôi thay chăn gối cho chú và mang đi giặt giũ sạch sẽ và diệt khuẩn để tránh bệnh tật.
Corgi là loài chó thông minh và gần gũi với con người. Đốp là một minh chứng cho sự thông minh của giống chó này. Không chỉ chó mà những loài động vật khác đã, đang và sẽ trở thành những người bạn thân thiết của con người. Mỗi người chúng ta cần phải có ý thức bảo vệ động vật để tạo ra một xã hội văn minh hơn.
Thuyết minh về con chó - Mẫu 2
Trong chúng ta, chắc hẳn ai cũng biết chó là một con vật đáng yêu và rất hữu ích đối với con người. Nhiều người xem chúng như dũng sĩ giữ nhà, một số người còn xem chó là một người bạn trung thành. Nhưng chúng ta có biết rõ về chó chưa? Chúng mình hãy cùng tìm hiểu về con vật đáng yêu này!
Chó là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kì đồ đá.Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói, còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ màu xám.
Chó là loài động vật 4 chân, ăn tạp. Kích thước trung bình của chó là dài 40-160 cm. Mắt chó có đến 3 mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ 3 nằm ỡ giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng rất thính, có thể nhận được 35000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất thính như tai. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi. Chi kiểu có ngón: Chi trước 5 ngón, chi sau 4 ngón. Ngón có vuốt nhưng không co rút được, vì vậy nên nó không leo trèo và khó giữ mồi lâu. Chó chạy xa và mềm nhờ chân dài. Não chó rất phát triển. Chó phân biệt vật thể đầu tiên là dựa vào chuyển động rồi sau đó đến ánh sáng và cuối cùng là hình dạng. Vì thế thị giác của chúng rất kém, chỉ nhìn thấy 2 màu đen-trắng. Ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Màu sắc lông đa dạng. Chó có đến 2 lớp lông: Lớp bên ngoài như chúng ta đã thấy, còn lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Chó con mới sinh ra thì nhắm mắt, sau một tháng nó mới mở mắt và bắt đầu đi đứng được. Lúc mới ra đời, chó không có răng nhưng chỉ sau 4 tuần tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loại thú này là 42 chiếc.
Chúng ta phải thừa nhận một cách chắc chắn rằng chó là một con vật “đa năng”: Chó giữ nhà, chó cảnh, chó săn bắt, chó thể thao, chó nghiệp vụ….. Chó nghiệp vụ lại được đào tạo chuyên sâu hơn như chó phát hiện, phòng ngừa mối sử dụng trong ngành nghiên cứu hộ đê điều; chó cảnh sát giúp phát hiện ma túy, săn bắt tội phạm; chó làm các dịch vụ bảo vệ; chó cứu hộ trong các tình trạng khẩn cấp như động đất, thiên tai, bão lũ….; chó săn bắt mồi, chim chóc…. Không thể kể hết những công việc mà chó có thể giúp đỡ hoặc thay thế con người.
Nhờ trí thông minh, sự nhanh nhẹn …Chó có thể tiếp thu mọi tín hiệu, hiệu lệnh của người điều khiển rồi làm theo sau khi nhìn con người làm mẫu. Trí thông minh của chó chỉ đứng sau khỉ nhưng xếp trên cá heo. Tuy nhiên theo Pavlop, có thể huấn luyện được một con chó thông minh chứ khó dạy dỗ được nó như con khỉ. Điều đó cho thấy chó là loài vật biết tiếp thu, nghe lời. Nhờ các cơ quan khứu giác, thính giác cực kì phát triển nên chó có khả năng nhận biết, phát triển các vật thể, dấu hiệu lạ từ xa để thông báo cho con người đề phòng.
Trong văn hóa, tâm linh của một số dân tộc, chó được thờ cúng tại các đền thờ, miếu mạo. tục thờ chó Ka phổ biến ở nhiều dân tộc trên thế giới (Đông Nam Á, Tây Nam Á, Đông Á). Trong thần thoại vùng Địa Trung Hải và Cận Đông, hình tượng chó, kẻ canh giữ gia súc đã sớm trở thành kẻ canh giữ thế giới âm phủ.
Chó có rất nhiều loại và từ đó người ta đặt tên cho chúng. Khi nhắc đến những loại chó được huấn luyện để tìm dấu vết tội phạm, phát hiện ma túy thì không thể nói đến một loại điển hình, đó là chó Béc-giê. Chó Béc-giê là giống chó thuần chủng của Đức. Loại chó này thường có chân cao bụng thon, tai to và dựng đứng giống như chó sói. Đặc biệt chó Béc-giê rất thông minh, khứu giác và thính giác rất phát triển. Chính vì vậy mà người ra thường duy trì chó Béc-giê truy tìm dấu vết tội phạm, phát hiện ma túy hay những công việc khác cũng đòi hỏi sự thông minh nhanh nhạy.
Còn khi nhắc đến chó cảnh thì ta cũng hiểu đó chính là chó nhà. Những con chó này thường được nuôi làm cảnh đồng thời kiêm cả nhiệm vụ giữ nhà. Có rất nhiều loại chó cảnh như: Chó xù, chó Nhật, chó mini, chó Bắc Kinh, chó Chihuahua Pox. Nếu như lông chó Béc-giê ngắn và mượt thì chó cảnh thường có bộ lông dài và có thể mượt hay xù.
Chó hữu ích và rất gần gũi với con người, do đó chúng ta cần chăm sóc tốt cho chúng. Chăm sóc chó cũng khá đơn giản, công việc này không phức tạp và việc luyện tập cũng vậy. Với tính hiền lành của chúng thì thật dễ hòa đồng và nhanh hiểu được những điều mà gia đình bạn cần ở chúng, chỉ cần bạn có sự quan tâm đến chúng và dắt đi dạo thường xuyên, mỗi một tuần thì tắm cho nó một lần và đôi khi bạn cũng cần chải lông cho con vật yêu của mình. Tiêm vắc-xin phòng bệnh cho chúng định kì theo chỉ định của bác sĩ thú y giúp chú chó khỏe mạnh.
Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.
Thuyết minh về con Thỏ
Dàn ý thuyết minh con thỏ
I.Mở bài
- Giới thiệu con thỏ, một loài vật nhỏ bé với vẻ ngoài dễ thương.
II. Thân bài
- Giới thiệu khái quát:
+ Thỏ là loài động vật có vú, được nuôi nhốt, nuôi thả hoặc thỏ hoang sống tự do trong rừng.
+ Thỏ có lông mao dày, thích nghi tốt với điều kiện lạnh, khô.
- Nguồn gốc:
+ Động vật có vú, sống ở nhiều nơi trên thế giới. Loài thỏ được con người biết đến lần đầu ở châu Âu, khoảng 1000 năm trước Công nguyên.
+ Thỏ được phân thành bảy loài.
+ Tuổi thọ của thỏ dao động từ 4 đến 10 năm, thời kỳ mang thai kéo dài 31 ngày.
+ Thỏ nhà thường yếu hơn thỏ rừng, sống trong các lồng lớn để tránh bị săn bắt bởi thú ăn thịt.
- Cấu tạo:
+ Thỏ là động vật có bốn chân, chạy nhanh, lông dày, mềm, ấm, thường có màu trắng, đen hoặc nâu vàng.
+ Hai tai của thỏ dài, bắt tín hiệu rất tốt. Khi săn mồi, thỏ thường dựng tai để lắng nghe chuyển động âm thanh. Khi nghỉ ngơi, tai thỏ cụp lại theo chiều dọc thân.
+ Mắt của thỏ thường có màu đỏ, đen hoặc nâu, nhìn rõ trong điều kiện ánh sáng, có tuyến lệ hoạt động, phù hợp với việc sinh tồn trên cạn.
+ Mũi của thỏ nhỏ và có khả năng đánh hơi.
+ Hàm răng của thỏ sắc với hai răng cửa là răng chính, nhọn, bén và dài do tập tính gặm nhấm.
Thói quen ăn uống:
+ Thỏ thích uống nước sạch và ăn thực vật như bắp cải, cà rốt, cải xanh và các loại hoa quả xanh lục khác.
+ Thỏ thích sống ở nhiệt độ mát mẻ, từ 10 - 25 độ Celsius là nhiệt độ lý tưởng để thỏ phát triển và sinh hoạt.
+ Thỏ thường có thói quen đào hang để làm tổ và sinh sống.
- Vai trò của thỏ:
+ Thỏ được săn bắn hoặc nuôi để lấy thịt. Da thỏ được sử dụng để làm áo hoặc phụ kiện như mũ, khăn. Lông thỏ có thể được đính trên quần áo. Phân thỏ cũng là loại phân bón tốt cho cây trồng. Sữa thỏ được sử dụng làm thuốc hoặc chế biến thành thực phẩm giàu dinh dưỡng.
+ Thỏ được nuôi làm thú cưng trong gia đình. Ngoài ra, thỏ cũng được nuôi trong các vườn thú để tham quan.
+ Trong văn hóa Trung Quốc, thỏ được coi là một trong 12 con giáp.
+ Tuy nhiên, thỏ cũng là loài gây dịch bệnh và gây hại cho mùa màng do thói quen gặm nhấm của nó. Tại Úc, người ta đặt bẫy và tiêu diệt thỏ để ngăn chặn tác động tiêu cực đến môi trường.
III. Tóm lại:
Thỏ vẫn là một loài động vật phổ biến được khai thác để đáp ứng nhu cầu của con người. Việc nuôi nhốt và kiểm soát số lượng thỏ là biện pháp tốt nhất để bảo vệ sự tồn tại của loài này, đồng thời giảm thiểu tác động tiêu cực của chúng đối với môi trường tự nhiên.
Thuyết minh về con thỏ - Mẫu 1
Với sở thích và nhu cầu ngày càng cao của con người về chất lượng cuộc sống, nhiều loài động vật tự nhiên đã được thuần hóa và khai thác. Không ngoại lệ, loài thỏ đã và đang được con người sử dụng để phục vụ nhu cầu của mình nhờ vào những đặc tính hữu ích và thông dụng.
Thỏ là một loài động vật có vú phổ biến, được nuôi nhốt, thả hoặc sống tự nhiên trong rừng. Thỏ có lông dày, phù hợp với khí hậu hàn đới, ôn đới. Loài thỏ ban đầu được biết đến ở châu Âu, khoảng 1000 năm trước Công nguyên. Thỏ được phân thành bảy loại, như thỏ rừng châu Âu, thỏ đuôi bông, thỏ cộc,... Tuổi thọ của thỏ từ bốn đến mười năm, thời kỳ mang thai kéo dài 31 ngày. Thỏ nhà thường yếu hơn thỏ rừng, được thuần hóa và nuôi trong các lồng lớn để tránh bị săn bắt bởi thú ăn thịt.
Về cấu tạo, thỏ là động vật có tứ chi, chạy nhanh, lông dày, mềm, ấm, thường có màu trắng, đen hoặc nâu vàng. Hai tai thỏ dài, nhạy bén với âm thanh. Khi săn mồi, thỏ thường đưa tai lên để lắng nghe âm thanh chuyển động. Khi nghỉ ngơi, tai thỏ cụp lại theo chiều dọc cơ thể. Mắt thỏ có màu đỏ, đen hoặc nâu, có tuyến lệ hoạt động, phù hợp với việc sống sót trên cạn. Mũi thỏ nhỏ và có khả năng đánh hơi. Hàm răng sắc với hai răng cửa là răng chính, nhọn, bén và dài do thói quen gặm nhấm. Thỏ thường có thói quen đào hang để làm tổ và sinh sống.
Thỏ thuộc họ động vật ăn cỏ. Chế độ dinh dưỡng của thỏ bao gồm nước sạch và thực vật như bắp cải, cải xanh và các loại hoa quả xanh lục khác. Ngược lại với quan điểm phổ biến, thỏ không thích ăn cà rốt thường xuyên vì thực phẩm này có nhiều đường và quá cứng. Thỏ thường sử dụng cà rốt như một công cụ mài răng cửa. Thỏ thích sống ở nhiệt độ mát mẻ, từ 10 - 25 độ Celsius là nhiệt độ lý tưởng nhất để thỏ phát triển và sinh hoạt.
Thỏ đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực như công nghiệp chế biến, ngành thời trang và dược phẩm. Thỏ được săn bắn hoặc nuôi để lấy thịt. Da thỏ được sử dụng để làm áo hoặc phụ kiện như mũ, khăn. Lông thỏ được đính lên quần áo để tạo vẻ sang trọng cho người mặc. Phân thỏ cũng là loại phân bón tốt cho cây trồng. Sữa thỏ được sử dụng làm thuốc hoặc chế biến thành thực phẩm giàu dinh dưỡng. Thịt thỏ được dùng trong nhiều món ăn và có giá trị kinh tế cao. Thỏ cũng được sử dụng trong y học làm vật thí nghiệm cho vắc xin và mỹ phẩm. Tuy nhiên, việc thử nghiệm trên động vật này đang gặp phải sự phản đối vì không nhân đạo và gây hại cho số lượng thỏ tự nhiên.
Về mặt tâm linh, thỏ là loài động vật dễ thương với bộ lông mềm mại, thường được nuôi làm cảnh trong các vườn bách thú hoặc làm thú cưng trong gia đình. Trong văn hóa Trung Quốc, thỏ là một trong mười hai con giáp, tượng trưng cho mười hai năm tuổi. Thỏ biểu hiện sự nữ tính, dễ thương nên thường được sử dụng làm quà tặng hoặc trang trí. Tuy nhiên, thỏ cũng là loài gây dịch bệnh và phá hoại mùa màng do thói quen gặm nhấm. Tại Úc, người ta đánh bắt và tiêu diệt thỏ để ngăn chặn tác động tiêu cực đến môi trường.
Thỏ vẫn là loài động vật quen thuộc được khai thác để phục vụ nhu cầu của con người. Nuôi nhốt và kiểm soát số lượng thỏ là biện pháp tốt nhất để duy trì sự sống của loài này và giảm thiểu tác động tiêu cực đến môi trường tự nhiên.
Thuyết minh về con thỏ - Mẫu 2
Thế giới xung quanh chúng ta đa dạng và phong phú với nhiều loài vật khác nhau. Theo thời gian, con người ngày càng gắn bó với các loài vật, coi chúng như những người bạn thân thiện. Một số loài vật khác đã được thuần hóa và trở thành thú cưng của con người. Trong số đó, không thể không kể đến những chú thỏ vô cùng đáng yêu - loài vật mà em yêu quý nhất.
Các giống thỏ nhà trên toàn thế giới đều bắt nguồn từ thỏ rừng. Thỏ rừng ở châu Âu được phát hiện bởi những nhà ngữ âm học khi họ đến bờ biển Tây Ban Nha vào năm 1000 trước Công nguyên. Từ đầu thế kỷ 19, việc nuôi thỏ đã phát triển rộng khắp Tây Âu và thỏ đã được người châu Âu mang đi du nhập vào tất cả các nước trên thế giới. Cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, các giống thỏ đã được chọn lọc và thích nghi với điều kiện nuôi nhốt, dần thay đổi về ngoại hình và sinh lý để phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và khả năng sản xuất. Ở Việt Nam, thỏ được nhập vào từ hơn một trăm năm trước và đã trở thành loài vật nuôi khá phổ biến, phân bố rải rác trên khắp các vùng miền.
Thỏ là loài gia súc tương đối yếu, khá nhạy cảm và dễ phản ứng với các biến đổi của môi trường như ánh sáng, nhiệt độ, thức ăn, nước uống, tiếng ồn và các tác nhân ô nhiễm khác. Loài thỏ khá đặc biệt với những tập tính như đào hang làm nơi sinh sản và trú ẩn, sống thành bầy và thường số lượng cái nhiều hơn đực. Thỏ cái thường sử dụng lông ở bụng kết hợp với vật liệu khác để làm ổ trước khi sinh. Thỏ có thói quen ăn uống bất kỳ lúc nào trong 24 giờ, chúng không ăn thức ăn đã bị nhiễm bẩn hoặc rơi xuống đất,...
Nhiệt độ là yếu tố quan trọng nhất và có ảnh hưởng trực tiếp đối với thỏ. Khi nhiệt độ dưới 10 độ C, thỏ cuộn tròn cơ thể để giữ ấm, nhưng khi nhiệt độ từ 25-30 độ C, chúng sẽ nằm dài để thoát nhiệt. Thỏ thích môi trường thoáng đãng, với lưu chuyển không khí khoảng 0.3m/giây là lý tưởng nhất. Tuy nhiên, nếu gió thổi trực tiếp vào thỏ, chúng có thể mắc bệnh viêm mũi và cảm lạnh.
Cơ quan khứu giác của thỏ rất phát triển, giúp chúng có thể nhận biết mùi của con cái hoặc con của mình so với con của người khác. Xoang mũi thỏ có nhiều vách ngăn chi chít để ngăn chặn bụi và tạp chất trong không khí và thức ăn. Điểm nổi bật trên bộ lông trắng là chiếc mũi phớt hồng luôn ướt như khi người bị cảm cúm. Cơ quan thính giác của thỏ rất nhạy, chúng có thể bị kích động bởi âm thanh nhỏ nhất. Khi nghe tiếng ồn, thỏ thường rất sợ hãi, do đó, trong chăn nuôi, cần tránh tiếng ồn ồn ào cho thỏ. Ban đêm, đôi mắt của thỏ sáng lên như hai chiếc đèn pha, cho phép chúng nhìn thấy vào ban đêm cũng như ban ngày.
Thỏ là loài động vật đẻ con, mỗi lần sinh đẻ, thỏ cái có thể đẻ từ một đến hai con. Tuổi thọ của một con thỏ có thể lên tới 10 năm hoặc hơn tùy vào điều kiện sống. Thỏ rất ưa những nơi thoáng đãng và khí hậu mát mẻ nên khi chăn nuôi, cần chú ý đến yếu tố này. Vào mùa đông, khi thời tiết lạnh giá, nhiệt độ xuống thấp thì cần đảm bảo việc giữ ấm cho thỏ để chúng phát triển bình thường và không bị nhiễm bệnh.
Ngày nay, việc nuôi thỏ để lấy thịt hoặc phục vụ các nhu cầu khác mang lại nguồn lợi kinh tế không nhỏ. Trong đời sống tinh thần, thỏ cũng có vị trí quan trọng. Thỏ là biểu tượng của Tây Ban Nha trong thời kỳ La Mã. Trong câu chuyện truyền thuyết Chị Hằng - Chú Cuội, chú thỏ ngọc chính là người bạn thân thiết với chị Hằng tại cung trăng. Thỏ thường được biết đến là con vật cưng của nhiều gia đình.
Những chú thỏ nhỏ xinh không chỉ đáng yêu, ngoan ngoãn mà còn rất hữu ích trong cuộc sống. Bởi vậy, chúng ta hãy luôn yêu quý và chăm sóc thật tốt cho loài vật này nhé.
Thuyết minh về con thỏ
Dàn ý thuyết minh con thỏ
I. Mở bài: Giới thiệu về loài mèo, động vật gần gũi với con người.
II. Thân bài:
– Đặc điểm:
+ Mèo là loài động vật có bốn chân, thuộc lớp thú, lông dày, có nhiều màu sắc khác nhau.
+ Ria mép: Dài.
+ Tai: Có khả năng nghe âm thanh từ xa, nhạy cảm với âm thanh.
+ Mắt: Ban đêm, mắt mèo mở to như trăng rằm, có hình dáng giống hạt táo.
+ Chân: Cũng giống như chó, mèo có móng vuốt dài, bàn chân có đệm thịt dày.
+ Đuôi: Dài và có nhiệm vụ chính là giữ thăng bằng.
– Tập tính:
+ Mèo thích ấm áp, sợ lạnh.
+ Mèo rất thích bắt chuột.
+ Mèo rất thích leo trèo, săn bắt.
+ Mèo thích được vuốt ve.
– Vai trò:
+ Mèo là loài vật có ích: Bắt chuột để bảo vệ mùa màng, giữ gìn đồ dùng tránh xa sự phá hoại của chuột.
+ Nhiều người nuôi để làm cảnh với nhiều giống mèo đẹp.
III. Kết bài: Nhấn mạnh vai trò, lợi ích của loài mèo đối với con người.
Thuyết minh con mèo - Mẫu 1
Mỗi ngày trôi qua, cuộc sống sẽ trở nên buồn tẻ nếu không có những người bạn động vật nhỏ bên cạnh. Tôi rất yêu mèo và luôn tìm hiểu về chúng. Mèo là vật nuôi quen thuộc trong các gia đình từ xưa đến nay.
Mèo là loài động vật thuộc lớp thú, có bốn chân. Lông mèo dày, mượt mà. Mèo nhà có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo được nuôi đầu tiên ở châu Phi, sau đó lan rộng đến các nước châu Âu và các nước khác trên thế giới. Trong thời kỳ phát triển ngày nay, người ta đã lai tạo nhiều giống mèo mới như mèo tam thể, mèo lông xù, mèo mướp, mèo mun,... Mèo có bộ ria mép trên mặt, đó là trợ thủ đắc lực của chúng.
Khi đuổi chuột vào hang, mèo muốn đuổi theo nhưng ria mép không chạm vào cửa hang, vì chiều dài của ria đúng bằng chiều rộng thân, nếu ria mép chạm vào thì mèo không thể đuổi theo được. Tai mèo rất thính và mắt mèo rất tinh. Tai mèo có thể nghe mọi cử động của chuột, dù là nhỏ nhất. Mắt mèo có cấu tạo đặc biệt, có thể co giãn, ban ngày mắt mèo co lại, ban đêm mắt mèo giãn ra, có thể nhìn được trong bóng tối. Điều đó giải thích vì sao mèo hay bắt chuột vào ban đêm.
Loài mèo rất sợ lạnh, thích ngủ ở những nơi ấm áp, cuộn tròn người và vuốt ve bộ lông. Vào mùa đông, mèo thường ngủ cạnh bếp lò, chui vào trong chăn ấm. Vào những ngày nắng, mèo thích nhảy lên mái bếp hoặc nằm ngoài sân để sưởi nắng. Lông mèo tổng hợp vitamin D khi chiếu sáng, mèo lấy vitamin bằng cách liếm lông. Dưới chân mèo có một đệm thịt dày, nhảy trên cao xuống cũng không phát ra tiếng động. Thức ăn chính của mèo là chuột, ngoài ra mèo còn ăn cơm, cá và rau. Móng vuốt của mèo đàn hồi, bình thường móng cụp lại, khi tự vệ hoặc vồ mồi thì móng duỗi ra.
Thuyết minh con mèo - Mẫu 2
Sau khi chào tôi, chị mèo hào hứng kể rằng mèo nhà của chị có nguồn gốc từ mèo rừng. Mèo bắt đầu được thuần hóa và nuôi ở Ai Cập, sau đó lan rộng sang Châu Âu và các khu vực khác trên thế giới. Riêng ở Việt Nam, mèo bắt đầu được nuôi từ khoảng hai nghìn năm trước đây.
Đúng như chị mèo Thông Thái nói, họ nhà chị ai ai cũng nhanh nhẹn, tràn đầy sức sống. Đầu mèo tròn, nhỏ và nhô ra phía trước, đó là mõm mèo. Mặc dù trông mèo nhỏ bé nhưng hàm răng nó có tới ba mươi chiếc. Trong số này, ngoài bốn chiếc răng nanh sắc nhọn thì hầu hết đều nhỏ xíu. Đặc biệt, đôi mắt mèo trong veo như hai hòn bi ve.
Đồng tử mèo có khả năng co giãn cực tốt. Ban ngày, đồng tử thu nhỏ đến đêm mới giãn ra. Nhờ đó mèo có thể nhìn rõ trong đêm tối. Thân hình nhỏ bé của mèo được nâng đỡ bởi bốn chân chắc khỏe. Vì nằm trong nhóm động vật bậc thấp nên mèo vẫn có một cái đuôi dài. Mỗi chân mèo đều có bốn ngón, dưới những ngón chân có vuốt sắc nhọn là đệm thịt giúp mèo đi lại nhẹ nhàng.
Không có em bé nào không biết đến câu hát: 'Meo meo meo, rửa mặt như mèo...' hay 'mèo con ra bể nước, bàn chân nó vuốt vuốt, xoa mấy sợi râu cước...'. Hình ảnh chú mèo liếm láp lòng bàn chân trước bên phải của mình cho thật sạch rồi lấy chính chân đó cọ cọ vào mặt mình đã khắc sâu vào tâm trí trẻ thơ. Một tập tính nữa mà ai cũng biết ở mèo đấy là bắt chuột. Bọn chuột xấu xí chuyên đi ăn vụng mỗi khi nghe thấy tiếng 'meo meo' của mèo là hồn vía chạy đi đâu hết cả, chỉ còn biết bạt mạng chạy. Cộng thêm với đôi râu và đôi tai nhạy như ra đa mà trời đã ban cho, mèo lại càng bắt được nhiều chuột.
Nghe chị mèo nói đến đây, tôi đã thấy thích loài mèo lắm rồi, bèn giục: 'Chị ơi, chị kể cho em nghe về sự sinh trưởng của mèo đi'. Chị mèo mỉm cười rồi tiếp: 'Mèo con được một tháng tuổi đã được mẹ dạy cho những kỹ năng bắt chuột cơ bản như chạy, nhảy, rình mồi, vồ mồi. Trong thời kỳ này, mèo mẹ sẽ dẫn mèo con đi quanh nhà để chúng 'tìm hiểu' mọi thứ. Lớn hơn một chút, khoảng từ bốn đến năm tháng tuổi là có thể tự săn mồi. Mèo từ mười đến mười hai tháng tuổi là có thể sinh sản được.
Lúc này, mèo cái có bộ lông mới mượt hơn, dày hơn bình thường. Cơ thể mèo lúc này phát ra một mùi đặc biệt và có tiếng kêu khác thường để hấp dẫn các chàng mèo đực. Sau khi giao phối, mèo cái lại sống đơn độc như trước và tự nuôi con. Mỗi lứa, mèo mẹ đẻ khoảng hai đến sáu con. Mèo con mới đẻ mắt nhắm nghiền, khoảng một tuần sau mới mở mắt'.
Chúng tôi được chị mèo Thông Thái yêu cầu kể tên thật nhiều loài mèo. Mèo mun lông đen tuyền, mèo mướp với lông xám tro, mèo vàng lông vàng óng. Giống mèo phổ biến nhất là mèo tam thể, lông có màu đen, vàng, trắng pha lẫn. Chị gật đầu khi nghe chúng tôi kể: 'Họ nhà mèo cũng am hiểu về họ nhà mèo ghê'.
Chị kể về nỗi kinh hoàng của họ nhà chị. Ngày xưa, người ta dùng ruột mèo để căng dây vợt tennis (Chị nhăn mặt khi nói đến điều này). Và ngày nay, người ta vẫn ăn thịt mèo. Nghe đâu, Chính phủ đã cấm bán và ăn thịt mèo. Nhưng mấy người bạn của chị nói ở Thái Bình, số quán nhậu 'tiểu hổ' vẫn rất nhiều. Mỗi ngày, hơn một ngàn mèo được 'ra đi' tại đó. Chị lắc đầu: 'Cứ thế này, không mấy chốc, bọn chuột dưới đó sẽ nổi loạn'. Vì mèo là 'khắc tinh' của chuột mà.
Các bạn muốn ngăn chặn nạn chuột không? Hãy nuôi một chú mèo trong nhà nhé. Theo kinh nghiệm của chị mèo Thông Thái, mèo con dưới hai tháng tuổi nên ở với mẹ. Khi lớn lên, cho chúng tập ăn cơm trộn cá, thịt hoặc thậm chí cả rau. Mèo rất ưa hơi ấm, nên thường trườn vào chân người. Ôm mèo vào lòng, ủ ấm hoặc mang ra nắng sưởi ấm cho nó! Mèo cũng rất thích chơi với trẻ em từ bốn tuổi trở lên, giúp trẻ biết yêu động vật từ nhỏ. Để ý, nếu bạn dị ứng với lông mèo, hãy tránh tiếp xúc với nó. Nhớ đem mèo đi tiêm phòng đều đặn và thường xuyên tắm hoặc bắt rận cho mèo nhé, để mèo luôn khỏe mạnh và sạch sẽ.
Trời nắng ấm khiến chị mèo Thông Thái ngủ quên. Hãy để chị ấy ngủ nhé. Chắc chắn lần sau, chị ấy sẽ kể thêm nhiều chuyện thú vị về loài mèo. Vì mèo là bạn tốt của chúng ta.
Thuyết minh về con Trâu
Dàn ý thuyết minh về con Trâu
I. Mở bài
- Giới thiệu về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:
- Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng đã được thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
- Là loài động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình to, thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
- Mỗi năm, trâu chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…
2. Lợi ích của con trâu:
a. Trong đời sống vật chất:
- Trâu nuôi chủ yếu để cày, bừa, giúp người nông dân sản xuất lúa, gạo.
- Là một khoản tài sản quý giá của người nông dân.
- Trâu cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mỹ nghệ…
b. Trong đời sống tinh thần:
- Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn trong các hoạt động như đi học, chăn trâu: thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…
* Bổ sung hai câu thơ của nhà thơ Giang Nam viết về tuổi thơ chăn trâu:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao
- Con trâu với lễ hội ở Việt Nam:
- Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
- Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
- Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.
- Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
Thuyết minh con Trâu - Mẫu 1
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp và ngắn. Bụng to. Da dày có màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.
Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày.
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 - 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C 1,5 - 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 - 500kg, đường tốt là 700 - 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5m khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mỹ nghệ như lược, tù...
Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu - có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường là những người chăm chỉ cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.
Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn - Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.
Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kỳ tích thống lĩnh mười hai sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc... Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA Games 22. Trâu không còn là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu là biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
Thuyết minh con Trâu - Mẫu 2
Nếu bạn đã từng đi qua những làng quê ở Việt Nam thì không thể không bắt gặp những chú trâu đang cần mẫn cày ruộng hay đang thong thả gặm cỏ. Con trâu là người bạn thân thiết của người dân và gắn bó lâu đời với nhau từ hàng ngàn năm nay. Và chúng được xem như biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uốn cong như hình một lưỡi liềm. Chúng được con người sử dụng làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Một con trâu đực trung bình cày bừa từ 3 - 4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 - 3 sào.
Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400 - 500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.
Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo... Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng.
Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”.
Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những “kháp đấu” giữa các “ông trâu”. Mỗi 'ông trâu' trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các “kháp đấu” giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.
Con trâu đã gắn bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê việt nam và Đất nước Việt Nam.
Thuyết minh về con cá chép
Dàn ý thuyết minh con cá chép
I. Mở bài:
Giới thiệu về cá chép: Loài cá nước ngọt phổ biến được sử dụng làm thực phẩm hàng ngày trong bữa cơm của người Việt.
II. Thân bài:
- Nguồn gốc: Cá chép có nguồn gốc ở châu u và châu Á, hiện đã sinh sống tại tất cả các môi trường trên thế giới.
- Cấu tạo:
+ Thường có màu vàng, đen, màu sắc đậm dần về phía vây lưng.
+ Thân cá chép thon dài, hẹp ở hai phần đầu và đuôi.
+ Vảy cá xếp sát nhau tạo thành lớp bảo vệ cho cá khỏi va xước khi di chuyển.
+ Đầu cá chép nhỏ, mắt đối xứng hai bên cùng hệ thống giác quan gồm mũi, miệng và râu.
+ Mang cá áp sát thân, là cơ quan hô hấp để cá thở được dưới môi trường nước.
+ Lớp vây bám dọc thân, cá chép có hai vây nhỏ sát mang giúp di chuyển dễ dàng.
+ Đuôi cá hình rẻ quạt, chia đôi đối xứng có chức năng giữ thăng bằng, giúp cá bơi đúng hướng.
- Trong quá trình bơi, cá chép uốn mình, hai thùy vây đuôi uốn thành hình số tám, đưa thân cá tiến lên phía trước. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vây đuôi, vây lưng và và đôi vây ngực khiến cá chép di chuyển nhanh chóng, dễ dàng.
- Tập tính: Cá chép thường ăn những thực vật mềm như rong, rêu, thích sống thành bầy để cùng nhau kiếm ăn.
- Cá chép sinh sản theo mùa, mỗi ổ trứng cá sinh sản được từ ba đến bốn nghìn cá thể cá con. Số lượng cá chép mỗi mùa rất lớn, mang đến nguồn lợi kinh tế cao cho người chăn nuôi.
- Vai trò:
+ Thực phẩm bổ dưỡng.
+ Vị thuốc trong y học.
- Về mặt văn hóa, tinh thần:
+ Cá chép theo quan niệm dân gian được cho là con vật gắn với biểu tượng sức khỏe dồi dào, trường thọ.
→ Truyền thuyết 'cá chép hóa rồng' dùng để nhắc đến sự thi cử đỗ đạt của học trò, sự thành công trong làm ăn, buôn bán.
+ Cá chép cũng được chọn làm con vật linh, dùng để phóng sinh khi đi chùa chiền, lễ Phật.
III. Kết bài:
- Cá chép là loài động vật gần gũi, thân thuộc với người Việt Nam. Để đảm bảo chất lượng và số lượng cá chép, cần bảo tồn, nuôi trồng có kế hoạch, khai thác hợp lý, điều độ để cá chép có điều kiện và khả năng sinh sản tốt, phục vụ nhu cầu con người.
Thuyết minh con cá chép - Mẫu 1
Cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao…Cá chép có mặt ở nhiều nơi trên thế giới. Người phương Đông coi cá chép là loài cá quý.
Màu sắc đặc trưng của cá chép là màu vàng đen, sẫm dần về phía vây lưng. Gần đây, đã xuất hiện loài cá chép có màu đỏ rất đẹp. Vảy của cá chép tròn và to, xếp chồng lên nhau như ngói lợp.
Thân của cá chép hình thoi, thon dài. Đầu gồm hai mắt, hai đôi lỗ mũi, hai đôi râu, miệng nhỏ. Phần gối giữa thân và đầu có hai nắp mang, bên trong có một số lớp màng màu hồng. Khúc đuôi bắt đầu từ vây đuôi hông và kết thúc ở vây đuôi.
Cá chép có một đôi vây ngực, một đôi vây hông là các vây chẵn và vây đuôi, vây lưng, vây hậu môn là những vây lẻ. Mỗi vây bao gồm nhiều tia vây được nối liền với nhau bằng một nếp da mỏng, mở ra và thu vào dễ dàng. Khi cá uốn mình, hai thùy của vây đuôi uốn theo hình số tám, đẩy cá tiến lên phía trước. Vây đuôi cũng có tác dụng điều chỉnh hướng bơi của cá.
Ngoài nhiệm vụ giữ thăng bằng cho cá khi bơi đứng yên, đôi vây ngực và đôi vây hông cũng giúp cá bơi theo hướng lên trên hoặc xuống dưới, rẽ phải hoặc rẽ trái, giảm vận tốc bơi, dừng lại hoặc bơi giật lùi. Khi cá bơi nhanh, các đôi vây chẵn áp sát vào thân để giảm sức cản của nước.
Cá chép thường sống trong suối, sông, hồ, đầm, ao, ruộng… Chúng thích kiếm ăn ở tầng nước giữa và tầng đáy. Cá chép là loài ăn tạp. Chúng ăn giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép cũng ăn cả phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép… Cá chép dễ nuôi, ít bị bệnh nhưng tốc độ tăng trưởng không nhanh bằng các loài cá khác. Sau sáu tháng, cá chép có trọng lượng nửa kí trở lên.
Thịt cá chép mềm mịn, thơm ngon, được nhiều người yêu thích. Cá chép có thể được chế biến thành nhiều món ngon như cháo cá chép, cá chép chiên, hấp, nấu canh chua hoặc sốt với cà, nấm, lẩu cá chép…, đều là những món ăn ngon và bổ dưỡng. Đặc biệt, cháo cá chép còn được coi là một món ăn bổ dưỡng dành cho người ốm và phụ nữ sau khi sinh con để hồi phục sức khỏe.
Hiện nay, việc nuôi cá chép đã phát triển rộng khắp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, góp phần không nhỏ vào nền kinh tế địa phương. Trong văn hóa dân gian, cá chép được coi là biểu tượng của sự may mắn và lòng kiên trì, nghị lực vươn lên. Câu chuyện 'Cá chép vượt vũ môn hóa rồng' đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người và tranh Cá chép Đông Hồ thường được người Việt mua về treo trong nhà vào dịp Tết Nguyên đán.
Cá chép ở Việt Nam không chỉ là một loài cá thông thường mà còn mang trong mình giá trị văn hóa sâu sắc của dân tộc. Mỗi dịp cuối năm, vào ngày 23 tháng Chạp, nhà nhà lại thả cá chép ra sông, ra hồ, ý nghĩa để đưa ông Công, ông Táo về trời, báo cáo về gia đình mình trong năm vừa qua, cũng như cầu mong cho một năm mới an lành, may mắn.
Thuyết minh về con cá chép - Mẫu 2
Việt Nam là quốc gia có nhiều loại cá phong phú như cá chuối, cá rô, cá rô diếc, cá trôi…, và trong số đó, cá chép là một loại cá không thể bỏ qua. Cá chép không chỉ giàu dinh dưỡng mà còn là một món ăn ngon của người dân Việt Nam. Một khi đã thưởng thức cá chép, bạn sẽ khó lòng quên được hương vị đặc biệt của nó. Vậy, cá chép có những đặc điểm gì mà lại được người dân ưa chuộng đến vậy?
Trước hết, về chỗ ở và nguồn gốc, cá chép là loài cá nước ngọt, thường sống ở sông, hồ hoặc được nuôi trong đầm, ao… Cá chép phân bố rộng rãi trên thế giới và được coi là loài cá quý ở phương Đông. Với sự gần gũi với đời sống của người dân Việt Nam, cá chép là một loài cá được ưa chuộng để làm thực phẩm. Cá chép thường xuất hiện trên những mương sâu ở quê, hoặc được nuôi trong những ao đầm, có kích thước cơ thể lớn hơn so với cá chép tự nhiên.
Về màu sắc, cá chép có màu vàng đen, từ từ chuyển sang màu sắc sậm hơn ở phía đuôi lưng. Màu sắc này thực sự rất đẹp, chỉ cần nhìn một lần là biết ngay đó là cá chép. Ngày nay, đã xuất hiện loại cá chép màu vàng đỏ rất đẹp. Vảy của cá chép rất to, đều nhau, nhỏ dần về phía đuôi và được xếp đều nhau như những chiếc mái ngói màu vàng đen sau mỗi cơn mưa gió.
Về thân hình và vây, cá chép có thân hình dài, không quá dài như cá chuối nhưng đủ để được gọi là dài, mang dáng thon thả. Cái đầu với những bộ phận giống như những con cá khác nhưng đặc biệt với đôi mắt to và sáng hơn. Miệng nho nhỏ và mang trong có màu hồng nhạt đẹp mắt, còn có hai cái râu ở miệng. Cá chép có vây ngực, vây hông là vây chẵn, vây lưng, vây hậu môn là vây lẻ. Những chiếc vây nhỏ này giống như những chiếc xương được bao bọc bởi một lớp da mỏng, giúp cá có thể bơi. Cấu trúc vây của cá chép cũng giúp con người chế tạo dụng cụ bơi giống hình vây của cá. Vây đuôi uốn theo vòng tròn để đẩy cá tiến lên phía trước, định hướng bơi của cá.
Cách thức kiếm thức ăn của cá chép là chúng sống ở đáy hoặc giữa nước để kiếm thức ăn. Cá chép là loài ăn tạp, có thể ăn được nhiều thứ như giun, ốc, ấu trùng, côn trùng và cỏ nước. Trong ao nuôi, cá chép cũng ăn phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép. Điều này làm cho cá chép trở thành loài cá dễ nuôi và ít bị bệnh.
Cá chép là một nguồn thực phẩm quan trọng cho con người, đặc biệt là đối với phụ nữ mang thai. Thịt cá chép dai, thơm ngon có thể chế biến thành nhiều món như cá chép chiên giòn, nấu canh sốt cà chua, canh dưa cá…
Cá chép không chỉ là một loại thực phẩm ngon mà còn mang trong mình những truyền thuyết đầy ý nghĩa. Truyền thuyết về cá chép hóa rồng vượt thác biểu hiện cho sự vươn lên trong cuộc sống của con người. Đặc biệt, vào ngày tết ông Công, ông Táo, cá chép được coi là phương tiện để các táo lên chầu trời. Do đó, trong dịp này, người dân thường mua cá để cúng tổ tiên và sau đó thả chúng ra sông, hồ.
Nhìn chung, cá chép có những đặc điểm nổi bật và ý nghĩa của nó không chỉ là nguồn thực phẩm mà còn là những truyền thuyết sâu sắc. Việc bảo vệ loài cá này khỏi hóa chất độc hại là cần thiết để đảm bảo nguồn thực phẩm tươi ngon cho mọi người.
Thuyết minh về con lợn
Dàn ý thuyết minh về con lợn
I. Mở bài:
- Dẫn dắt, giới thiệu đối tượng thuyết minh: Con heo (theo cách gọi miền Bắc) hoặc con lợn (theo cách gọi miền Nam)
- Giới thiệu đối tượng thuyết minh: con heo (loài vật nuôi quen thuộc, được nuôi rộng rãi, có vai trò quan trọng,…).
II. Thân bài
- Nguồn gốc của loài lợn:
+ Có nguồn gốc từ lục địa Á - Âu.
+ Lợn nhà ngày nay bắt nguồn từ lợn rừng đã được thuần hóa.
Hình dáng và đặc điểm đặc trưng của con lợn:
- Hình dáng đặc trưng:
+ Có 4 chân, chân thấp, có móng guốc
+ Toàn thân được phủ bởi một lớp lông cứng bên ngoài
+ Có mõm lớn, mũi to.
+ Hai tai to và đứng ngửa.
- Đặc điểm, tập tính tự nhiên của lợn (heo):
+ Là loài ăn tạp
+ Có khứu giác phát triển, thích đào và bới
+ Thích sống ở nơi mát mẻ, ẩm ướt
+ Sinh sản mạnh, có nhiều con
- Vai trò của lợn trong đời sống:
+ Một số giống lợn được nuôi như thú cưng, làm kiểng.
+ Cung cấp thịt, da làm thực phẩm.
+ Đóng vai trò quan trọng trong việc trao đổi, mua bán để tăng nguồn thu nhập cho người chăn nuôi.
+ Lợn và thịt lợn thường được sử dụng trong các buổi lễ, tế, thờ cúng.
+ Lợn cũng là nguồn cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật, xuất hiện trong thơ ca, mỹ thuật, văn học,…
III. Kết bài
- Khẳng định lại vai trò của lợn đối với cuộc sống con người và cảm nhận của tác giả đối với con vật quen thuộc và hữu ích này.
Thuyết minh về con lợn - Mẫu 1
Cuộc sống của con người sẽ trở nên tẻ nhạt và buồn chán nếu thiếu những con vật để làm bạn. Mèo và chó có vai trò quan trọng trong cuộc sống của nhiều người, nhưng lợn hiền lành và đáng yêu cũng mang lại những phút giây thư giãn và yêu đời cho mọi người.
Chắc chắn mọi người đều quen thuộc với loài vật này, lợn đã trở thành một loài vật nuôi phổ biến. Lợn nhà có nguồn gốc từ lợn rừng, được con người săn bắt và thuần hóa. Người ta chọn lọc những con lợn tốt để nuôi và giết thịt, còn những con kém chất lượng. Lợn rừng được coi là tổ tiên của lợn nhà, và được cho là đã tạo nên các giống lợn nhà ở châu Á và châu Âu.
Các giống lợn được chia thành giống chính và giống phụ. Ở châu Á và châu Âu, có bốn giống lợn chính và 25 giống lợn phụ. Lợn ngày nay được tạo thành từ ba giống lợn phụ của châu Á, bao gồm Sus orientalis, Sus vitatus, và một giống lợn châu Âu là Sus crofa. Ngoài ra, còn có các giống lợn khác nhau ở vùng nhiệt đới và ôn đới như lợn rừng và lợn hoang dã. Lợn nước hoặc lợn đầm lầy là loại lợn thích nghi với môi trường sống ẩm ướt.
Lợn là loài động vật có móng. Kích thước và hình dáng của lợn thay đổi tùy theo từng giống. Lợn có thể dài đến 1905 đến 500mm, đuôi dài từ 35-450mm. Lợn trưởng thành có thể nặng tới 350kg. Mắt nhỏ và dẹt của lợn nằm cao trên hộp sọ. Tai dài và rủ xuống với một nhúm lông gần đầu. Hộp sọ của lợn dài và có một điểm chấm bằng phẳng. Mũi to bằng bàn tay và khá linh hoạt. Cả bốn chân có móng nhưng chỉ thực sự hoạt động ở các ngón giữa. Lợn thường có lớp lông trắng phớt hồng và một số lông trắng điểm xuyết.
Lợn nuôi chủ yếu để cung cấp thịt ngon, giàu chất dinh dưỡng, thịt có tỷ lệ xẻ và mỡ cao. Mỡ cung cấp năng lượng và làm cho thịt thêm ngon. Thịt lợn có giá trị cao trên thị trường và đóng góp quan trọng cho cuộc sống con người. Thịt lợn được chế biến thành nhiều loại thức ăn khác nhau và cũng được sử dụng trong ngành công nghiệp da, lông.
Sau khi được thuần hóa, lợn trở thành một mặt hàng có giá trị trong kinh doanh và trao đổi hàng hóa. Việc buôn bán lợn đã tạo ra nguồn thu nhập cho hàng triệu gia đình nông dân. Các sản phẩm từ lợn cũng ảnh hưởng đến nhiều ngành khác nhau như thương mại, vận tải, chế biến thực phẩm, và nhiều lĩnh vực khác.
Lợn không chỉ là nguồn thức ăn mà còn có giá trị văn hoá đặc biệt. Nó được thể hiện trong văn học, nghệ thuật và truyền thống văn hóa. Lợn thường được biểu hiện như con người trong các tác phẩm nghệ thuật.
Lợn mang lại nhiều lợi ích cho con người và có giá trị tinh thần. Chúng cần được chăm sóc và bảo vệ.
Thuyết minh về con lợn - Mẫu 2
Lợn đã từ lâu trở thành biểu tượng của sự gắn bó với cuộc sống quê hương Việt Nam, là nguồn thu nhập quan trọng cho người nông dân.
Trong chăn nuôi gia súc, lợn mang lại lợi nhuận cao. Ở Việt Nam, có nhiều giống lợn được nuôi như lợn ỉn, lợn sề, lợn mán, lợn cắp nách. Lợn ỉn là loại phổ biến nhất, phát triển mạnh ở Bắc Bộ.
Lợn là loài vật dễ nuôi, thức ăn chủ yếu là bèo cái, khoai nước, cám và rau. Thịt lợn ỉn rất ngon và được nhiều người ưa chuộng, trở thành thực phẩm phổ biến ở Việt Nam.
Ngoài lợn ỉn, Việt Nam cũng có nhiều giống lợn khác như lợn rừng, lợn cắp nách, lợn móng cái. Lợn trên vùng núi thường được nuôi thả rông.
Chăn nuôi lợn ở Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, nhiều giống lợn mới được nhập khẩu và nuôi theo phương pháp hiện đại, mang lại lợi ích kinh tế cho người dân.
Lợn là loài vật quen thuộc và mang lại nhiều lợi ích cho con người, đặc biệt gắn bó mật thiết với người nông dân và với cuộc sống ở nông thôn Việt Nam.
Thuyết minh về con gà
Dàn ý Thuyết minh con gà
I. Mở bài:
Gà, một loài vật nuôi quen thuộc, gắn bó sâu đậm trong đời sống của người Việt Nam, không chỉ mang lại lợi ích vật chất mà còn có ý nghĩa tinh thần đặc biệt. (Có thể sử dụng câu thơ của Xuân Quỳnh từ bài 'Tiếng gà trưa' để giới thiệu về loài gà)
II. Thân bài:
- Gà có nguồn gốc từ gà rừng, sau được con người thuần hóa nên gọi là gà nhà.
- Khác với gà rừng, gà nhà thường quay về chuồng vào buổi tối do đã quen với việc được chăm sóc.
- Gà thuộc họ chim, có vũ lông. Có nhiều loại gà như gà gô, gà ri, gà tam hoàng, gà ta,...
- Về giới tính, có gà mái và gà trống:
+ Gà trống to lớn, đầu có mào đỏ, lông đẹp, đuôi dài, chân có cựa, mạnh mẽ và uy nghi.
- Gà trống có sức mạnh và uy lực.
+ Gà mái dịu dàng, lông mượt, đuôi ngắn, mắt tròn, không có mào, chân không cựa.
+ Gà ăn thóc, côn trùng, giun đất, chuối thái nhỏ băm trộn cám, bột viên,...
- Gà mái đẻ trứng, mỗi lứa có thể đẻ từ 15 đến hơn 20 quả. Trứng ấp trong khoảng 3 tuần thì nở ra gà con. Chúng có thể tự kiếm ăn nhưng thường được mẹ dẫn đi. Mỗi khi mẹ tìm thức ăn, liền gọi con đến ăn. Nếu có loài vật nào đe dọa đàn con, mẹ sẽ bảo vệ con.
- Vai trò của gà trong đời sống con người:
Gà là một động vật hữu ích, mang lại nhiều lợi ích kinh tế cho con người.
+ Trứng gà là nguồn thực phẩm quan trọng. Chúng được chế biến thành nhiều món ngon như trứng luộc, trứng chiên, trứng ốp la,...Trứng gà cũng được sử dụng để làm bánh, kem. Ngoài ra, trứng gà còn được dùng trong dưỡng da.
+ Thịt gà là một món ăn ngon. Có nhiều món ngon từ thịt gà như gà luộc, gà xé rau răm, gà hấp, gà chiên, gà quay,...
+ Lông gà qua xử lý hoá học có thể trở thành bột giặt hiệu quả. Ngoài ra, lông gà còn được dùng để làm cây cọ, chổi, quạt, áo lông gà, cầu đá cầu,...
+ Chất thải từ gà có thể được sử dụng làm phân bón cho cây trồng, đặc biệt tốt cho cây ớt và thuốc lá.
- Gà không chỉ mang lại lợi ích vật chất mà còn đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống tinh thần của con người.
+ Tiếng gáy của gà là âm thanh báo hiệu mỗi buổi sáng, mỗi chiều tà. Nó gợi nhớ đến cuộc sống thanh bình, yên bình, thường được thể hiện trong văn học và thơ ca. Trong truyện cổ tích 'Sọ Dừa', tiếng gáy đã mang lại sự đoàn tụ cho Sọ Dừa và cô Út. Trong bài thơ 'Tiếng gà trưa' của Xuân Quỳnh, tiếng gáy được miêu tả như một phần của cuộc sống hằng ngày: 'Trên đường hành quân xa - Dừng chân bên xóm nhỏ - Tiếng gà ai nhảy ổ - Cục cục tác cục ta - Nghe xao động nắng trưa - Nghe bàn chân đỡ mỏi'.
+ Trên bàn cúng, gà luộc toàn con thường được dùng để biểu hiện lòng biết ơn và tôn trọng đối với tổ tiên, ông bà.
+ Gà cũng thường xuất hiện trong các lễ hội truyền thống với trò chơi chọi gà đặc sắc. Ở Pháp, gà trống Gô-la thường được coi là biểu tượng của sự thịnh vượng của đất nước.
- Hình ảnh của gà mẹ dẫn bầy con đi kiếm thức ăn là điểm nhấn trong bức tranh về cuộc sống ở làng quê Việt Nam.
- Tuy nhiên, do ảnh hưởng của môi trường sống, nhiều dịch bệnh đã xuất hiện trong những năm gần đây, đặc biệt là bệnh cúm gia cầm H5N1. Do đó, việc chăm sóc gà cần phải được thực hiện cẩn thận để ngăn ngừa sự lây lan của bệnh, tránh ăn thịt gà bị nhiễm bệnh. Một hệ thống kiểm soát chặt chẽ về nguồn gốc thực phẩm cũng cần được đảm bảo.
III. Tổng kết:
- Đặt gà vào vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người.
- Thể hiện tình cảm của tác giả đối với loài vật nuôi này.
Thuyết minh về con gà - Mẫu 1
Bức tranh thôn quê Việt Nam hiện lên với sự rực rỡ của màu sắc, nhưng cũng mang đến cảm giác yên bình. Trong bức tranh ấy, có cây đa, giếng nước, mái đình, con trâu,... nhưng điều gần gũi nhất với mỗi gia đình chính là đàn gà chạy rộn rã trước sân nhà.
Với người nông dân Việt Nam, con gà nhà luôn là một người bạn thân thiết và quen thuộc nhất giữa hàng loạt các loài gà khác nhau. Gà đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thịt và trứng cho con người. Đặc điểm chung của gà là cánh tròn, ngắn, toàn thân phủ lông. Để phù hợp với cuộc sống săn mồi trong đất, gà đã được thiên nhiên ban tặng đôi chân to có móng cùn và cứng, phủ vảy sừng mỏng màu vàng và một cái mỏ ngắn mạnh mẽ. Gà không phải là loài chim có khả năng bay lượn từ thuở ban đầu mà chúng đã trải qua quá trình thuần hóa, không còn khả năng bay lượn. Đa số thời gian, chúng sử dụng chân để di chuyển trên mặt đất. Vì vậy, cơ bắp của gà chủ yếu tập trung ở chân, cơ ngực và các bộ phận khác là cơ trắng.
Thiếu nhi vẫn hát một bài hát dễ thương về loài vật này: “Gà không biết gáy là mẹ gà con. Gà mà không gáy là vợ gà cha. Đi lang thang trong sân có con gà có con gà”. Chỉ qua mấy câu hát đơn giản ấy đã cho ta thấy một gia đình gà. Gà trống được xem là gà bố, chính xác như một ông bố với dáng vẻ vững vàng, chân có móng sắc, bộ lông óng mượt rực rỡ, nổi bật với bông hoa đỏ trên đầu được gọi là mào gà. Gà trống có tiếng gáy vang xa, lâu đời đã được coi là đồng hồ báo thức của người nông dân. Gà mái hay gà mẹ, cũng giống như một người mẹ, hiền lành và chậm rãi, bộ lông không sặc sỡ như gà trống. Nhưng bù lại, với “nhiệm vụ” của một người mẹ, gà mái có khả năng ấp trứng và nở ra những chú gà con rất đáng yêu: Gà mái đẻ mỗi lứa từ 10 đến 20 trứng. Đa số gà mái sau khi đẻ trứng thường kêu “cục tác”. Đó là biểu hiện sự hưng phấn của gà mái, hay có thể nói đó là niềm vui của gà mẹ, một “người mẹ” có tình mẫu tử mãnh liệt. Gà con vừa chui ra khỏi vỏ trứng giống như một nắm nhưng có sự sống, bé nhỏ trong bộ lông vàng tơ óng mượt. Gà con mới nở có thể theo mẹ đi kiếm mồi ngay.
Với gà, hạt thóc và hạt mạch... có thể coi là một loại đặc sản. Dù đã ăn những thứ đó hàng ngày, chúng vẫn thích mổ đất và bới tìm những hạt sỏi, hạt cát. Vì không có răng, gà cần phải dùng sỏi để nghiền thức ăn và chúng đã tận dụng điều này để tiêu hóa thức ăn. Thịt và trứng của gà là những nguồn dinh dưỡng tốt cho con người.
Không chỉ từ xưa mà đến nay vẫn vậy và không chỉ đối với người nông dân mà đối với tất cả mọi người dân Việt Nam, con gà đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống văn hoá ẩm thực. Có thể nói, con gà đã trở thành một phần của tín ngưỡng, của đời sống tâm linh văn hóa của người dân Việt Nam. Gà là một trong mười hai con giáp, vẫn được gọi là “Dậu”. Con “Dậu” đại diện cho một tuổi. Ai đã từng đặt chân đến Việt Nam, đã từng tìm hiểu và yêu thích nền văn hóa dân tộc Việt thì chắc chắn không thể quên được những bức tranh Đông Hồ đậm đà nét văn hóa Việt với hình ảnh phong phú, màu sắc đặc trưng nhưng đơn giản mà không kém phần trang nhã, đặc biệt với những bức tranh như: “Vinh hoa”, “Gà trống hoa hồng”, “Gà dạ xương”… Trong mắt người Việt Nam, con gà được coi trọng và yêu thương đến thế. Từ lâu, con gà đã trở thành một phần không thể thiếu trong bất kỳ lễ hội truyền thống hay ngày cúng nào của người Việt Nam. Đêm giao thừa, vào giờ chuyển giao, mỗi gia đình lại cùng nhau bày mâm cỗ trước cửa nhà để cầu mong một năm mới tốt lành, hạnh phúc. Tất nhiên, mâm cỗ không thể thiếu con gà. Con gà luộc được đặt trong một đĩa lớn ở giữa mâm, miệng ngậm một bông hồng. Đó là biểu tượng của sự may mắn, hạnh phúc mà mọi nhà đều ao ước. Tự nhiên như vậy, con gà trống trở thành linh vật của người Việt Nam, đại diện cho sự may mắn yên bình, hạnh phúc, luôn luôn mang ý nghĩa linh thiêng đối với nhân dân. Con gà còn được đưa vào văn học, vào ca dao, tục ngữ của dân tộc. Có câu chỉ đề cập đến kinh nghiệm trong văn hoá ẩm thực như: “Con gà cục tác lá chanh”, nhưng cũng có câu dạy bảo con người như:
Khôn ngoan đối đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Gần đây, dịch cúm gà hoành hành đã làm cho bữa cơm Việt Nam trở nên thưa thớt món thịt gà. Mọi người cảm thấy thiếu thiếu một cái gì đó, đặc biệt là vào mỗi dịp Tết đến.
Con gà là biểu tượng của sự sống, của hi vọng, của sự an lành đối với người dân Việt Nam. Hy vọng rằng dịch bệnh cúm sẽ được kiểm soát để con gà có thể trở lại, trở lại bên người nông dân, trở lại với bữa cơm hàng ngày và luôn gần gũi, thân thiện với người dân Việt.
Thuyết minh về con gà - Mẫu 2
Các giống vật đều có hai loại là đực và cái; đối với gà, người Việt gọi con gà đực là gà trống hay gà sống và con gà cái là gà mái. Gà trống thì ít hơn gà mái.
Gà trống trông oai vệ và rất đẹp trai với lông dài mượt, óng ánh, và nhiều màu sắc. Gà trống còn có mào đỏ chói trên đầu, đuôi dài và xòe rộng, bầu diều ở cổ, và cựa gà ở mỗi chân. Nhờ cựa gà, gà trống nổi tiếng qua việc chọi gà.
Gà trống được coi như đồng hồ vì tiếng gáy đúng giờ. Gà trống được nuôi để làm vật tôn thờ vì nó biết gáy sáng. Gà trống được coi trọng với 5 đức tính lớn: văn, võ, dũng, nhân, tín.
Gà mái nhã nhặn và khiêm nhường, lông màu vàng và đen. Gà mái không có bầu diều ở cổ, gáy “cục cục, cục ta cục tác,” và thường bận rộn với việc tìm ăn, đẻ trứng, ấp trứng, và săn sóc gà con.
Gà là loài chim có hai chân, hai cánh, và lông vũ che phủ toàn thân. Mắt gà tròn, nhỏ như hạt đậu đen, không có lông mi. Gà không có vành tai, thính giác hữu hiệu để tránh cầm thú săn đuổi. Gà có khả năng bay không tốt như các loài chim khác, chân có bốn ngón với móng rất sắc dùng để đào đất, bới đất, và cào cỏ tìm thức ăn. Mỏ gà cứng và nhọn, không có răng. Gà thích ăn thóc, gạo, rau, cỏ, trái cây, và nhiều loại con sâu bọ khác.
Gà rất điều độ về việc thức ngủ, khi tối gà đã rủ nhau về chuồng đi ngủ; sáng, đàn gà thức giấc và gà trống gáy o! o! Gà chỉ ngủ theo cùng đàn ở nơi quen thuộc và an toàn, sợ nhất là rắn hổ mang và mùi của củ hành hay lá hành. Vì thế, gà có đời sống rất thoải mái.
Ở Việt Nam, nhiều vùng chuyên nuôi gà mái để đẻ trứng và nuôi gà con; sau đó, khi cần thì giết gà để ăn thịt. Nhiều người nuôi gà có kinh nghiệm nhìn quả trứng để biết trứng đó sẽ nở ra gà trống hay gà mái. Nếu đầu quả trứng nhọn thì sẽ nở ra gà trống, còn nếu tròn trịa thì sẽ nở ra gà mái. Có gia đình nuôi gà chỉ để lấy trứng làm đồ ăn. Trứng gà được ấp trong lò ấp nhân tạo. Trứng gà lộn được ưa thích dùng làm đồ ăn để nhậu rượu.
Nhiều người nuôi gà để ăn thịt. Thịt gà được dùng để làm nhiều món ngon như: gỏi gà, gà quay, gà kho sả, gà luộc, gà nướng lá chanh, gà hấp muối, gà hầm thập cẩm, gà rim nước dừa, gà nấu tiêu, gà chưng cách thủy, gà tiềm, phở gà, miến gà, bún gà, mì gà, hủ tiếu gà, gà rút xương bỏ lò, và gà nhồi thập cẩm. Vào ngày Tết, dân Việt thích ăn xôi với thịt gà và chọi gà để vui vẻ.
Người ta nuôi gà để làm đồ cúng bái trong dịp Tết, giỗ gia tiên, và dùng con gà giò còn sống để cúng lễ mở cửa mả. Gà trống lớn được dùng để cúng thần linh khi làm lễ thề thốt. Gà, xôi, trầu, và rượu là 4 lễ vật tối thiểu để cúng thần thánh.
Người Việt dùng gà để bói (kê bốc). Họ dùng gan, đầu, mật, phổi, xương, và trứng gà để bói, quyết định trước khi giết gà. Người ta cũng dùng tiếng gáy của gà để bói, thường thường gáy sáng là tốt và gáy vào buổi chiều là xấu.