So sánh giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương bao gồm dàn ý chi tiết và 6 bài văn mẫu được lựa chọn kỹ lưỡng từ các bài làm xuất sắc của học sinh trên toàn quốc. Tài liệu này sẽ giúp bạn có thêm tư liệu tham khảo phong phú, nâng cao vốn từ vựng để đạt điểm cao trong bài viết số 3 lớp 11. Chúc bạn học tốt.
Đề bài: 'Nguyễn Khuyến và Tú Xương chia sẻ cùng một nỗi lòng nhưng cách họ diễn đạt thơ khác nhau' - làm rõ quan điểm này.
Dàn ý của Bài viết số 3 lớp 11 đề 2
1. Khai bút:
- Trong một thời đại đầy những bi kịch của xã hội thực dân nửa phong kiến, Nguyễn Khuyến và Tú Xương bước chân vào cuộc sống với muôn vàn gian truân, bất công, tàn ác,…
- Dù cả hai là những nhà thơ nổi tiếng, thế nhưng giọng thơ của họ lại mang những tinh túy riêng. Thơ của Nguyễn Khuyến dịu dàng, sâu lắng, còn thơ của Tú Xương mạnh mẽ, chát chúa.
- Melancholy và độc đáo trong tác phẩm của họ là điều không thể phủ nhận.
2. Nội dung chính:
a. Sự thổ lộ của hai nhà thơ
– Dưới bóng tối của xã hội thực dân nửa phong kiến, cả hai chứng kiến những bi kịch của cuộc sống, những cảnh khổ cực của người lao động.
– Cả hai nhà thơ đều chia sẻ cùng một nỗi lòng:
- Tâm sự về đất nước, về thời đại.
- Tình thân, tình bạn và gia đình.
- Thương cảm trước cảnh khổ của dân chúng, trước những bi kịch của xã hội hiện thời.
- Phê phán, chỉ trích những tật xấu trong xã hội.
b. Sự đặc sắc của giọng thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương
- Nguyễn Khuyến
- Thơ trào phúng: tiếng cười dí dỏm, dễ nghe, sâu sắc và ý nghĩa.
- Thơ lãng mạn của Nguyễn Khuyến: từ nhẹ nhàng đến chạm đến lòng người.
- Tú Xương
- Tiếng cười trào phúng của Tú Xương là tiếng cười gay gắt, cay đắng, mãnh liệt.
- Phần thơ tình của Tú Xương: Điển hình là bài Thương vợ. Nhà thơ mô tả về người vợ kiên cường, biết hy sinh của mình với tình yêu và lòng kính trọng, ngưỡng mộ. Bài thơ thành công vẽ nên hình ảnh của người vợ, một người mẹ tận tụy, giàu lòng hi sinh.
c. Nguyên nhân của sự khác biệt:
- Nguyễn Khuyến có trí thức sâu rộng, thuận lợi hơn trong việc học tập. Ông đã đạt được thành công trong sự nghiệp thi cử. Thi vào Hương, Hội, Đình, ông đều đỗ đầu. Ông là một người tài năng, mang trong mình tình yêu quê hương và lòng nhân ái.
- Tú Xương thông minh nhưng lại gặp nhiều khó khăn trong cuộc thi. Mặc dù đã tham gia thi nhiều lần, nhưng ông chỉ đậu được ở những vị trí thấp hơn. Cuộc sống gia đình khó khăn. Trách nhiệm gia đình đè nặng lên vai bà Tú. Ông không thể giúp đỡ được gì cho gia đình. Chính vì điều đó, giọng thơ của ông đầy bi thương và phẫn nộ.
3. Kết luận:
- Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều là hai nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam. Cả hai đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị về cả nội dung lẫn nghệ thuật.
- Cả hai đều chia sẻ cùng một tâm trạng: căm ghét xã hội thực dân nửa phong kiến, đầy những bi kịch bất công.
- Hiểu biết về thơ của cả hai, chúng ta sẽ càng hiểu rõ hơn tâm tư của từng nhà thơ, cũng như sự đặc biệt trong giọng văn của họ. Đồng thời, chúng ta cũng hiểu được đóng góp to lớn mà cả hai đã dành cho văn học dân tộc.
Bài viết số 3 lớp 11 đề 2 - Mẫu 1
Như chúng ta đã biết, Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ sống cùng thời đại, đều là những con người đầy nhiệt huyết, yêu nước và đam mê văn chương. Họ đã sử dụng lời thơ, lời văn của mình để phản ánh, mỉa mai và đả kích xã hội thực dân phong kiến. Đồng thời, họ cũng đã thể hiện tình yêu quê hương, đất nước và chia sẻ tâm tư của mình về tình hình đất nước. Điều này được thể hiện rõ qua các tác phẩm như “Câu cá mùa thu” của Nguyễn Khuyến và “Vịnh khoa thi hương” của Trần Tế Xương.
Mặc dù cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều có cùng một tâm trạng, cùng một niềm căm ghét, sự phẫn uất đối với xã hội phong kiến nửa thực dân cùng thời, nhưng do hoàn cảnh và lai lịch riêng biệt, giọng thơ của họ lại được thể hiện một cách khác biệt. Điều này đã được phản ánh qua các bài thơ, văn của họ.
Nguyễn Khuyến sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng học giỏi, đỗ đầu ba kỳ thi Hương, Hội, Đình. Ông rời bỏ sự nghiệp quan lại vì bất mãn với triều đình, trở về quê hương dạy học, sống một cuộc đời trong sạch. Ông có tình yêu sâu đậm với quê hương và đất nước. Cuộc sống của ông không gặp phải nhiều gian khổ, mang lại niềm vui nhẹ nhàng. Điều này được thể hiện qua bài thơ “Câu cá mùa thu”, nơi Nguyễn Khuyến mô tả một bức tranh mùa thu êm đềm, với tình yêu thầm kín đến chân thành và giọng thơ nhẹ nhàng, sâu sắc của ông.
Về Tú Xương, ông không may mắn trong việc thi cử, phải thi nhiều lần và chỉ đậu tú tài. Không như Nguyễn Khuyến, ông phải đối mặt với khó khăn, túng thiếu. Thơ của ông là biểu hiện của tâm huyết, là lời nói của ông đến dân, đến quê hương, đến cuộc sống. Đặc biệt là bài Vịnh khoa thi hương. Trong đó, ông bày tỏ sự phẫn uất, châm biếm đối với chế độ thi cử và cuộc sống của mình. Ông miêu tả một hiện thực ồn ào, hỗn loạn của xã hội nửa thực dân, và tỏ ra bất lực trước tình cảnh của đất nước. Giọng thơ của ông thể hiện sự căm ghét mạnh mẽ, nhưng cũng thể hiện sự tiếc nuối vì không thể làm gì cho đất nước, không thể giúp đỡ gia đình. Sự bất lực đó được thể hiện rõ trong từng câu, từng chữ trong bài thơ.
Hai nhà thơ, cùng chia sẻ một nỗi lòng, nhưng cách họ thể hiện, tâm trạng của họ, mặc dù có khác nhau, nhưng đều hướng về một mục tiêu chung, một tương lai với một xã hội bình đẳng, không bất công, không áp bức. Hai nhà thơ, là hai mảng sắc, cho ta cảm nhận những giá trị nghệ thuật khác nhau, nhưng đều chảy trong một dòng chảy duy nhất.
Từ những gì mà Tú Xương và Nguyễn Khuyến đã thể hiện trong các bài thơ của mình, chúng ta có thể thấy rằng mặc dù cả hai đều có tình yêu với quê hương, thiên nhiên, đất nước, nhưng giọng thơ của họ lại khác nhau không chỉ về hoàn cảnh sống, cảm nhận mà còn ở sự lựa chọn và cuộc sống riêng biệt.
Bài viết số 3 lớp 11 đề 2 - Mẫu 2
Nỗi lòng đó tạo ra cái nhìn chân thực, đập mạnh vào hệ thống thi cử cuối mùa, tạo ra những người học trò cho xã hội thực dân xâm lấn:
Một nhóm thanh niên đứng xem
Nó đỗ khoa này được vui không nhỉ
Trên ghế bà đầm ngồi như vịt
Dưới sân ông cử cao đầu rồng
Đối với việc bị coi thường, họ sử dụng ngôn từ để đáp trả. Hiện thực này xuất phát từ thành phố Nam, nơi Tú Xương sinh sống, với trường thi đầy áp lực.
Phần lớn thơ của Tú Xương nói về việc tham gia thi cử, thất bại, và đề cập đến nhiều địa danh, tên người ở Nam Định. Khi biểu hiện tình cảm, Tú Xương có thể mơ mộng về Tam Đảo Ngũ Hồ, nhưng khi thực tế, ông lại trình bày chi tiết, chứng minh mạnh mẽ, làm cho những ghi chú lịch sử:
Trong phố hàng Song thật đông đúc quan
Thành phố đen thui, Đốc thì yên bình
Và các quán như lang Xán, Sinh, cửa hàng Thiều Châu, cửa hàng Hanh Tụ…
Nguyên liệu hình thành nên văn học của Tú Xương là Nam Định. Tâm hồn thơ của ông đã liên kết với quê hương, ôm trọn một trang sử lịch thiên. Hộ khẩu của Tú Xương thường trú tại phố Minh Khai, nay trở thành phố Minh Khai, số nhà 280. Gia đình ông Trần Ngọc Thành đã sinh sống tại đây từ năm 1952, ngôi nhà đã trải qua nhiều lần sửa chữa, nhưng vẫn giữ được dấu ấn của căn nhà gác hai tầng của Tú Xương nằm ẩn sau. Khách thăm viếng vẫn được chủ nhà mở cửa rộng, chào đón vào thăm. Tuy nhiên, chỉ có những người hiểu biết, khách vãng lai qua lại trên phố không thể biết được đây chính là nơi Tú Xương từng ăn ở. Căn nhà đã trở nên cũ kỹ. Có lẽ chủ nhân của căn nhà này chưa muốn phá bỏ và xây mới, bởi trong lòng một người con Nam Định vẫn còn lưu giữ một phần tình cảm với Tú Xương.
Phố Minh Khai, trước đây là phố hàng Nâu, nơi mà Tú Xương đã để lại dấu ấn đậm nét. Căn nhà số 280, nơi mà gia đình ông Trần Ngọc Thành đã sinh sống từ năm 1952, đã trải qua nhiều lần sửa chữa. Ngày nay, một căn nhà mới được xây dựng phía trước. Tuy vậy, vẫn giữ được nguyên dạng căn nhà gác hai tầng của Tú Xương nằm ẩn sau. Khách thăm viếng vẫn được chủ nhà mở cửa chào đón. Tuy nhiên, chỉ những người hiểu biết mới biết rằng, đây chính là nơi ông Tú từng ăn ở. Căn gác đã trở nên xuề xòa. Có thể chủ nhân của căn nhà này chưa muốn phá đi và xây mới, vì trong lòng một người dân Nam Định vẫn còn lưu giữ một phần tình cảm với Tú Xương.
Thơ của Tú Xương đã tạo ra một phần quan trọng của văn hóa dân tộc, đặc biệt là ở Nam Định. Những di tích còn lại từ cuộc đời ông đã trở thành một phần quý giá của thành phố, thu hút sự chú ý và ngưỡng mộ từ người dân khắp nơi khi đến Nam Định. Thời gian càng trôi qua, đời sống văn hóa của chúng ta càng được nâng cao, và những di tích ấy càng trở nên vô giá.
Do đó, mong ước của chúng tôi là ủy ban tỉnh và ngành văn hóa sẽ mua lại căn nhà 280 Minh Khai, với diện tích chỉ 102 mét vuông, nhằm bảo tồn và khôi phục lại căn nhà cũ, đặt bảng kỷ niệm và bảo vệ di tích của nhà thơ, cũng như là dấu vết kiến trúc của một Nam Định thuở xưa.
Đối diện với căn nhà số 280, là nơi mà Tú Xương từng sống, bên kia đường là gian nhà mà ông đã dạy học. Mặc dù gian nhà đã xuống cấp, phải sử dụng tấm tôn để sửa chữa mái ngói, nhưng vẫn còn lại những tường mè cũ và trước sân nhỏ, còn một bức phù điêu vôi vữa hình cuộn thư, có chữ triện. Dù trải qua biến cố của thời gian, nhưng vẫn đủ để gợi lại những kí ức về người xưa.
Khôi phục lại ngôi nhà, tái hiện và thu thập những bút tích, lều chõng, kỷ niệm về thi cử thuở xưa, biến đây thành Bảo tàng Tú Xương, nơi lưu giữ cả thơ và truyền thống học vấn. Điều này không chỉ là cách chúng ta tri ân nhà thơ mà còn làm dậy lên niềm tự hào của người dân Nam Định về truyền thống hiếu học từ bao đời.
Tiếng gọi của đò trong bài thơ Sông Lấp của Tú Xương làm rung động lòng người Việt vì nó mang trong mình âm hưởng của quê hương. Đối với tôi, đó chính là bài thơ tuyệt vời nhất của Tú Xương, cũng như là bài thơ của một thời kỳ lịch sử, của tinh thần quốc gia Việt Nam sâu sắc.
Hai dòng thơ từ bài thơ này đã được các nhà quản lý văn hóa khắc trên bia mộ của Tú Xương, tại vườn hoa Vị Xuyên. Mộ đã được di dời từ những năm khó khăn của đất nước. Ngày ấy, có người phê phán, chỉ trích ngành văn hóa: buộc ông Tú phải rời xa ruộng đồng, đến nằm nơi thành thị bụi bặm, vườn hoa bóng liễu, nơi trai gái tụ tập. Nhưng nhìn vào toàn bộ không gian kiến trúc ở đây, một trong những nơi trọng yếu nhất của thành phố, nơi mà mọi du khách đều muốn thăm viếng, mới thấy rằng việc di chuyển mộ của Tú Xương vào lúc đó là đúng đắn. Tiếc rằng trong hai dòng thơ được khắc trên bia, có một chữ sai, cần được sửa chữa.
Quay trở lại với bài thơ Sông Lấp, bài thơ mang đậm dấu ấn của Tú Xương. Nam Định chúng ta nên tạo ra một bức tượng của ông Tú, mặc trang phục truyền thống, gọi đò như trong bài thơ. Bức tượng sẽ nhìn ra sóng nước của sông Đào, gần Cầu Đò Quan thoáng đãng. Tú Xương gọi mộc nước. Chúng ta gọi hồn ông. Chúng ta tự hào khi kế thừa tinh hoa tâm hồn ông để lại, và qua bức tượng, chúng ta cũng biểu dương lòng biết ơn đối với Tú Xương đời sau.
Một người là Nguyễn Khuyến đã lên tiếng với thời đại, lên án những kẻ độc ác thâm độc như Hoàng Cao Khải, mụ Tư Hồng... Một người là Tú Xương, thơ hay mà thi cử thì không thuận lợi nên trong tâm hồn thơ mình tự tin và mạnh mẽ.
Những trải nghiệm đó tạo ra cái nhìn sâu sắc về hiện thực, đập vào mặt tôi vào những kỳ thi cuối cùng, dạy tôi phục vụ cho thực dân xâm lược:
Một đám người hỏng hoang mà nhìn
Chúng đỗ được cái kỳ này có sung không
Trên chiếc ghế bà đầm ngoi đít như vịt
Dưới sân ông cử vẫn nằm đầu rồng
Bài viết số 3 lớp 11 đề 2 - Mẫu 3
Hiện thực xã hội luôn là nguồn cảm hứng cho thơ ca, vì thơ ca, nghệ thuật là gương phản ánh chân thực nhất của sự phát triển và biến động của cuộc sống. Tú Xương và Nguyễn Khuyến, cả hai sinh ra ở Nam Định, có những trải nghiệm và tâm trạng tương tự nhau nhưng họ biểu đạt khác nhau trong thơ ca của mình. Điều đó tạo ra sự đa dạng, phong phú cho văn học thơ ca Việt Nam hiện đại.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ sống trong cùng một thời đại: cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Đó là thời kỳ đầy biến động trong lịch sử dân tộc. Từ năm 1858, Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam tại cửa biển Đà Nẵng. Triều đình nhà Nguyễn nhanh chóng đầu hàng, cho Pháp chiếm đất, thiết lập chế độ thực dân. Vua Nguyễn trở thành bù nhìn để Pháp điều khiển. Cuối thế kỷ XIX, triều đình suy đồi, chế độ phong kiến Việt Nam suy yếu và xã hội gặp nhiều khó khăn. Đời sống dân chúng khổ cực, xã hội bất ổn, với nhiều giá trị truyền thống bị lung lay và sụp đổ. Tiền tệ và sự phi nhân tính trở nên phổ biến. Cuộc sống bất công, đau buồn và những tình huống hài hước trở nên thường ngày. Những nhà thơ như Nguyễn Khuyến và Tú Xương, những người yêu nước, đau khổ trước biến cố của thời đại, đã biểu lộ nỗi buồn, nỗi đau và cả sự châm biếm trong thơ của họ.
Tâm trạng Tú Xương và Nguyễn Khuyến tương đồng, đều thấu hiểu hiện thực xã hội đầy bất công, đau khổ của nhân dân lao động.
“Nợ nần chồng chất, lệ rơi miên man
Bận rộn từng ngày với mồ hôi nhừ
Một khi đã tham gia, phải chấp nhận
Không kí, không thông, vẫn phải trả tiền!”
Nguyễn Khuyến viết về sự thống trị của tiền bạc, đôi khi thậm chí cả nhân phẩm bị mua bán trong xã hội.
“Mặt mày son phấn, lòng đen tối tăm
Dùng tiền chuộc tội tình của cha mẹ
Có tiền thì làm được mọi việc à?
Thế hệ trước cũng vậy à?”
Không chỉ chia sẻ niềm đau về quê hương, thơ của Tú Xương và Nguyễn Khuyến còn tôn vinh tình yêu gia đình và bạn bè, ghi lại hình ảnh đẹp của quê hương.
“Bầu trời xanh mây trắng tung bay
Ngõ trúc quanh co, vắng tanh teo
Bó gối buông lơ đãng, câu cá chẳng đâu
Động dưới bèo, cá nào lẻ loi”
Ta ngưỡng mộ tình bạn thân thiết, cao quý giữa Nguyễn Khuyến và bạn bè của ông:
“Không có trầu, không có đàn khách
Bác đến đây, ta chỉ có ta”
Trong những bài thơ tình cảm, Tú Xương ghi lại lòng biết ơn sâu sắc đối với bà Tú, người vợ thương yêu. Bà Tú không chỉ là người phụ nữ trong cuộc sống của ông mà còn là người bạn đồng hành, chia sẻ mọi gánh nặng:
“Nước sông xoáy vần dòng năm tháng
Chồng con bà ấp ủ từng ngày
Công việc trang trải đời thường vắng bóng
Cuộc đời như chiếc thuyền đò qua sông”
Hai nhà thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương chia sẻ cùng nỗi đau cuộc sống nhưng vẫn phản ánh khác biệt trong phong cách sáng tạo. Nguyễn Khuyến thể hiện thơ trữ tình với sự đa dạng, từ sâu lắng đến bi thương. Cười trong thơ ông nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, phản ánh sự tự trào. Trong bài Tiến sĩ giấy, ông gợi lên sự mơ hồ, không phân biệt được thật giả, phản ánh sự mất niềm tin vào các hình mẫu cổ xưa. Thơ của Tú Xương tập trung vào tình yêu đối với bà Tú, người phụ nữ kiên cường và đáng ngưỡng mộ. Thơ trào phúng của ông đầy gai góc, sâu cay. Trong bài Vịnh khoa thi hương, ông miêu tả hình ảnh sĩ tử, quan trường với sự nhộn nhịp, hài hước, châm biếm, phản ánh nỗi phẫn nộ trước thực trạng xã hội.
“Ghế xanh chóe ngồi chơi vơi,
Đồ thật đồ giả phân biệt ngơ ngẩn !”
Tú Xương và Nguyễn Khuyến thể hiện sự khác biệt trong cách thể hiện tình cảm và quan điểm về cuộc sống. Nguyễn Khuyến thể hiện sự đa dạng, đau thương và bi thương trong thơ trữ tình, trong khi Tú Xương tập trung vào tình yêu gia đình và thể hiện sự phẫn nộ, châm biếm trong thơ trào phúng.
“Sĩ tử với lọ đeo vai,
Quan trường gào thét miệng loa.
Trời quan sứ cắm lọng lều,
Mụ đầm lê quét dẫm ra”
Bài thơ của Tú Xương và Nguyễn Khuyến phản ánh sự nhốn nháo, hỗn loạn của xã hội qua những hình ảnh hài hước và châm biếm. Tú Xương biểu đạt sự phẫn uất trước thực trạng xã hội thông qua thơ trào phúng của mình, trong khi Nguyễn Khuyến tập trung vào sự mất niềm tin và thất vọng vào hình mẫu xưa kia.
Sự khác biệt giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương nằm ở việc Khuyến thành công trong thi cử, được người ta kính trọng là Tam Nguyên Yên Đổ, trong khi Tú Xương sống với khó khăn và bất lực. Thơ của ông phản ánh sự chua chát, phẫn uất.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ nổi tiếng của Việt Nam vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Sáng tác của họ đã đóng góp vào văn hóa và nghệ thuật dân tộc. Dù có điểm tương đồng trong tâm sự, nhưng giọng thơ của họ lại khác biệt.
Bài viết số 3 lớp 11 đề 2 - Mẫu 4
“Trên thế giới có hai sức mạnh: thanh gươm và cây bút. Thanh gươm thì đoạt thành chiếm đất, cây bút thì thu phục lòng người”. (Napoleon)
Thời kì văn học trung đại Việt Nam kết thúc với thành tựu cuối cùng rất rực rỡ của hai cây bút đã chinh phục lòng người cho đến tận ngày hôm nay, đó là Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Dù có điểm tương đồng trong tâm sự, nhưng phong cách văn chương của họ lại khác biệt.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương, mặc dù sống cùng thời, lại trải qua cuộc đời hoàn toàn khác biệt. Khuyến thành công trong công danh rồi trở về quê sống bình yên, trong khi Tú Xương thất bại liên tục trong cuộc đời và sống trong sự mịt mùi lận đận.
Tú Xương sống trong sự thất vọng và chán nản sau những lần thất bại trong cuộc đời, được thể hiện qua những dòng thơ sâu lắng.
Điểm giống nhau của Nguyễn Khuyến và Tú Xương là có nỗi niềm tâm sự giống nhau. Lời thơ của hai ông đều mang nặng lòng yêu thương đất nước, dân tộc, quê nhà.
Nguyễn Khuyến thể hiện tình yêu nước sâu sắc thông qua bức tranh phong cảnh mùa thu ở nông thôn Việt Nam trong bài thơ Thu điếu.
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Nguyễn Khuyến như tù binh của cần câu, đau đớn nỗi đời quay quắt, giấu kín tình yêu nước trong cảnh thu, ao thu như cá giấu dưới ao bèo.
Tú Xương buồn đau trước vận nước, vận dân, chất vấn thực dân phong kiến qua giọng văn châm biếm sâu cay trong bài thơ Vịnh khoa thi Hương.
“Nhân tài đất Bắc nào ai đó,
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”.
Hai bài thơ của Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều tôn vinh hình ảnh người phụ nữ. Trong bài “Mẹ Mốc”, Nguyễn Khuyến mô tả người phụ nữ đầy cảm động, mẹ Mốc, dành trọn tâm tư cho chồng con đang ở xa.
So danh giá ai bằng mẹ Mốc,
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra;
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
Làm thế để cho qua mắt tục.
… Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
Giữ son sắt êm đềm một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ …
Tú Xương viết bài Thương vợ để thể hiện sự tri ân với vợ mình, người đã gánh vác mọi việc trong gia đình khi ông chỉ sống được có 37 năm và thi cử 8 lần mới đỗ Tú tài.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận
Năm nắng mười mưa dám quản công.
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Bà vợ của Tú Xương đã được ông viết vào thơ với niềm thương yêu và trân trọng.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương khác nhau về giọng thơ. Giọng thơ của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, thể hiện hình ảnh làng quê Việt Nam và niêm luật rõ ràng của thể thơ Đường luật.
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lững, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”.
Ngoài những bài thơ trữ tình, Nguyễn Khuyến cũng sáng tác những dòng thơ trào phúng rất đặc trưng của một nhà nho, với giọng điệu thâm trầm và thâm thúy. Ông thể hiện tài năng trào phúng bậc thầy của mình qua những tác phẩm sôi động và sinh động.
“Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”.
Tính cách chua chát và thâm thúy của ông được thể hiện qua cách ông cười châm biếm về bản thân và vai trò lịch sử của mình trong chốn quan trường.
Tú Xương được xem là một nhà nho thị dân, thể hiện qua những bài thơ trào phúng cay độc, châm biếm xã hội. Lời thơ của ông mang tính phá cách, hiện thực, và có kiểu tự trào rất ác miệng về bản thân.
“Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng”.
Nếu khi cười về bản thân, Nguyễn Khuyến thể hiện sự nhẹ nhàng và thâm thúy, thì Tú Xương lại biến thành châm biếm, chế giễu sự vô tích sự của mình:
“Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không”.
Tú Xương chỉ đỗ tú tài sau nhiều lần thi, từ năm 1885 đến 1906. Kinh nghiệm đó tạo ra cái nhìn hiện thực, châm chọc về hệ thống giáo dục và thi cử thời bấy giờ. Bài thơ Vịnh khoa thi Hương là minh chứng cho thái độ mỉa mai, phẫn uất của ông đối với chế độ thi cử và con đường học vấn của mình.
Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.
Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,
Ậm ọe quan trường miệng thét loa.
Xe kéo rợp trời: quan sứ đến;
Váy lê phết đất, mụ đầm ra.
Vậy chúng ta đánh giá thế nào về hai nhà thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương? Đoàn hồng Nguyên đã có nhận xét:
“Nếu thơ tự trào của Nguyễn Khuyến là kiểu thơ tự trào của một nhà nho, thì thơ tự trào của Tú Xương lại là kiểu thơ tự trào của một nhà nho thị dân”.
Nguyễn Khuyến, một bậc đại nho, đã đạt vị thế cao nhất trong lịch sử học văn Việt Nam. Tiếng cười của ông thường mang dấu ấn của bậc trí thức, luôn đưa ra những lời khuyên từ bi với những lời trào phúng nhẹ nhàng, rõ ràng.
“Nguyễn Khuyến chỉ trích thực tế của xã hội một cách nhẹ nhàng và tinh tế, thể hiện ý chí cao thượng của một nhân văn sĩ muốn thông qua lời nói trào phúng để khuyên bảo mọi người”.
Tú Xương, mặc dù có tài, nhưng gặp khó khăn trong việc đỗ cử. Sống trong thành thị, cuộc sống của ông phản ánh sự loạn lạc của xã hội. Thơ tự trào của ông, mang dấu ấn của một nhà nho thị dân, thể hiện sự độc lập và sắc sảo.
“Tú Xương, một nhà thơ và một công dân có trí tuệ, đã đóng góp tích cực vào sự phát triển của văn hóa dân tộc Việt Nam”.
Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ ưu tú, hai tài năng nổi bật của văn học Việt Nam. Trong tâm hồn sâu thẳm, họ luôn tôn trọng tài năng của nhau. Một câu chuyện truyền miệng sau đây cũng làm cho điều này trở nên rõ ràng hơn. Khi Tú Xương qua đời, Nguyễn Khuyến đã đến thăm mộ với một câu thơ cảm động như sau:
“Kìa ai chín suối xương không tan,
Ngàn thu tiếng vẫn vang mãi không phai”.
Tóm lại, so sánh hai nhà thơ Nguyễn Khuyến và Tú Xương, không phải để xác định ai xuất sắc hơn, mà để thấy rõ tài năng và phong cách riêng của từng người. Dù đã trải qua hơn một thế kỷ, nhưng Nguyễn Khuyến và Tú Xương vẫn để lại trong lòng độc giả niềm yêu mến, tôn trọng: một cụ Tam Nguyên Yên Đổ dịu dàng và sâu sắc, một ông Tú Vị Hoàng sắc sảo và mạnh mẽ. Chính vì thế, tên tuổi và tác phẩm của họ đã được truyền tụng từ ngàn xưa đến nay và sẽ mãi vẹn nguyên. Bởi vì “văn học không tuân theo những quy luật của thời gian. Nó chỉ không chấp nhận cái chết”.
Bài viết số 3 lớp 11 đề 2 - Mẫu 5
Xã hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX là một xã hội nửa thực dân nửa phong kiến, với bao nhiêu thăng trầm và thối nát. Đây chính là môi trường để văn thơ hiện thực trào phúng phát triển mạnh mẽ, tạo nên một hướng đi riêng. Các tác giả của dòng thơ này chủ yếu là những nhà nho. Họ có những niềm đau và tâm sự giống nhau, nhưng cũng có nhiều điểm khác biệt. Điều này được thấy rõ nhất ở hai nhà thơ tiêu biểu là Nguyễn Khuyến và Tú Xương.
Cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều có nguồn gốc từ gia đình nho gia, điều này khiến họ chia sẻ một số tư tưởng tương đồng. Dù không sinh sống trong cùng thời kỳ (Nguyễn Khuyến lớn lên trước khi Pháp xâm lược, trong khi Tú Xương sống trong thời kỳ xâm lược và bình định của Pháp), nhưng cả hai đều trải qua những thời kỳ khó khăn nhất của lịch sử dân tộc. Xã hội Việt Nam lúc đó chuyển sang một xã hội mới là xã hội thực dân nửa phong kiến. Trước tình hình đó, cả hai đều cảm thấy bất mãn và phản kháng, biểu hiện qua giọng văn thơ của họ. Mặc dù cùng bày tỏ sự bất mãn với xã hội, châm biếm và chỉ trích, nhưng cách thể hiện của họ lại khác nhau. Nguyễn Khuyến châm biếm những vấn đề xã hội và chính trị với ý nghĩa sâu sắc. Động lực của ông không phải từ lợi ích cá nhân mà từ lòng yêu nước. Ông chỉ trích những người liên quan đến việc mất nước hoặc sự thống trị của Pháp. Nguyễn Khuyến khinh bỉ và căm ghét các quan lại, vì ông cho rằng họ làm việc phản đối đạo đức của một nhà nho chân chính. Ông chỉ trích toàn bộ các vị quan đương thời là những người vô dụng:
Vua chèo còn chẳng bằng thằng hề,
Quan chèo vai nhọ khác gì thế đâu.
Nguyễn Khuyến cũng chỉ trích các nhà tri thức là 'những ông tiến sĩ giấy', coi họ không có giá trị thực sự:
Thân xiêm áo nhẹ nhàng lắm,
Danh thế mua bằng giá vô ích.
Ghế lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Ngờ rằng hàng thật hóa đồ chơi.
Tóm lại, cả Nguyễn Khuyến và Tú Xương, mặc dù đều chia sẻ sự bất mãn với xã hội, nhưng cách họ thể hiện qua thơ lại rất khác nhau.
Nguyễn Khuyến đã phơi bày sự giả tạo và xấu xí của bọn quan lại một cách nhẹ nhàng và sâu sắc. Cách thể hiện này thường được thực hiện qua các hình ảnh ẩn dụ khéo léo, từ lời mắng của vợ chồng, đến đồ vật giả, hoặc là lời khuyên... Tất cả đều mang ý nghĩa sâu sắc.
Trái ngược với Nguyễn Khuyến, Tú Xương miêu tả hiện thực một cách thực tế và đắng cay, không nhẹ nhàng như Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, không phải ai cũng đánh giá thấp cách thể hiện này. Ông không chỉ phản ánh cá nhân mà còn bất mãn của dân tộc. Bất mãn cá nhân và bất mãn của dân tộc trong thơ của Tú Xương thường kết hợp lại với nhau, tạo nên một cái nhìn sâu sắc và phê phán hiện thực. Quan lại trong thơ của Tú Xương thường được mô tả với sự khinh thường và ghê tởm, trở thành một món hàng trên thị trường:
Quan lại tranh nhau vị trí,
Thọ triệu tiền thẳng hàng thị trường
Hai đứa hò hét nhau để giành vị trí thủ khoa, nhưng khi đạt được, họ chỉ nhận ra rằng đó chỉ là một trò đùa:
Trên ghế quan cử, mặc đồ lòe loẹt,
Dưới sân, sĩ tử chen lấn nhau
Với quyền lực, quan lại trở nên tham nhũng, tham lam, không còn mảnh đạo đức nào:
Chồng đánh vợ, vợ đánh chồng, quan lại ăn xin
Nhưng chẳng phê thân, chỉ phê tiền
Đặc biệt, họ chỉ chăm chỉ trong việc hút máu dân, không hề nghĩ đến trách nhiệm gì cả:
Chăm chỉ trong việc mòn quyền lợi
Chẳng bận lòng việc thiện lương làm chi
Dưới bàn tay của Tú Xương, quan lại trở thành những kẻ hề, đội mặt nạ, biểu diễn để lừa gạt mọi người:
Chẳng may gì đám kia hát tuồng,
Đúng là hò hét lúc nào cũng uông
Dối lừa trẻ thơ chẳng đành lòng,
Mặt nạ vôi trắng đau lòng càng thêm
Mô tả những quan lại thời phong kiến đầu tiên trong xã hội thực dân như Tú Xương rất ấn tượng.
Trong xã hội thực dân nửa phong kiến, tiền bạc có thể gây ra biến động lớn trong xã hội. Đây đều là biểu hiện tiêu cực của tiền bạc, nhưng ở Nguyễn Khuyến, nó trở thành một câu hỏi nhẹ nhàng nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa:
Việc gì có tiền mà không xong chứ!
Trước kia làm quan cũng vậy phải không?
Khác biệt với cách viết của Tú Xương, dưới bút pháp của ông, tiền bạc có sức mạnh đặc biệt. Nó được mọi người ngưỡng mộ và tôn thờ. Nó khiến kẻ tráng sĩ 'co ro' khi không có trong túi, nhưng lại khiến ai có nó cũng tự do nói xấu mà không bị chỉ trích. Thực tế là như thế này:
Người thích người, kẻ ghét người cứ nói
Thằng quý thằng khinh vì vụ tiền bạc.
Vì tiền mà bao nhiêu điều ác tàn, bao nhiêu điều tai họa mỗi ngày lại diễn ra trong xã hội. Một ví dụ điển hình về tiền là:
Cha mẹ si tình, lấy dép giày ra tay
Thìa trắng thìa đen cũng nhao nhác thôi.
Vì tiền mà những người tu hành từ bỏ cả lòng từ bi của Phật để làm nghề cho vay lãi cao, vì tiền mà nhiều gia đình rạn nứt, con khinh cha, vợ chê chồng. Thật là đáng sợ. Đồng tiền đã phá hủy tâm hồn con người, phá hủy đạo lý, phá hủy bao nhiêu tình cảm cao quý của con người.
Với cùng một đề tài phản ánh, người đọc luôn phân biệt được thơ của Nguyễn Khuyến và thơ của Tú Xương nhờ vào cách viết. Thơ của Nguyễn Khuyến luôn nhẹ nhàng, thường ẩn dụ để chỉ trích, phê phán đối tượng. Đằng sau những từ ngữ ấy là những ý nghĩa sâu xa, cay đắng. Còn thơ của Tú Xương thì khác, ông nói trực tiếp, chỉ trích mạnh mẽ đối tượng với tất cả những điều xấu xa của nó. Thơ của ông như những đòn trực tiếp vào đối tượng, phơi bày toàn bộ tội ác, sự giả dối trước mắt người đọc.
Khi đọc thơ của Nguyễn Khuyến, người ta cảm thấy hóm hỉnh và sâu sắc, nhưng khi chuyển sang thơ của Tú Xương, lại thấy sự bực tức, không hài lòng đối với xã hội thực dân nửa phong kiến. Xã hội đó đã sinh ra những điều lố lăng, vô vị. Ở đây, người đọc luôn thấy được sự xấu xa của đối tượng được nhắc đến và thái độ gay gắt của nhà thơ thể hiện trên từng dòng chữ mà không cần phải suy ngẫm, đợi chờ.
Tuy nhiên, việc châm biếm và chỉ trích sự xấu xa của xã hội chỉ là một khía cạnh của tình yêu nước ở hai nhà thơ này. Một khía cạnh khác không kém phần quan trọng là nỗi buồn, nỗi đau thương tiếc luôn ám ảnh tâm hồn họ. Cả hai đều nhận thức được nỗi nhục nhã mất nước, nhận thức được trách nhiệm của nhà quý trước số phận quốc gia nhưng cũng bất lực. Họ suy tư về dòng họ, tổ tiên, biết phản kháng với kẻ thù, biết khinh bỉ những kẻ mất lòng nhân ái. Nhưng đến cuối cùng, họ vẫn bị vướng vào vòng luẩn quẩn, sự thất vọng chủ yếu vì họ không đủ dũng cảm để đối mặt với cuộc chiến.
Nguyễn Khuyến từng làm quan, nhưng khi nhận ra suy đồi của chế độ, ông ngay lập tức từ bỏ. Theo tiếng gọi của lương tâm, ông quyết định sống cuộc sống của mình, dù nghèo khó nhưng vẫn giữ được danh dự. Tú Xương không làm quan, tham gia thi cử tám lần mà không thành công chỉ vì không đồng tình với quy định, phạm luật.
Dù đối mặt với những biến đổi của xã hội, tính cách, phẩm hạnh của hai nhà thơ vẫn giữ được sự vững vàng, kiên định. Ở họ, chúng ta thấy những quan điểm sống tương tự. Với Nguyễn Khuyến, đó là việc sống như một kẻ câm, mù 'Chỉ có tấm mặt trắng mới che đi vết đen'. Tú Xương cũng vậy, ông sống 'yên bình, như một kẻ câm, mù', là 'khôn chán thì giả vờ ngây thơ', là không cần phô trương chính trực với cuộc sống, ung dung bên ngoài các quy tắc mà vẫy vùng để thoải mái.
Hai con người, hai lối sống, hai cách thể hiện khác nhau, điều đó tạo nên sự đặc biệt đối với mỗi phong cách tác giả, đồng thời làm giàu, làm đẹp thêm cho văn học nước nhà. Nhưng mặc dù khác biệt về hình thức, họ gặp nhau trong lòng yêu nước chung, lòng trung thành. Điều này là yếu tố giúp cả Nguyễn Khuyến, người đại diện cho Tam Nguyên Yên Đổ, và Tú Xương, nhà thơ tiêu biểu của thời đại, luôn đi cùng nhau và bước vào cõi văn học Việt Nam bất diệt.
Bài viết số 3 lớp 11 đề 2 - Mẫu 6
Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), Trần Tế Xương (1870 – 1907) là hai nhà thơ trào phúng nổi tiếng của đất Hà Nam, Nam Định. Mặc dù chênh lệch về tuổi tác và sự nghiệp, nhưng cả hai đều có những quan điểm gần gũi về thời cuộc, và đã sử dụng tiếng cười châm biếm, trào lộng trong thơ để phản ánh những khuyết điểm của xã hội thực dân, phong kiến thời đó.
Cuối thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp đã hoàn tất việc chiếm đóng Đông Dương quân sự và bắt đầu thực hiện các kế hoạch thống trị trong các lĩnh vực khác như chính trị, kinh tế, văn hóa... Họ đã mở rộng hệ thống giáo dục để giảng dạy tiếng Pháp và đào tạo ra các quan lại bản xứ hợp tác với họ. Sự lấn át nhanh chóng của giáo dục thực dân đã làm suy yếu giáo dục truyền thống dựa trên triết lý Nho giáo đã tồn tại từ lâu trong dân tộc. Triết lý Nho dần mất đi, và nhiều tầng lớp trí thức đã từ bỏ nó để tìm kiếm danh vọng và phú quý trong các cơ quan của chính phủ Pháp, sống cuộc sống xa hoa và lạc quan, khác biệt hoàn toàn với cuộc sống gian khổ của dân tộc dưới ách thống trị nặng nề của thực dân Pháp.
Là một quan nhà Nguyễn có kinh nghiệm với hơn mười năm trong triều đình, Nguyễn Khuyến hiểu rõ tình hình đất nước vào thời điểm đó. Từ vua đến quan lại chỉ là những công cụ trong tay chính quyền thực dân, hoàn toàn tuân theo và bị chi phối bởi chúng. Thấu hiểu và đau lòng về sự nhục nhã của quốc gia, nhà thơ đã sử dụng lời than thở của một người phụ nữ hát chèo để diễn đạt tình hình đau lòng đó:
Vua làm chèo cũng chẳng ra gì,
Quan làm chèo còn nhọ hơn cả thằng hề.
(Những lời của người vợ hát chèo)
Theo sự lan truyền của tư tưởng từ phương Tây, tư bản chủ nghĩa cũng đã xâm nhập vào nước ta, thay đổi cấu trúc của xã hội phong kiến đã tồn tại hàng nghìn năm. Nền văn hóa truyền thống, nền đạo đức cũng bị ảnh hưởng mạnh mẽ. Nhiều giá trị cơ bản bị đảo lộn, tiền bạc trở thành thứ quan trọng nhất, chi phối cuộc sống của con người. Đó là lý do tại sao có những tình huống buồn cười nhưng lại đầy bi kịch trong các cuộc vui Tây mà thực dân Pháp tổ chức, trong đó, người bản xứ tham gia với sự vô tâm trước sự nhục nhã của việc bị thống trị:
Ở đó, âm thanh của pháo reo lên nhưng hội trường lại trở nên huyên náo,
Bao nhiêu cờ đỏ với đèn lấp lánh.
Bà quan khoe sự phong trần, ngắm nhìn sàn trải bơi bừa bộn,
Con bé méo mặt, nghiêng ngã hát chèo.
Cứ để sức mạnh của cây đu giúp đỡ, nhiều bà tiểu thư nhún nhảy,
Mong muốn tiền bạc, nhiều anh chàng leo lên.
Khen ngợi ai vẽ tranh đẹp, để tạo ra niềm vui cho mọi người,
Nhưng niềm vui ấy càng nhiều thì nhục nhã cũng tăng lên!
(Tiệc Tây)
Tiếng cười của Nguyễn Khuyến không chỉ là tiếng cười của lòng lương tâm, của ý thức trung thực, mà còn là sự sâu sắc và thấm đẫm nước mắt. Không chỉ cười những tình huống hài hước trong cuộc sống hàng ngày, nhà thơ còn dũng cảm nhìn sâu vào bên trong tâm hồn của mình để tự trải lòng:
Chẳng giàu chẳng sang, chỉ nhàn nhạt thôi,
Không gầy cũng không mập, chỉ bình thường thôi.
Cuộc đời không còn nước, chỉ còn đắng cay,
Không có tiền, chỉ còn lại niềm vui đơn sơ.
Nói ra chuyện vặt vãnh, ngó xuống sách báo,
Nhấm nhô chén rượu, ngả mình trong tiệc tùng.
Tự nghĩ mình là gì, lại càng thấy tủi thân,
Cũng chỉ là một người bình thường, không có gì nổi bật!
(Tự trải lòng)
Thật là bi kịch khi phải đối diện với hình ảnh của một con người bình thường, không thành công và không có danh vọng. Thật đáng tiếc và đáng buồn. Khi suy nghĩ về người khác, đôi khi người ta cũng tự cười nhạo bản thân mình với nụ cười chứa đựng sự đau đớn và tồn thương. Người ta thầm so sánh với những người có uy tín, nhưng cũng phải chịu thua trước thời đại đầy bất ổn, giống như một người nằm im mặc thế giới điên rồ xung quanh, không khác gì một viên đá vô tri.
Nhìn nhận cuộc đời với cái nhìn không bằng lòng của một người sinh ra không hợp với thời đại, từng khoanh khắc đều là những cảnh đau lòng, khó chịu:
Một gia đình đầy rẫy tranh cãi, con cái khinh bố,
Và bà vợ khó tính lại hay chửi chồng.
Vì tiền, các cô gái trẻ sẵn lòng khuất phục bản thân, trở thành vợ bé của các thầy giáo, quan lại, để rồi phải gánh chịu một kết cục đau lòng:
Tại sao Cô Kí lại chết sớm thế?
Thật là kỳ, Trời không thương xót ông Tây.
Cô gái mới lấy chồng một ngày,
Phố phường đồn đại câu đối đỏ,
Ông chồng dành hết tình thương cho xe hơi.
Đáng thương cho những cô gái ấy,
Nhưng vẫn tranh nhau lấy các thầy!
(Ngày mồng ba Tết viếng Cô Kí)
Vì tiền mà những tình huống hài hước, lố bịch xảy ra, khiến nhà thơ Tú Xương phải lên tiếng chỉ trích mạnh mẽ:
Nghe nói lắng nghe chúc phú quý,
Tiền triệu tỉ để mua may mắn.
Những kẻ này chắc chắn ăn hối lộ,
Tiền rơi, vàng rụng, phải cầu may.
Nghe nói lắng nghe chúc phong lưu,
Một người bán danh, một người mua quyền.
Những kẻ này dám đi buôn uy danh,
Chửi thề và quảng cáo vẫn bán được.
(Chúc mừng năm mới)
Hành vi chi tiền để mua quyền, mua danh vị, hoặc hối lộ để đạt được một vị trí hoặc danh hiệu nào đó đã trở nên phổ biến trong một xã hội đang rối loạn, mất đi sự chắc chắn. Dù có trí thức như Tú Xương nhưng vẫn thất bại vì không thoát khỏi sự tham trường, trong khi những người con nhà giàu nhưng học kém lại đỗ. Tức giận, nhà thơ bày tỏ qua từ ngữ mạnh mẽ:
Con trai của quan viên Kỉ,
Tài năng nhưng con của Đô Mĩ.
Thi cử cũng bèn thi,
Ôi trời ơi, thật là trời!
Những người đậu bằng cách khéo léo, hoặc xin quyền thì tràn lan khắp nơi. Trầm tĩnh, chín chắn như Nguyễn Khuyến cũng không nhịn được phải phê phán những người này qua bài thơ Tiến sĩ giấy:
Có biển, có cờ, có dải đai,
Gọi ông nghèo cũng không kém ai.
Mảnh giấy làm nên danh vị,
Nét son nổi bật nét văn chương.
Tấm bằng nhẹ nhàng tựa áo lụa,
Giá trị bằng cách học thức ấy mới đáng giá.
Ghế bọc da, bàn màu xanh trang trí lộng lẫy,
Người ta nghĩ rằng đó là đồ thật chứ không phải đồ chơi!
Sống trong một xã hội bị ám ảnh bởi quyền lực của tiền bạc và sự chệch độ của nó, những người như Nguyễn Khuyến, Tú Xương luôn coi trọng phẩm giá và chỉ cách duy nhất để bảo vệ nó là giữ gìn sự trong sạch, tránh xa sự giả dối, và không để tiền bạc làm mờ lịt tình thần. Đêm giao thừa, khi nghe tiếng pháo nổ chúc mừng năm mới từ những người giàu có, thi sĩ nghèo Tú Xương suy tư và bày tỏ cảm xúc qua hai câu thơ châm biếm:
Bầu trời đã chết vẫn đốt pháo,
Con người trắng trợn lại tô điểm giả tạo.
Tiếng cười ồn ào không phải là niềm vui thật sự mà chứa đựng nỗi đau, sự oán hận và mất mát. Sự hỗn loạn không chỉ tồn tại trong xã hội mà còn lan tỏa vào những nơi trang trọng như học viện Khổng sư, biến các kỳ thi về văn học Trung Quốc thành một trường chợ tư tưởng. Tú Xương mỉa mai với cảnh: Trên ghế bà, đống đứa quèo quèo, Dưới sân ông, quần quật, chậu hoa đỏ. và cũng thầm thốt trước quang cảnh hỗn loạn của một kỳ thi về văn học Trung Quốc tại Nam Định trong thời kỳ Nho giáo bị suy tàn:
Nhà nước mở một cửa hàng ba năm một lần,
Trường phúc lẫn lộn với trường Hà.
Các sinh viên kéo trai vai cõng lọ,
Quan quanh trường học reo hò phát biểu.
Cờ nằm trải dài, sứ giả về,
Chiếc váy lụa vương quét sạch đất.
Tài năng ở Bắc đâu mà nhìn?
Người ta chỉ biết quay đầu nhìn quê hương!
(Huyền thoại về kỳ thi Hương)
Dù cùng phê phán những hiện tượng tiêu cực trong xã hội thực dân phong kiến cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, tiếng cười của Nguyễn Khuyến và Tú Xương vẫn mang nét riêng biệt. Tiếng cười của Nguyễn Khuyến nhẹ nhàng, thâm sâu; trong khi đó, tiếng cười của Tú Xương lại mạnh mẽ như những cú roi đánh trực tiếp vào cái xã hội bất công. Miễn là cái ác, cái xấu còn tồn tại, giá trị của tiếng cười của hai nhà thơ nổi tiếng này vẫn không bao giờ hạ thấp.