Văn Mẫu Lớp 12: Phân Tích Tính Dân Tộc Trong Bài Thơ Việt Bắc Của Tố Hữu Bao Gồm 3 Gợi Ý Cách Viết Kèm Theo 14 Bài Văn Mẫu Cực Hay. Tính Dân Tộc Trong Việt Bắc Là Nguồn Tài Liệu Tham Khảo Cần Thiết Giúp Các Em Trong Quá Trình Học Và Đặc Biệt Là Kì Thi THPT Quốc Gia 2024 Sắp Tới.
Tính Dân Tộc Trong Việt Bắc Thể Hiện Rất Rõ Qua Thể Thơ Lục Bát Và Cách Sử Dụng Ngôn Ngữ. Thể Thơ Lục Bát Là Thể Thơ Quen Thuộc Của Dân Tộc Đã Được Sử Dụng Thành Công. Về Ngôn Ngữ Tố Hữu Đã Sử Dụng Lời Ẩn Tiếng Nói Của Nhân Dân Rất Mộc Mạc, Giản Dị Nhưng Cũng Rất Sinh Động Để Tái Hiện Lại Một Thời Cách Mạng Và Kháng Chiến Đầy Gian Khổ Mà Dạt Dào Nghĩa Tình. Vậy Sau Đây Là 14 Bài Văn Mẫu Phân Tích Tính Dân Tộc Trong Việt Bắc Mời Các Bạn Cùng Theo Dõi. Ngoài Ra Các Bạn Xem Thêm Phân Tích Bài Thơ Việt Bắc, Cảm Nhận 8 Câu Thơ Đầu Bài Việt Bắc.
Dàn Ý Phân Tích Tính Dân Tộc Trong Bài Thơ Việt Bắc
A. Mở Bài:
- Thảo luận về tác giả Tố Hữu và các tác phẩm của ông.
- Đưa ra quan điểm về sự hiện diện mạnh mẽ của yếu tố dân tộc trong thơ của Tố Hữu.
B. Nội Dung:
Tóm tắt về phong cách nghệ thuật và sự phát triển của thơ của Tố Hữu.
1. Thảo Luận Về Đặc Điểm Của Tính Dân Tộc
- Tính Dân Tộc Được Hiểu Là Một Đặc Điểm Nhưng Đồng Thời Cũng Là Tiêu Chí Đánh Giá Giá Trị Của Một Tác Phẩm Văn Học. Những Tác Phẩm Văn Học Lớn Từ Xưa Đến Nay Đều Mang Tính Nhân Loại Cũng Như Tính Dân Tộc Sâu Sắc.
- Trong Văn Học, Tính Dân Tộc Được Thể Hiện Ở Cả Nội Dung Và Hình Thức Nghệ Thuật. Về Nội Dung, Một Tác Phẩm Mang Tính Dân Tộc Phải Thể Hiện Được Những Vấn Đề Nóng Bỏng Liên Quan Đến Vận Mệnh Dân Tộc, Thể Hiện Được Khát Vọng, Tình Cảm Và Ý Chí Của Một Dân Tộc. Về Hình Thức, Tác Phẩm Đó Tiếp Thu Một Cách Sáng Tạo Tinh Hoa Văn Hóa Của Dân Tộc. Nếu Hiểu Như Thế Thì Thơ Tố Hữu Mang Phong Cách Nghệ Thuật “Đậm Đà Bản Sắc Dân Tộc”.
2. Biểu Hiện Của Tính Dân Tộc Trong Thơ Ca Của Tố Hữu
- Tố Hữu Sử Dụng Một Cách Tinh Tế Các Thể Loại Thơ Dân Tộc.
+ Thể Loại Lục Bát Được Tác Giả Sử Dụng Thành Công Và Được Coi Là Thể Loại Sở Trường Của Tố Hữu. Trong Cuộc Đời Sáng Tác, Tố Hữu Đã Có Nhiều Bài Lục Bát Xuất Sắc Như: Việt Bắc, Kính Gửi Cụ Nguyễn Du, Khi Con Tu Hú, Bài Ca Quê Hương.
+ Tố Hữu Cũng Sử Dụng Thành Thạo Ngoài Thể Lục Bát Còn Có Thể Sử Dụng Thể Sáu Thất Lục Bát. Bài Thơ Dài Ba Mươi Năm Đời Ta Có Đảng Làm Người Đọc Nhớ Đến Những Câu Thơ Trong Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca.
+ Tố Hữu Cũng Sử Dụng Thành Công Các Thể Thơ Bảy Chữ Và Bốn Chữ Như: Bác Ơi! Theo Chân Bác Hoặc Lượm, Voi.
- Tố Hữu Là Người Có Tài Năng Đặc Biệt Trong Việc Sử Dụng Những Hình Tượng Quen Thuộc Trong Thơ Ca Dân Tộc.
+ Nhà Thơ Sử Dụng Thành Công Những Hình Ảnh Đối Đáp Theo Kiểu Dân Gian:
Mình Về Mình Có Nhớ Ta
Mười Lăm Năm Ấy Thiết Tha Mặn Nồng.
+ Trong Thơ Tố Hữu, Ta Thường Bắt Gặp Những Hình Ảnh Bình Dị, Ấm Áp Của Cuộc Sống:
Thương Nhau Chia Củ Sắn Lùi
Bát Cơm Chia Nửa, Chăn Sui Đắp Cùng.
hoặc:
Bầm Ra Ruộng Cấy Bầm Run
Chân Lội Dưới Bùn, Tay Cấy Mạ Non.
Mạ Non Bầm Cấy Mấy Đợn
Ruột Gan Bầm Lại Thương Con Mấy Lần.
+ Đôi Khi, Tác Giả Tố Hữu Như Đã Tạo Ra Nhiều Câu Thơ Đẹp Lộng Lẫy Như Những Áng Thơ Cổ Điển (Việt Bắc, Kính Gửi Cụ Nguyễn Du). Nếu Nói Về Hơi Thở Của Văn Học Dân Gian Đậm Nét Sẽ Khiến Thơ Tố Hữu Mang Vẻ Đẹp Mềm Mại, Uyển Chuyển Thì Chất Bác Học Của Thơ Cổ Điển Đã Góp Phần Tạo Nên Sự Sang Trọng Cho Những Câu Thơ:
Âm Thanh Thơ Ai Rung Động Đất Trời
Nghe Như Tiếng Sóng Nước Vỗ Bờ Vắng
Nghìn Năm Sau Vẫn Nhớ Nguyễn Du
Tiếng Thương Như Tiếng Mẹ Ru Trong Bóng Chiều.
- Nét Đặc Trưng Của Âm Nhạc Trong Thơ
+ Dễ Dàng Nhận Thấy Thơ Tố Hữu Rất Rực Rỡ Âm Nhạc. Đó Vừa Là Âm Nhạc Của Thơ, Vừa Là Âm Nhạc Của Tâm Hồn:
Tôi Trở Về Quê Mẹ Dạy Dỗ Tình Thương
Một Buổi Trưa, Nắng Rực Bãi Cát Vẻ Vang
Gió Đang Thổi Lộng Lẫy, Sóng Biển Đang Đu Đưa
Lòng Ta Ngân Vang Tiếng Hát Trong Bình Minh.
+ Thơ Tố Hữu Sáng Tạo Trong Việc Ngắt Nhịp Để Tạo Nên Hiệu Quả Thẩm Mỹ
+ Một Lần Nữa, Tố Hữu Tạo Nên Âm Nhạc Bằng Cách Sử Dụng Kỹ Thuật Gieo Vần, Sử Dụng Từ Láy:
Nỗi Niềm Chi Rựa Huế Ai
Mà Mưa Xối Xả Trắng Trời Thừa Thiên.
+ Trong Khi Đọc Thơ Tố Hữu, Ta Thường Nghe Được Âm Thanh Đặc Trưng Của Tiếng Huế. Điều Này Được Hoài Thanh Nhận Ra Sớm Nhất Khi Ông Khẳng Định Thơ Tố Hữu Là Tiếng Thơ Tràn Đầy “Tình Thương Mến”
Huế À, Quê Mẹ Của Ta Ơi!
Nhớ Từ Khoảnh Khắc Tuổi Thơ, Tuổi Mười Chín
Mây Núi Hiu Hiu, Chiều Bóng Dần Khuất
Mưa Dồn Dập, Gió Biển, Nắng Vẫn Rực Rỡ.
C. Kết Thúc
- Không Có Một Nhà Văn, Nhà Thơ Đích Thực Nào Lại Từ Bỏ Quá Khứ, Từ Bỏ Truyền Thống Văn Hóa Của Dân Tộc Vì Từ Bỏ Văn Hóa Dân Tộc Cũng Có Nghĩa Là Từ Bỏ Nguồn Sữa Quý Báu Nuôi Dưỡng Hồn Thơ Mình. Như Nhà Thơ Hen-rich Hai-nơ Đã Có Lần Nói Rất Hay Rằng, Nếu Nhà Thơ Xa Rời Hiện Thực Thì Anh Ta Sẽ “Lơ Lửng Trên Không” Tựa Như Thần An-tê Bị Nhấc Khỏi Thần Mẹ Đất. Và Cũng Có Thể Nói Về Số Phận Nhà Thơ Như Thế Nếu Từ Bỏ Truyền Thống Văn Học Quý Báu Của Ông Cha.
- Trên Con Đường Sáng Tạo Nghệ Thuật Thì Người Nghệ Sĩ Luôn Luôn Được Ví Von Với Hình Ảnh Con Ong Cần Mẫn Vậy. Tố Hữu Cũng Đã Tiếp Thu Những Tinh Hoa Nghệ Thuật Của Dân Tộc Và Việc Tiếp Thư Truyền Thống Còn Gắn Liền Với Sự Sáng Tạo Không Mệt Mỏi. Chế Lan Viên Cho Rằng, Tố Hữu Đã Khéo Léo Kết Hợp Được “Cái Hơi Dân Tộc” Với “Màu Sắc Hiện Đại” Để Tạo Nên Sự Kết Tinh Mới Cho Thơ Ông. Và Có Thể Nói Tính Dân Tộc Đã Tạo Lên Một Tố Hữu Thành Công.
Sơ Đồ Tư Duy Tính Dân Tộc Trong Bài Việt Bắc
Tính Dân Tộc Trong Việt Bắc Siêu Hay - Mẫu 1
Tố Hữu Là Nhà Thơ Lớn Của Dân Tộc, Đỉnh Cao Của Thơ Ca Cách Mạng Việt Nam. Một Trong Những Yếu Tố Làm Nên Sức Sống Lâu Bền Trong Thơ Tố Hữu Chính Là Tính Dân Tộc. GS Nguyễn Đăng Mạnh Nhận Định: “Sức Hấp Dẫn Mạnh Nhất Của Thơ Tố Hữu Đối Với Công Chúng Đông Đảo Là Tính Dân Tộc, Tính Truyền Thống Đậm Đà Và Nhuẫn Nhuyễn.” Ông Đã Kế Tục Truyền Thống Thơ Ca Dân Tộc, Đặc Biệt Là Thơ Ca Dân Gian Và Thơ Cổ Điển, Thơ Tố Hữu Đậm Đà Tính Dân Tộc Cả Trong Nội Dung Và Nghệ Thuật Thể Hiện. Với Việc Tìm Hiểu Tính Dân Tộc Trong Thơ Tố Hữu Chúng Ta Sẽ Thấy Được Nỗi Lòng Của Con Người Việt Nam, Thấy Được Bản Sắc, Hơi Thở, Tinh Thần Của Dân Tộc Việt Nam.
Bài thơ Việt Bắc không chỉ là một bản tình ca mà còn là một bản hùng ca có nguồn gốc sâu xa từ tình yêu quê hương, truyền thống của dân tộc.
Tính dân tộc được thể hiện ở mọi khía cạnh từ nội dung đến hình thức của văn học sáng tác. Trong thơ Tố Hữu, tính dân tộc đầu tiên được xem xét toàn diện từ việc miêu tả cuộc sống và cuộc đấu tranh đặc biệt của dân tộc, từ việc vẽ nét con người Việt Nam với truyền thống đạo đức, tâm lý và phác họa phong cảnh quê hương. Bằng ngôn ngữ nghệ thuật, thể thơ và âm nhạc mang đậm tinh thần dân tộc. Tố Hữu thực sự là một nhà thơ dân tộc trong đúng nghĩa và tự hào của khái niệm này. Về nội dung, điều đầu tiên dễ nhận thấy là tính dân tộc thể hiện qua việc phản ánh bản sắc dân tộc của thiên nhiên, đời sống và tinh thần xã hội. Nội dung cơ bản của tính dân tộc là tinh thần dân tộc, tính cách và cái nhìn của dân tộc về cuộc sống. Về hình thức, tính dân tộc thể hiện qua việc: mỗi nền văn học dân tộc có hệ thống thể loại truyền thống, có các phương tiện miêu tả và biểu hiện riêng, đặc biệt là có ngôn ngữ dân tộc thể hiện bản sắc riêng trong tư duy và tâm hồn của dân tộc mình.
Trong số các nhà thơ hiện đại của Việt Nam, Tố Hữu là một trong những người có nhiều tác phẩm sâu sắc và cảm động về Bác Hồ: Hồ Chí Minh, Sáng Tháng Năm, Cánh Chim Không Mỏi, Theo Chân Bác, Ta Đi Tới, Việt Bắc… Những tác phẩm này không chỉ là cảm xúc cá nhân của nhà thơ mà còn là lòng biết ơn của những người con Việt Nam dành cho vị lãnh tụ yêu quý của dân tộc, và qua những bài thơ đó, Tố Hữu đã tập trung thể hiện suy nghĩ, cảm xúc của mình về Hồ Chí Minh với tất cả những lý tưởng, lẽ sống, niềm vui và những mối quan hệ cách mạng. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam hình ảnh vị lãnh tụ, vị cha già yêu dấu của dân tộc xuất hiện như một chủ đề sáng tạo chính trong thơ văn Việt Nam một cách rõ ràng và sâu sắc như vậy.
Hình ảnh Bác Hồ trong bài thơ Việt Bắc là một kết tinh của tinh hoa dân tộc. Bác hiện lên vô cùng bình dị, gần gũi và thiết tha. Tố Hữu gọi Bác là Bác, là Người và đặc biệt gọi là Ông Cụ. Cách gọi này chứa đựng bao ân tình mà gần gũi tới lòng người. Bác không chỉ là niềm tin, là ánh sáng dẫn dắt bước chân mà còn là nguồn sưởi ấm tâm hồn mỗi khi đối mặt với những hoàn cảnh khó khăn nhất:
Ở Nơi Nào Bóng Tối Lan Tràn
Nhìn Lên Việt Bắc: Bác Hồ Sáng Tỏi
Đây là hình ảnh trở thành trung tâm tập trung của mọi suy nghĩ và tình cảm. Nó thể hiện lòng thành kính của nhà thơ đối với Bác, đồng thời ở một mức độ nhất định cũng phản ánh quan điểm của nhà thơ về vai trò của Người đối với cách mạng của Đảng ta, nhân dân ta.
Áo chàm dẫn đường chia ly
Đôi tay nắm chặt, biết nói gì hôm nay
Áo chàm là biểu tượng lời nhắc nhở về những người dân Việt Bắc yêu quý nhau và đồng thời là những anh hùng. Việt Bắc đã ca ngợi một tình cảm rất đẹp của người Việt Nam. Mười lăm năm trước họ là những người hoàn toàn xa lạ với nhau. Cuộc chiến tranh đã đưa họ gặp nhau tại chiến khu Việt Bắc này. Mười lăm năm là một khoảng thời gian không ngắn, đầy kỷ niệm, đầy cảm xúc cay đắng và ngọt ngào đã trải qua, từ giờ đến phút chia ly, ai cũng rưng rức, ai cũng xúc động. Tố Hữu một lần nữa làm cho chúng ta nhìn thấy bản chất dân tộc của người Việt Nam, lòng trung thành, tình yêu. Dân tộc ta đặc biệt giàu tình cảm. Tình cảm giúp con người vượt qua mọi khó khăn, vẫn giữ nguyên sự ấm áp, “lòng nồng nhiệt, lòng hận thù vẫn bao gồm tình bạn”. Tố Hữu tôn vinh tình cảm thuỷ chung, điều này xuất phát từ truyền thống dân tộc, và được thúc đẩy, phát triển trong cuộc đấu tranh cách mạng. Người dân Việt Nam gắn bó với Đảng, với đất nước, mang nặng tình nghĩa, đã đem lại cuộc sống mới cho mỗi người. Vì “khó khăn, ngọt bùi đều ghi nhớ” mà “trái tim ta biết ơn Đảng từng giây phút”
Người Việt Nam yêu quý đất nước của mình, tự hào về dân tộc của mình. Tình yêu thuỷ chung là đặc điểm của dân tộc ta từ lâu. Trong cuộc đấu tranh gian khổ, tình yêu đó càng bừng sáng. Hầu hết mọi người đã lớn lên cùng với cách mạng, luôn gắn bó với quê hương, đất nước. Tác giả đã cố gắng thể hiện những hình ảnh, âm thanh của cuộc sống hàng ngày, nhưng cũng mang theo nhiều cảm xúc tại những vùng đất rừng núi xa xôi:
Nhớ tiếng mõ vang vọng rừng chiều
Chày đánh cối, nước reo dội suối xa.
Bài thơ viết khi trung ương Đảng và Chính phủ rời Việt Bắc về Hà Nội, nhìn lại thành công của cuộc kháng chiến từ góc độ chiến thắng, nhớ lại căn cứ Việt Bắc, nơi sinh ra Cách mạng. Bài thơ là cuộc trò chuyện của tôi với bản thân, tôi với tôi nhưng cảm xúc, tiếng thơ thường xen vào từng dòng thơ. Bài thơ bắt đầu với một câu hỏi:
Ta về, có nhớ mình không?
Mười lăm năm ấy đầy nồng nàn và trìu mến.
Ta về, có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?
Mười lăm năm ấy, bao sự kiện lịch sử quan trọng đã xảy ra, bắt đầu từ nguồn cội cách mạng. Việt Bắc hiện lên với những con người tuyệt vời. Tác giả sử dụng hai hình ảnh đối lập để diễn đạt lòng trung thành của họ:
Ta đi, có nhớ nhà cửa
Nhà đậm đà màu xám, lòng son chắc nịch
“Nhà đậm đà màu xám” - những ngôi nhà khiêm tốn, đậm chất dân dã nhưng lòng son của họ vững vàng không lụi tàn. Đó là hình ảnh của “mẹ hiền đang còng lưng dưới nắng” vẫn âm thầm đóng góp cho cuộc chiến. Đó là hình ảnh của những con người Việt Bắc, hòa mình vào thiên nhiên:
Rừng xanh, hoa chuối đỏ rực
Ðèo cao, nắng gay gắt bó buộc thắt lưng.
Mùa xuân trắng nở, rừng mơ
Nhớ người dệt nón, chỉ từng sợi khâu
Ve kêu, rừng sắc vàng phách đổ
Nhớ em gái hái măng một mình
Rừng thu, ánh trăng soi hòa bình
Nhớ ai hát ca tình thủy chung.
Các dòng thơ thể hiện “vẻ đẹp tinh tế, cẩn thận và tài năng” trong “công việc nhỏ nhẹ” của người Việt Bắc, dưới ánh sáng rừng xuân, hình ảnh cô gái Việt Bắc hiện ra nhẹ nhàng, thanh thoát. Cô gái nơi rừng sâu không phản ánh nỗi buồn hiu mà mang vẻ đẹp mạnh mẽ vì cô hiện lên trong lao động vất vả, giản dị nhưng cũng đầy mơ mộng.
Những chiến sĩ cách mạng đến với rừng núi Việt Bắc trong khoảnh khắc chia ly cũng đầy cảm xúc:
- Tiếng nào thầm thì bên bờ
Bất an trong lòng, bước đi lo lắng
Áo chàm đưa buổi chia ly
Ðan tay nhau, không biết nói gì hôm nay
Mười lăm năm gắn bó chắc chắn sẽ có nhiều điều muốn chia sẻ nhưng lúc chia tay này họ không biết nên nói điều gì. “Ðan tay” đó thể hiện tình cảm chặt chẽ, như muốn truyền đạt điều gì đó sâu sắc. Không cần lời, nhưng đã nói lên biết bao điều. Tâm hồn của họ luôn trung thành, kiên định:
- Ta với mình, mình với ta
Tâm hồn hòa mình, mình hòa tâm
Mình ra đi, lòng mình nhớ mãi
Bao nhiêu tình nghĩa, bấy nhiêu nguồn cảm xúc
Rời xa Việt Bắc, họ ôm trong lòng biết bao nỗi nhớ: “khói mờ từng làn”, “rừng núi bên bờ sông”, “những ngày lao động”, “những giờ học cùng bạn”… Dù cuộc chiến vất vả, khó khăn “chia cơm nửa chăn, xây đắp cùng” nhưng tinh thần của những chiến sĩ cách mạng vẫn:
Nhớ mãi thời gian cơ quan
Đời khó khăn vẫn ca vang núi sông.
Lạc quan, yêu đời là bản tính của con người Việt Nam. Đó là nguồn sức mạnh lớn lao giúp con người Việt Nam vượt qua mọi khó khăn thử thách của cuộc sống. Tình ân là vậy, lòng trung kiên là vậy, hiền lành là vậy nhưng khi bước vào trận chiến, đối diện với kẻ thù mạnh mẽ:
Đường Việt Bắc ta đi qua
Ðêm đêm tiếng vang như lòng đất rung
Quân dân đoàn kết, chặt chẽ như gần nhau
Sao sáng trên đầu, bạn và mũ nan.
Những nhịp điệu đêm đêm, những tiếng vang rầm rập cùng với so sánh đã mô tả tài tình, tư duy sáng tạo cuộc kháng chiến cao cả. Tinh thần chiến đấu của quân và dân ta đã làm rung chuyển bầu trời, không có lực lượng nào có thể ngăn cản được. Cả một dân tộc hùng mạnh đang nô địch. Và còn có sự đóng góp không nhỏ của hàng chục vạn anh chị công nhân:
Công nhân đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân vương vấn đá, muôn ngọn lửa bay.
Họ là những người đã mang, đã gác, đã vác hàng trăm dặm từ khắp nơi ở miền xuôi, miền ngược, miền Bắc, miền Trung đi qua hàng trăm ngày, qua hàng trăm đêm không ngủ dưới mưa bão của thiên nhiên và bom đạn để gửi lương thực đến tận tay các chiến sĩ. Chiến dịch Điện Biên Phủ là một thành tựu về giao thông vận tải mà kẻ thù không thể tưởng tượng. Họ hiểu được sức mạnh của nó, và khó khăn như thế nào để có thể đáp ứng được giá trị của một bát cơm, một viên đạn mà dân ta đã cung cấp cho chiến trường Tây Bắc.
Bài thơ Việt Bắc đã miêu tả hình ảnh của con người Việt Nam, những con người mang những đặc điểm tiêu biểu cho dân tộc: trung kiên, ân tình, luôn lạc quan yêu đời vượt qua mọi gian nan và cũng rất dũng mãnh, anh hùng trong cuộc chiến.
Thiên nhiên không chỉ có vẻ đẹp tự nhiên, không chỉ mở ra cho từng tâm hồn riêng biệt mà còn liên kết với quê hương đất nước, với cuộc sống lao động và chiến đấu, với sinh hoạt và niềm vui buồn của mỗi người Việt Nam. Bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc được coi là một trong những bức họa đẹp nhất về núi rừng và con người Việt Bắc:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng sáng gắt gao
Ngày xuân nhớ người đan nón
Vẻ đẹp chuỗi sợi tình thương
Thiên nhiên và con người hòa mình vào nhau. Thiên nhiên là nền tảng của vẻ đẹp con người. Thiên nhiên có con người, làm cho mối quan hệ trở nên thêm ấm áp. Một bông hoa chuối đỏ rực như ngọn lửa, lóe sáng giữa rừng xanh tươi mát, xua đi cái lạnh buốt giá của mùa đông. Con người đi qua 'Đèo cao nắng sáng gắt gao'. Những đóa hoa mơ tạo nên tấm thảm trắng tinh khôi trên dải đất rừng. Con người mạnh mẽ với công việc đan nón của mình. Mùa hạ đến, rừng phách như đổ cả hũ mực xuống bức tranh vàng rực rỡ tràn đầy sức sống, chiếu sáng cả thiên nhiên và con người. Đẹp nhất là hình ảnh ánh trăng, bởi đó là ánh trăng của hòa bình, yên vui và hạnh phúc. Ánh trăng hòa mình vào tiếng hát của con người.
Việt Bắc không chỉ là biểu tượng của Tây Bắc mà còn là hình ảnh của nhiều địa danh khác nhau. Tố Hữu nhắc đến nhiều tên đã đi vào lịch sử, làm nên bản sắc, tinh thần của quê hương đất nước:
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? …
Ngòi Thia sông Ðáy, suối Lê vơi đầy…
Nhớ Phủ Thông, đèo Giàng bao nhiêu
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng chẳng ngừng
Nhớ từ Cao Lạng đến Nhị Hà bao nhiêu
Niềm vui chiến thắng đến từ muôn phương:
Tin vui chiến thắng khắp nơi
Hòa Bình, Tây Bắc, Ðiện Biên mừng vui
Vui từ Ðồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.
Mọi miền đất đều mong muốn đóng góp vào cuộc chiến, xây dựng quê hương giàu đẹp, mạnh mẽ hơn. Nhưng thiên nhiên Việt Bắc không chỉ đẹp, nó cũng có sự khắc nghiệt: Mỗi khi đi xa, nhớ những ngày mưa, suối lũ, những đám mây và sương mù
Nếu xét về mặt nghệ thuật, tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu được thể hiện qua ngôn ngữ, âm nhạc, hình ảnh, và cách sắp xếp thể thơ đậm đà bản sắc dân tộc. Lối viết cấu tứ, kết cấu giàu sắc thái ca dao, thể thơ dân tộc được sử dụng một cách tự nhiên và sáng tạo.
Ngôn ngữ là yếu tố hàng đầu trong văn học. Tính dân tộc trong ngôn ngữ được thể hiện một cách đặc biệt trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Ông đã vận dụng một cách linh hoạt và sáng tạo cặp đại từ nhân xưng 'mình, ta' từ ca dao xưa. Trong bài thơ, các cặp đại từ 'mình, ta' được sử dụng một cách sinh động và linh hoạt, mang nhiều ý nghĩa. Cách xưng hô 'mình, ta' trong lời đối đáp tương đương với cách xưng hô của những người yêu nhau trong ca dao:
Mình về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Ở đây, người Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến đã coi nhau như người yêu, người tri kỷ đã cùng nhau trải qua mười lăm năm một cách sâu sắc và chân thành. Do đó, nhà thơ đã sử dụng cách xưng hô 'mình' và 'ta' với một cách rất ngọt ngào và thắm thiết. Trong bài thơ, sự chuyển đổi giữa hai nhân vật Mình và Ta thể hiện sự sáng tạo của nhà thơ dựa trên ngôn ngữ truyền thống khi sử dụng hai đại từ này:
Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn?
Nhưng giữa những câu hỏi dồn dập tiếp theo, có một câu hỏi đầy băn khoăn, đầy day dứt và nặng nề ý nghĩa:
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Tố Hữu đã làm cho từ “mình” của ca dao thêm phần sâu sắc, “mình” và “ta” dù là một nhưng lại mang nhiều ý nghĩa. Điều này thể hiện sự gắn bó mạnh mẽ giữa quê hương Việt Bắc và người cán bộ kháng chiến, giữa nhà thơ và chiến khu cách mạng. Có lẽ đây cũng chính là sự phân thân của chủ thể trữ tình, nhà thơ đắm chìm trong dòng hoài niệm sâu sắc:
- Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi , mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.
Bằng cách sử dụng cách xưng hô “mình – ta” của ca dao xưa, Tố Hữu đã mang lại cho bài thơ Việt Bắc một vẻ đẹp đặc biệt, khiến cho bài thơ trở nên phong phú với sắc thái trữ tình đời thường, những lời dặn dò, nhắn nhủ, hứa hẹn, thề nguyền đầy riêng tư, và cũng đậm đà bản sắc dân tộc. Đồng thời, bài thơ cũng diễn đạt được một tình yêu rộng lớn, sâu sắc, mang tính khái quát, và mang yếu tố trữ tình sử thi. Đó là tiếng nói của tình yêu dành cho đất nước.
Trong bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã sử dụng một cách tinh tế và sâu sắc cách diễn đạt phong phú, tế nhị mà giàu ý nghĩa của truyền thống dân ca cổ xưa. Ngoài việc áp dụng các đại từ nhân xưng trong dân ca, ông cũng quay trở lại gốc rễ dân gian của dân tộc bằng cách lấy ý từ các câu ca dao, tục ngữ hoặc sáng tạo các câu thơ theo hướng đi của dân ca. Câu thơ: “Mình về mình có nhớ không / Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?” lấy cảm hứng từ câu tục ngữ quen thuộc: “Uống nước nhớ nguồn”. Thơ ca dân gian thường viết về nỗi nhớ thương, và Việt Bắc của Tố Hữu cũng không ngoại lệ:
Nhớ như nhớ người yêu
Nhớ từng bản khói, từng hơi sương…
Nhớ từng rặng nứa ven sông…
Nhớ người mẹ nắng cháy bờ vai…
Nhớ những cảnh quân vượt rừng, vượt suối, nhớ một buổi họp Trung ương, buổi học lặng lẽ, một vầng trăng thu… Tất cả đều là những kỷ niệm đáng nhớ trong cuộc chiến, vì thế chúng có một cái gì đó gần gũi với nỗi nhớ thương nhớ da diết.
Nhớ là một trạng thái tình cảm phổ biến mà ai cũng có thể trải qua. Trong bài thơ Việt Bắc, nỗi nhớ được thể hiện đa dạng, phong phú và toàn diện. Nó vừa cụ thể vừa tổng quát, vừa gần gũi vừa uy nghiêm, vừa tha thiết vừa không đau lòng. Những câu thơ kể về các địa danh của đất nước cũng đẩy ta nhớ đến những câu ca dao.
Ngoài ra, ta có thể nhận thấy ngôn từ trong thơ Tố Hữu rất giản dị và gần gũi với tiếng nói hàng ngày của người dân. Không có sự phức tạp, không có những lối diễn đạt cao siêu, mọi thứ đều tự nhiên như là cuộc sống tràn ngập trong tác phẩm thơ mà “thơ” hiện lên là một điều kì diệu:
Thương nhau, chia sẻ củ sắn xơi
Bát cơm chia đều, chăn sui kề bên
Nhớ người mẹ nắng cháy vai
Ðưa con lên đồng hái từng nhụy bắp ngô
Nhớ những buổi học im lìm
Đồng khuya bóng lửa soi liên hoan
Những củ sắn xơi, bắp ngô, bát cơm, chăn sui… những điều giản dị, thậm chí “xoàng xĩnh” của cuộc sống mà có vẻ như không bao giờ được đưa vào thơ nhưng vẫn là nguồn cảm hứng của Tố Hữu. Như vậy, ngôn từ trong bài thơ Việt Bắc và thơ Tố Hữu nói chung là ngôn từ của dân tộc, được lấy từ văn học dân gian Việt Nam và từ cuộc sống hàng ngày. Do đó, nó có thể làm xúc động trái tim con người vì đó là ngôn từ của dân tộc, tiếng Việt của người Việt Nam.
Việt Bắc được viết theo thể thơ lục bát, có cấu trúc giống như lời đối đáp của một cặp trai gái khi xa nhau. Lục bát là thể thơ dân tộc, phản ánh sâu sắc tinh thần Việt Nam. Đơn vị cơ bản của nó là một khổ thơ bao gồm hai câu, một câu lục và một câu bát, chiếm hai dòng thơ với số tiếng chữ cố định là mười bốn chữ, có thể bao gồm từ hai đến hàng nghìn câu thơ. Tố Hữu đã sử dụng thế thơ lục bát một cách tài tình và sáng tạo, mang đến âm điệu dịu dàng duyên dáng của ca dao dân ca. Cách hát và ngâm thơ như lời ru đã đưa thơ Tố Hữu đi khắp mọi miền đất nước. Tố Hữu là một nhà thơ cách mạng phát triển thơ trữ tình nói về thơ chính trị, đưa tiếng nói thơ cách mạng vào trong thơ, chuyển từ tiếng nói tâm tình cá nhân sang tiếng nói tâm tình chính trị. Trong bài thơ, tác giả sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất: mình, ta để thể hiện tư tưởng, thái độ và tình cảm. Thể thơ lục bát với những ưu điểm của nó giúp tác giả truyền đạt được tình cảm sâu sắc của cả người đi và người ở trong cuộc tiễn biệt. Những câu thơ như những khúc ru vọng lên từ tuổi thơ đã làm cho người đọc mãi không quên:
- Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy mặn nồng thiết tha.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn? …
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc còn thể hiện qua âm nhạc và cách gieo vần. Giáo sư Đặng Thai Mai nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ đã sử dụng âm nhạc và âm hưởng của tiếng Việt một cách rất tài tình.” Âm điệu thơ của Tố Hữu có đặc điểm riêng biệt, là sự ngọt ngào, tha thiết. Nó mượt mà, uyển chuyển, đậm chất như lời ru của mẹ qua lời trả lời ân tình. Chất nhạc không chỉ ở tài nghệ phối âm mà còn ở cách gieo vần. Một nhà thơ có từ vựng và âm điệu sâu sắc, tuân thủ luật thơ. Có thể nói rằng âm nhạc là yếu tố kết hợp với ngôn từ và hình ảnh trong thơ. Nhà thơ Chế Lan Viên đã nói: “Tố Hữu có hơi thở dân tộc trong âm nhạc”. Điều đó là do Tố Hữu là nhà thơ có khả năng phối hợp các âm thanh, từ ngữ, tiết tấu và cách gieo vần của ngôn ngữ tiếng Việt để tạo nên một ngôn ngữ thơ phong phú, chứa đựng cảm xúc dân tộc, thể hiện tinh thần dân tộc qua từng giai đoạn cách mạng. Nhưng âm nhạc trong thơ Tố Hữu là âm nhạc sống mãi trong lòng người, làm rung động cả trái tim và tâm trí của người nghe. “Âm nhạc dân tộc của Tố Hữu đã đặt trái tim dân tộc sau những giai điệu” – Xuân Diệu. Vì vậy, âm nhạc trong thơ Tố Hữu vẫn còn vang vọng trong tâm hồn của tác giả mãi mãi. Bởi “Thơ là sự kết hợp giữa nhạc và ý, nếu rơi vào chiều hướng của ý, thơ sẽ sâu sắc nhưng có thể trở nên khô khan. Nếu rơi vào chiều hướng của nhạc, thơ có thể làm say mê trái tim người nghe nhưng có thể cũng trở nên hời hợt” Việt Bắc là khúc ca của nỗi nhớ:
- Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa từ nguồn suối tràn, những đám mây kèm theo mù sương
Mình về, có nhớ chiến khu
....
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?
Chính nhạc điệu đã làm cho các kỷ niệm trở nên vang vọng, trầm bổng, thấm sâu vào lòng. Những yếu tố tạo nên sức hút kỳ diệu ấy không chỉ ở những câu thơ lục bát về mặt âm điệu mà còn ở kỹ thuật tiểu đối được áp dụng với tần số cao trong từng câu thơ. Điều này không chỉ biểu đạt được tình cảm sâu lắng của người đi và người ở, mà còn tạo ra sự cân xứng về cấu trúc, vẻ đẹp nhịp nhàng của từ ngữ. “Mưa từ nguồn suối tràn / những đám mây kèm mù sương; Miếng cơm / mối thù; Trám / măng; Hắt / son; Nhớ / mình; Tân / đa”. Những hình ảnh thơ thực sự trở nên đặc sắc nhờ nhạc điệu đầy quyến luyến, trầm bổng, vang vọng qua những câu thơ song hành, thể hiện sự đẹp mềm mại, cổ điển uyên bác. Đặc biệt, câu hỏi cuối cùng có thể đứng một mình với sự thâm sâu, ý nghĩa:
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào Hồng Thái mái đình cây đa
Đại từ “mình”, “ta” thường được sử dụng trong thơ ca dân gian nhưng Tố Hữu đã sử dụng chúng một cách sáng tạo: Khi mình là Ta, khi “ta” là “mình”, cái ý hai người là một đã được hiểu rõ. Tuy nhiên, ở đây một câu lục với ba lần lặp lại từ mình: “Mình đi, mình có” là chỉ người đi, “nhớ mình” là chỉ người ở. Câu hỏi đầy ý nghĩa mà sâu sắc: Mình quên “ta” cũng là quên chính “mình” đó. Cũng giống như ở phần sau, Tố Hữu nhấn mạnh theo cách bồi thấu trong câu trả lời để khẳng định sắt đá.
Mình đi mình lại nhớ mình
Người nào có nghĩa tình bấy nhiêu nguồn nước
Nhà thơ đã khai thác rất sâu từ chữ “mình” trong tiếng Việt. “Mình” không chỉ là bản thân mà còn là ta, là người thân thiết có thể coi như chính mình. Đại từ nhân xưng được sử dụng không chỉ để thống nhất mà còn để biến hóa, khiến cho Việt Bắc trở nên như tiếng lòng vang vọng hòa âm tâm hồn của người đi và người ở. Biệt tài của Tố Hữu là ru người bằng nhạc, thức tỉnh con người qua ý thơ và biến ý tưởng cách mạng thành thức ăn cho tâm hồn.
Khi đến với thơ của Tố Hữu, ta bắt gặp những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của dân tộc, gần gũi với cuộc sống lao động và chiến đấu của nhân dân. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nhận xét: “Tố Hữu có một bút pháp quần chúng trong hình ảnh”. Bút pháp quần chúng ấy đã đóng góp vào việc tạo nên sắc thái dân tộc sâu sắc trong thơ của Tố Hữu. Đó là hình ảnh trám bùi, măng mai, cảnh trăng lên đỉnh núi, bếp lửa nhà sàn… đều rất ấm áp và luôn hiện diện sâu trong tâm trí của con người Việt Nam:
Mình về rừng núi nhớ ai
.......
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Trước đó, trong thơ Việt Nam, những hình ảnh quen thuộc với cuộc sống hàng ngày, dường như không đáng chú ý, lại được sử dụng nhiều trong thơ Tố Hữu. Tất cả đã tự nhiên lan tỏa vào thơ của ông để tạo nên một không khí dân tộc đậm đà. Điều đáng chú ý là dưới nét bút mài miệng của nhà thơ, những hình ảnh ấy đã trở thành những tượng hình thơm ngon, phong phú, giàu cảm xúc, đem đến cho người đọc những trải nghiệm sâu sắc. Thơ của Tố Hữu là thơ dành cho đại chúng, và điều làm nên “bút pháp quần chúng” trong thơ ông không chỉ là những hình ảnh quen thuộc, dễ hiểu, giản dị mà còn là sự giàu cảm xúc, dễ thấu và ghi sâu trong lòng của nhiều thế hệ độc giả.
Tago từng nói: “Trách nhiệm của nhà thơ là thể hiện rõ bản sắc của dân tộc mình trước thế giới.”. Tố Hữu đã làm được điều đó hơn nữa, ông đã thực hiện một cách xuất sắc. Trên những trang thơ của ông, đặc biệt là bài thơ Việt Bắc, là hình ảnh của thiên nhiên, của con người Việt Nam. Những con người nghĩa tình, trung thành và kiên định dù trải qua bao nhiêu gian khó vẫn luôn lạc quan, hướng về tương lai. Họ là hình ảnh của đất nước Việt Nam tươi đẹp với những ngọn núi, dòng sông, và những tên địa danh, vùng miền mang đậm bản sắc dân tộc nhưng cũng khắc nghiệt, đầy rẫy thách thức.
Đọc bài thơ Việt Bắc, ta như được nghe những giai điệu ru từ thời thơ ấu, từ bà, từ mẹ với nhịp thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại. Ngôn ngữ của bài thơ chắc chắn đã được lấy từ cội nguồn văn học dân gian. Những hình ảnh thơ gần gũi, thân thương nhưng vô cùng sâu lắng. Tố Hữu thật sự đã mang hồn thiêng của núi sông, tâm hồn dân tộc lên những dòng thơ Việt Bắc. Đây xứng đáng là một tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam.
Tính dân tộc trong bài Việt Bắc được diễn đạt một cách ngắn gọn, là một tấm gương mẫu mực.
Tố Hữu được biết đến là nhà thơ của lí tưởng sống. Thơ của ông không chỉ là biểu tượng cao cả của thơ trữ tình chính trị mà còn là biểu tượng của sự chân thành và nhiệt huyết. 'Việt Bắc' là một trong những tác phẩm nổi bật, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tính dân tộc.
Bài thơ 'Việt Bắc' được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, khi cơ quan trung ương Đảng chính phủ chuyển từ Việt Bắc về thủ đô Hà Nội. Sự kiện chia tay lịch sử, xúc động giữa nhân dân Việt Bắc và các chiến sĩ về phía Nam đã làm cho tác giả Tố Hữu cảm động và viết nên tác phẩm ý nghĩa này.
'Việt Bắc' là một tác phẩm mang trong mình bản sắc dân tộc rất sâu sắc. Tính dân tộc là một đặc điểm quan trọng của văn chương. Một tác phẩm nghệ thuật thật sự phải mang đậm bản sắc không thể nhầm lẫn của dân tộc. Tính dân tộc trong bài thơ 'Việt Bắc' được thể hiện rõ trên cả hai mặt nội dung và nghệ thuật.
Trong bài Việt Bắc, tính dân tộc được thể hiện qua nội dung. Bài thơ nói về sự chia ly giữa người Việt Bắc và những người kháng chiến về phía Nam, là cuộc chia tay đầy xúc động giữa những người đã chịu đựng mười lăm năm cùng nhau.
Tố Hữu đã tạo ra bức tranh sinh động về tứ bình Việt Bắc, với hình ảnh mùa đông, mùa xuân, mùa hè và mùa thu, gợi lên vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày và trong kháng chiến.
Tính dân tộc trong bài thơ còn được thể hiện qua cuộc sống chiến đấu đầy gian khổ nhưng ấm áp của nhân dân. Họ chia sẻ tình thương, dũng cảm và sự hy sinh vì đất nước.
Tính dân tộc trong Việt Bắc được thể hiện qua phương diện nghệ thuật. Tố Hữu sử dụng kỹ thuật thơ và cấu trúc câu hát một cách sáng tạo, thể hiện sự đồng lòng và tình đoàn kết của nhân dân.
Dù thời gian trôi qua, nhưng những vần thơ trong bài Việt Bắc vẫn còn sống mãi trong lòng người đọc, gợi nhớ về một thời kỳ cách mạng và tình yêu quê hương.
Tính dân tộc trong Việt Bắc - Mẫu 3
Tố Hữu, một trong những nhà thơ cách mạng hàng đầu của Việt Nam, đã dành cả cuộc đời để góp phần vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Bài thơ Việt Bắc là một minh chứng rõ ràng cho sự cống hiến của ông.
Tính dân tộc rõ ràng hiện diện trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu. Tác phẩm này không chỉ phản ánh cuộc sống và tư tưởng của dân tộc mà còn thể hiện đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.
Việt Bắc là một tác phẩm mang tính chất lịch sử, đề cập đến thời kỳ quan trọng của dân tộc Việt Nam. Tố Hữu đã sử dụng bài thơ này để tôn vinh sự hy sinh và chiến thắng của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Bài thơ Việt Bắc cũng là một bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng Việt Bắc, thể hiện lòng yêu nước và tình cảm sâu sắc đối với tổ quốc.
'Trở về mình vẫn nhớ mình,
Về ta nhớ những hoa cùng người,
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi,
Đèo cao nắng ánh dao vương lưng,
Ngày xuân mơ màng trắng rừng,
Nhớ người thêu nón chuốt từng sợi sáng,
Ve kêu rừng tiếng réo vàng,
Nhớ cô em gái hái măng một mình,
Rừng thu trăng sáng Hòa Bình,
Nhớ ai tiếng hát ân tình vững vàng'.
Vẻ đẹp tự nhiên của Việt Bắc đúng là tuyệt vời, hòa quyện tạo nên một bức tranh thiên nhiên phong phú, thay đổi theo từng mùa, mỗi mùa lại mang một vẻ đẹp riêng không thể nhầm lẫn. Xuân về, cảnh sắc trắng tinh khiết của hoa mơ trải dài khắp nơi. Màu trắng của hoa mơ làm cho không gian xuân thêm phần trong lành, thuần khiết nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc, rộng lớn đặc trưng của thiên nhiên miền núi rừng. Khi mùa xuân qua, hè đến, Việt Bắc lại khoác lên mình một hình ảnh mới, một bức tranh mới. Tiếng ve quen thuộc vang lên, nhưng không chỉ có vậy, màu vàng của rừng phách cũng làm cho không gian bỗng chốc rực rỡ bởi sắc vàng huyền diệu của hoa phách, khiến cho ta hiểu rõ hơn về vẻ đẹp hoang sơ và khác biệt của vùng đất này. Và đó chính là vẻ đẹp của mùa thu Việt Bắc. Một mùa thu tuyệt đẹp, lãng mạn trong ánh trăng mơ màng, nhưng ở Việt Bắc, mùa thu còn mang một điều đặc biệt, đó chính là ánh trăng của hòa bình, yên bình, êm đềm, là ngọn đèn nhỏ chiếu sáng con đường của hi vọng, niềm tin. Nếu mùa xuân là sự nồng nàn, trong trẻo, mùa hạ là sự rực rỡ, kiêu sa, thì mùa thu lại mang hơi thở nhẹ nhàng, tinh tế như lấy đi mọi vội vã, ồn ào của cuộc sống hàng ngày. Chuyển sang mùa đông, cả Việt Bắc lại khoác lên mình bức tranh xanh ngút ngàn, điểm xuyết trên tán cây là màu đỏ rực rỡ của hoa chuối rừng, làm cho mùa đông ở đây không còn lạnh buốt nhưng lại ấm áp, tươi mới và tràn đầy sức sống. Đó chính là điểm đặc biệt của Việt Bắc, có lẽ chỉ ở đây mới có được sự tuyệt vời đó. Và chính vì thế mà con người luôn nhớ mãi, không quên. Bằng những từ ngữ đẹp nhất, Tố Hữu đã tập trung mô tả tối đa vẻ đẹp độc đáo, phong phú của thiên nhiên Việt Bắc. Ông đã tái hiện và làm sống lại vẻ đẹp tự nhiên của đất nước qua từng dòng thơ, từng từ ngữ, một lần nữa thể hiện sự kiêu hãnh dân tộc mạnh mẽ của Việt Bắc.
Tính dân tộc của tác phẩm này thể hiện rõ qua sự tự hào, ngợi ca của tác giả về cuộc chiến tranh của dân tộc. Tố Hữu đã khéo léo kể lại lịch sử hào hùng một cách hiện thực, lãng mạn, sự kết hợp này vừa phản ánh chính xác, vừa đầy cảm xúc, ngôn từ thơ đã khơi dậy ngọn lửa tự hào trong lòng người đọc về đất nước Việt Nam.
'Con đường Việt Bắc quen thuộc,
Đêm đêm vang vọng như lòng đất rung,
Quân đội điều đội trên đường,
Ánh sáng đầu súng bạn và mũ bảo hiểm,
Dân quân đỏ lửa từng đoàn,
Bước chân vang tiếng vỡ đá mỗi lúc lửa cháy,
Ngàn đêm bao la, sương mù phủ kín'.
Trong không gian núi rừng hùng vĩ, chứa đựng nguy hiểm và sự đe dọa. Quân đội chúng ta đêm ngày chuẩn bị cho cuộc chiến, những cuộc di chuyển trong đêm khó khăn, tinh thần của quân và dân ta, được tái hiện một cách hoành tráng, hùng vĩ, với lực lượng đông đảo, tinh thần dũng cảm và kiên định. Những bước chân của quân đội trở nên mạnh mẽ, có sức mạnh phi thường, có khả năng chinh phục mọi thử thách, làm rung chuyển cả trời đất. Đây không chỉ là một cuộc di chuyển ở Việt Bắc, mà còn là sự hiện diện mạnh mẽ, linh thiêng, mang tính quốc gia của toàn dân tộc Việt Nam. Một dân tộc đã đứng lên như một cơn gió lớn, không thể bị ngăn cản, không ai có thể đánh bại, như qua cuộc di chuyển huyền thoại này ở Việt Bắc, Tố Hữu đã âm thầm ca ngợi, tôn vinh cuộc kháng chiến kỳ diệu của dân tộc Việt Nam. Từ đó khơi dậy tình yêu nước, tình yêu quê hương, hay tự hào về đất nước trong lòng mỗi người. Bằng cách này, một lần nữa, tính dân tộc đã được khẳng định một cách rõ ràng trong Việt Bắc.
Bên cạnh vẻ đẹp của thiên nhiên núi rừng, Tố Hữu không quên tôn vinh vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Đó là những người lao động chăm chỉ, kiên trì, hy sinh cho công cuộc kháng chiến anh dũng của tổ quốc. Hình ảnh người mẹ với đôi vai cháy nắng, địu con lên rẫy làm nương để bắp ngoài cánh đồng được mô tả một cách chân thực, cảm động qua ngòi bút của Tố Hữu.
'Nhớ người mẹ nắng cháy lưng,
Địu con lên rẫy bé từng bắp ngô'.
Con người ở đây chân thành, giản dị và tận tụy trong công việc. Cuộc sống của họ giản dị nhưng không bao giờ thiếu đi sự say mê, chăm chỉ và kiên trì. 'Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang', 'Nhớ cô em gái hái măng một mình', cùng với sự thủy chung, nghĩa tình được làm nổi bật trong tác phẩm của Tố Hữu. Đây cũng là vẻ đẹp truyền thống của con người Việt Nam, khi mà nhân dân đồng lòng, chia sẻ khó khăn, gánh vác cùng cách mạng.
'Thương nhau chia củ sắn lùi,
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng'.
Những ngày tháng bên nhau, tình thương trọn vẹn, nghĩa tình vững bền, không phai nhòa theo thời gian.
'Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung'.
Ngoài ra, người dân Việt Bắc còn mang trong mình tinh thần lạc quan, yêu đời, 'gian nan đời vẫn ca vang núi đèo'. Với họ, dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, nhưng mỗi ngày gắn bó với cách mạng là một niềm vui. Họ vẫn hát ca, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng. Tất cả những phẩm chất, từ chăm chỉ, kiên trì, yêu lao động, đến tình thân thiết và lạc quan của con người Việt Bắc hoàn toàn phản ánh đức tính tốt đẹp của con người Việt Nam. Điều này làm cho tác phẩm trở nên gần gũi hơn với độc giả, và thể hiện rõ nét tính dân tộc sâu sắc.
Thể thơ lục bát của Việt Bắc gần giống với lục bát của ca dao, kết hợp với lối nói tiểu đối, tạo ra bài thơ da diết, thiết tha, sâu sắc. Tác giả sử dụng cách nói đối đáp, giao duyên phổ biến trong ca dao dân tộc Việt Nam, để thể hiện tư tưởng, tình cảm tâm sự. Bên cạnh đó, việc sử dụng các đại từ nhân xưng 'mình, ta' làm tăng thêm sự gần gũi, quen thuộc, và đầy cảm xúc cho nhịp thơ. Tất cả những điều này làm cho thơ Việt Bắc trở nên độc đáo, sâu sắc, và phản ánh rõ nét tính dân tộc.
Nhận định ban đầu về tính dân tộc của Việt Bắc là hoàn toàn đúng, và nó cũng tạo ra một phong cách sáng tạo riêng biệt cho Tố Hữu. Việt Bắc đã thành công trong việc tái hiện và tôn vinh cái hồn của dân tộc, làm cho tác phẩm trở nên gần gũi hơn với độc giả. Tính dân tộc là yếu tố quan trọng giúp tạo nên sức sống lâu bền cho tác phẩm, và nếu mọi tác phẩm đều dung hòa được tính dân tộc sâu sắc, thì sẽ càng có nhiều bài thơ hay, đẹp, làm đẹp cho đời sống hiện tại và tương lai.
Tính dân tộc không phải là yếu tố độc nhất của một tác phẩm, nhưng nó có thể tạo ra sức sống lâu bền cho tác phẩm. Nếu mọi tác phẩm đều dung hòa được tính dân tộc sâu sắc, cùng với sự sáng tạo của tác giả, thì sẽ có nhiều bài thơ hay, làm đẹp cho cuộc sống hiện tại và tương lai.
Tính dân tộc trong Việt Bắc - Mẫu 4
Tố Hữu được biết đến là một nhà thơ vĩ đại của thơ ca hiện đại Việt Nam. Thơ của ông thường đi sâu vào các giai đoạn cách mạng của quê hương, thể hiện sự kết hợp giữa trữ tình và chính trị. Sức hút của thơ ông nằm ở niềm đam mê với lý tưởng cách mạng và tính dân tộc sâu sắc.
Bài thơ việt Bắc được coi là tinh hoa của sáng tác của Tố Hữu, đồng thời là một tác phẩm vĩ đại của thơ chiến đấu chống Pháp. Xuất hiện vào tháng 10 năm 1954, bài thơ này kỷ niệm sự kiện lịch sử: Trung ương Đảng, chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về Thủ đô Hà Nội. Điểm nhấn của bài thơ là tình thân thiết, trung thành giữa nhân dân, quê hương và cách mạng, Đảng và Bác Hồ. Tính dân tộc được thể hiện rõ qua nội dung và hình thức của tác phẩm.
Tính dân tộc là đặc điểm tư tưởng - mỹ thuật độc đáo của sáng tác, thể hiện mối liên kết giữa tác phẩm văn hóa và dân tộc. Tính dân tộc trong văn học phản ánh ở cả nội dung và hình thức nghệ thuật. Hai yếu tố này kết hợp tạo ra một bản tình ca mạnh mẽ, thơ mộng và trữ tình. Tác giả tập trung vào các vấn đề tư tưởng, tình cảm và phẩm chất của dân tộc. Tình cảm cá nhân được kết hợp với tình cảm dân tộc. Tác phẩm cũng thể hiện sự bảo vệ quyền lợi của dân tộc. Hình thức sử dụng là thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển. Sử dụng ngôn ngữ dân tộc và kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc.
Đoạn thơ này là một bức tranh đầy ánh sáng về kỷ niệm về thiên nhiên và con người Việt Bắc trong thời kỳ kháng chiến. Thiên nhiên với bốn mùa sáng lá rực rỡ, mỗi mùa mang một sắc màu khác nhau. Con người được miêu tả thông qua các hình ảnh lao động cần mẫn, chịu khó. Họ mang trong mình vẻ đẹp tinh thần, sự thuần khiết và trung thành. Tác giả thể hiện tình yêu đối với thiên nhiên, đời sống và con người Việt Bắc. Điều này thể hiện tình yêu quê hương và cách mạng.
Thể thơ lục bát không chỉ là hình thức thơ truyền thống của dân tộc mà còn là biểu tượng của sự sáng tạo về nhịp điệu, vần và kết nối giữa các dòng thơ. Tố Hữu đã thành công trong việc áp dụng nhịp điệu lục bát để thể hiện tình cảm sâu lắng của mình.
Đoạn thơ được cấu trúc theo kiểu đối đáp quen thuộc của ca dao dân ca, trong đó có sự tương tác giữa người đi (cán bộ kháng chiến) và người ở lại (đồng bào Việt Bắc). Tác giả sử dụng cặp đại từ nhân xưng ' ta - mình' vừa mang tính truyền thống vừa phản ánh sự hiện đại. Sự kết hợp này tạo nên không khí ca dao qua những câu hát đầy giao duyên, làm cho tình cảm cách mạng trở nên gần gũi và chân thành.
Ngôn ngữ sử dụng trong bài thơ là tiếng Việt thuần khiết, giản dị nhưng đầy sức mạnh tạo hình, sự giàu cảm xúc và sự tinh tế. Từ 'nhớ' lặp lại nhiều lần như một dấu hiệu của sự hoài niệm không ngừng. Các phép tu từ như hoán dụ, ẩn dụ, đảo ngữ,... được sử dụng linh hoạt và sáng tạo.
Bản nhạc của bài thơ mang đậm bản sắc trữ tình, thể hiện đầy đủ tính dân tộc. Vận dụng nhịp điệu và vần vừa linh hoạt vừa biến tấu là điểm mạnh của thể lục bát, và Tố Hữu đã khai thác điều đó một cách tinh tế. Lời thơ ngọt ngào như những giai điệu ca hát, dễ dàng lưu vào lòng người. Âm điệu quen thuộc tạo ra một tâm trạng chung cho cả người đi và người ở lại.
Việt Bắc thật sự là một tác phẩm xuất sắc, nơi Tố Hữu thể hiện sự tài năng của mình trong nhiều khía cạnh của nghệ thuật sáng tạo.
Sự thành công của đoạn thơ trên thể hiện rõ sự kết hợp hài hòa giữa tính dân tộc sâu sắc và phong cách hiện đại. Đó là sự hòa quyện của tâm hồn cách mạng và tình cảm dân tộc. Tác giả đã khẳng định mối quan hệ bền vững giữa nhân dân Việt Bắc và cách mạng, đồng thời thể hiện tình cảm thấm đẫm nghĩa tình của người kháng chiến với đất nước và con người Việt Bắc trong những năm tháng kháng chiến oai hùng.
Tính dân tộc trong thơ của Tố Hữu - Mẫu 5
Gớt từng nói rằng “Một nghệ sĩ có thể coi là người mang bản sắc của dân tộc nếu tác phẩm của họ thấm nhân tính dân tộc”. Khi tính dân tộc hiện hữu trong từng chi tiết của tác phẩm, bạn sẽ cảm nhận được mùi xanh của lá cây, hương thơm của đất trời, âm thanh của chim hót trên cành, hương thơm của hoa... Khi đọc “Việt Bắc” của Tố Hữu, bạn sẽ tìm thấy lịch sử dân tộc, tình yêu dành cho quê hương, vẻ đẹp của núi rừng Việt Nam, cùng với tinh thần ca dao dân ca, nhưng lại được biểu đạt qua một giọng điệu rất riêng biệt. Tác phẩm này, từ nội dung đến hình thức, đều phản ánh rõ nét tính dân tộc sâu sắc.
Tính dân tộc là việc phản ánh những nét đặc trưng của bản sắc dân tộc thông qua cả nội dung và hình thức nghệ thuật trong một tác phẩm văn học. Tính dân tộc cũng là đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật của thơ Tố Hữu. Nhà thơ luôn thể hiện rõ tính bản sắc dân tộc trong từng tác phẩm, và “Việt Bắc” là một minh chứng điển hình cho điều đó.
Trong nội dung của mình, Tố Hữu đã thể hiện những đặc điểm đặc trưng của văn hóa Việt Nam.
“Nhớ từng khói, sương mờ mịt
Ngày đêm bên bếp lửa, nhớ người thương về”
Tác giả cũng thể hiện những giá trị nghĩa tình truyền thống. Đó là lòng yêu nước, tình quân dân cả - sâu sắc và truyền thống 'uống nước nhớ nguồn'.
Trong nghệ thuật, Tố Hữu đã tạo ra hình ảnh người ra đi và người ở lại như trong ca dao, dân ca. Trong ca dao, dân ca, người đi - người ở thường biểu hiện tình cảm cá nhân, tình yêu đôi lứa. Tuy nhiên, trong bài thơ này, sự giao duyên được thể hiện qua tình thương yêu nước, lòng yêu cách mạng.
“Về, ta về, nhớ từng khắc
Mười lăm năm ấy, tình mãi mặn nồng”
Hai câu thơ này ban đầu có thể gợi liên tưởng đến tình cảm đôi lứa, nhưng khi đọc tiếp ở những câu sau, đặc biệt là hai câu
“Áo chàm che giấu lệ rơi
Tay trong tay, im lặng hôm nay”
Nhận ra rằng đây là lúc chia xa giữa đồng bào và chiến sĩ. Về cơ bản, nội dung thể hiện tình cảm chung, nhưng hình thức lại là tình yêu đôi. Tình yêu dành cho đất nước, tình yêu cách mạng được truyền đạt tới người đọc qua lăng kính của tình yêu đôi, điều này tạo ra một sức mạnh cảm động và cũng là một sáng tạo của tác giả.
Trong nghệ thuật đặc sắc, Tố Hữu sử dụng đại từ 'mình - ta' một cách sáng tạo. Cặp từ này không chỉ mộc mạc, bình dị mà còn gần gũi, thân thiết như trong ca dao dân ca:
“Ta và mình, mình và ta
Lòng mình đầy ắp niềm tin và sự mạnh mẽ”
Có những câu thơ, cặp từ này được sử dụng một cách sáng tạo để diễn tả tình cảm giữa nhân dân và cách mạng. Trong tiếng Việt, 'mình' thường được sử dụng cho ngôi thứ nhất, nhưng trong bài thơ này, 'mình' thường được sử dụng cho ngôi thứ hai để chỉ đối tượng:
“Ta về ta có nhớ mình”
... cũng có khi từ 'ta' vừa nói về bản thân vừa nói về đối tượng
“Ta đi ta lại nhớ ta”
Với biện pháp nghệ thuật này, Tố Hữu đã thể hiện sự gắn bó giữa 'ta' và 'mình', trong 'ta' có 'mình' và trong 'mình' có 'ta', cũng như sự gắn bó giữa nhân dân và cách mạng, trong cách mạng có nhân dân và trong nhân dân có cách mạng.
Tính dân tộc trong đặc sắc nghệ thuật còn thể hiện ở việc tác giả đã sử dụng sáng tạo và thành công thể thơ lục bát của dân tộc. Thành công bởi Tố Hữu đã viết ra những câu thơ lục bát đẹp như ca dao dân ca:
“Nhớ như nhớ người yêu
Trăng lên núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng khói cùng sương
Sớm khuya lửa bếp người thân về”
Những câu thơ lục bát của Tố Hữu mẫu mực và điêu luyện, đạt đến trình độ bác học. Để thể hiện vẻ đẹp chuẩn mực này, Tố Hữu đã sử dụng những câu thơ một cách nhịp nhàng cân xứng bằng nghệ thuật tiểu đối
“Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ nguồn”
“Bâng Khuâng trong lòng / bồn chồn bước đi”
“Mưa nguồn suối lũ / những mây cùng mù”
“Miếng cơm chấm muối / nặng vai mối thùng”
Ngoài nghệ thuật tiểu đối, tác giả còn sử dụng bình đối để tạo vẻ đẹp cân xứng. Đặc biệt trong đoạn thơ nói về thiên nhiên Việt Bắc đẹp như một bức tranh tứ bình, mỗi câu sáu chữ tả thiên nhiên lại có câu tám chữ khắc họa hình ảnh con người, nhờ đó âm điệu của những khúc hát du dương, trầm bổng, sâu nắng và ngân nga vang lên trong lòng người đọc.
“Việt Bắc” của Tố Hữu tồn tại vĩnh cửu trong lòng bạn đọc bao đời có lẽ bởi tính dân tộc đậm đà thấm nhuần trong đó. Sẽ không phải nói quá khi ví bài thơ như một tác phẩm văn học mẫu mực của dân tộc.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Mẫu 6
Tố Hữu là đỉnh cao của thơ trữ tình - chính trị, mang đậm khuynh hướng sử thi, cảm hứng lãng mạn và màu sắc dân tộc. Và có thể nói “Việt Bắc” - khúc hát ân tình của con người kháng chiến với quê hương đất nước, với nhân dân và cách mạng là một trong số những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu. Đọc “Việt Bắc” chúng ta sẽ thấy rõ những biểu hiện của tính dân tộc.
Trước hết, tính dân tộc trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu được thể hiện ở mặt nội dung bởi lẽ bài thơ đã mô tả một cách chân thực, sâu sắc, đậm đà tính dân tộc của cảnh sắc, phong cảnh quê hương, đất nước và những nét đẹp truyền thống của con người Việt Nam. Bài thơ “Việt Bắc” đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên đậm đà tính dân tộc, mang bản sắc riêng của thiên nhiên đất nước Việt Nam qua bức tranh tứ bình. Đó là cảnh sắc mùa đông với sắc đỏ của những bông hoa chuối rừng:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Có lẽ chỉ cần một câu thơ nhưng tác giả đã vẽ nên một bức tranh thiên nhiên Tây Bắc mùa đông thật sinh động. Trên cái nền xanh bát ngát của cây rừng, tia sáng của sức sống mãnh liệt chính là sắc đỏ tươi sáng của những bông hoa chuối. Sắc xanh và sắc đỏ hòa quyện vào nhau tạo nên một bức tranh càng thêm phần sinh động, ấm áp.
Đó là bức tranh xuân với những hương thơm, những sắc màu đậm đà của núi rừng Tây Bắc:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Dường như trong những ngày xuân, cả một rừng mơ bung nở sắc trắng tinh khôi, trẻ trung và mơ mộng. Sắc trắng ấy trong những ngày xuân cũng chính là vẻ đẹp viên mãn, tràn đầy sức sống và đặc trưng cho mảnh đất nơi đây.
Và nếu như sắc trắng làm nên nét đẹp của mùa xuân thì âm thanh của tiếng ve, sắc vàng chính là những nét đẹp riêng mỗi độ hè về:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Thiên nhiên ở đây được vẽ, được cảm nhận bằng cả màu sắc và âm thanh - màu vàng của rừng phách, của nắng hè và âm thanh của tiếng ve. Tất cả những điều đó dường như đang cộng hưởng, quyện hòa vào nhau. Chữ “đổ” được tác giả sử dụng thật độc đáo và giàu giá trị, nó gợi sự căng tràn, ăm ắp của nguồn sống, gợi lên cả bước chuyển của thời gian.
Để rồi, kết thúc bức tranh tứ bình ấy chính là bức tranh mùa thu đẹp đẽ, êm đềm, mơ mộng với ánh trăng vàng - ánh trăng hòa bình đang chiếu rọi khắp núi rừng.
Mùa thu trăng rọi hòa bình.
Không chỉ tái hiện bức tranh thiên nhiên đậm đà bản sắc dân tộc mà “Việt Bắc” còn vẽ nên hình ảnh những con người Việt Nam với những vẻ đẹp truyền thống từ ngàn đời. Đó là những con người vất vả, lam lũ, chịu thương, chịu khó. Chắc hẳn, đọc bài thơ “Việt Bắc” người đọc sẽ không thể nào quên được hình ảnh những “người mẹ nắng cháy lưng, địu con lên rẫy” và cả những con người suốt bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, vẫn luôn miệt mài với công việc, mỗi mùa mỗi việc, khi thì “dao gài thắt lưng”, xuân về họ lại cẩn mẫn, tỉ mỉ “đan nón chuốt từng sợi giang” và khi hè đến họ lại lên núi hái măng. Thêm vào đó, những con người trong bài thơ là những con người thủy chung, tình nghĩa, luôn đồng cam, cộng khổ và san sẻ cùng nhau. Vẻ đẹp ấy của họ thể hiện rõ nét qua “câu hát ân tình”, qua hình ảnh san sẻ cùng nhau trong những năm tháng kháng chiến khó khăn, thiếu thốn:
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng.
Và cuối cùng, tính dân tộc ở phương diện nội dung được thể hiện ở tình nghĩa của cán bộ và đồng bào Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến - đó cũng chính là mạch cảm xúc xuyên suốt toàn bộ bài thơ.
Cùng với nội dung, tính dân tộc của bài thơ còn được thể hiện rõ nét ở hình thức nghệ thuật. Trước hết, bài thơ được viết theo thể thơ lục bát - một thể thơ truyền thống của dân tộc, điều này đã tạo nên âm hưởng vừa thống nhất vừa biến hóa cho bài thơ, làm cho câu thơ lúc thì dung dị, dân dã, gần với ca dao, lúc lại cân xứng, trau chuốt đến độ nhuần nhị, cổ điển. Đồng thời, bài thơ cũng được viết theo lối kết cấu đối đáp quen thuộc của văn học dân gian với cặp đại từ “mình” - “ta” để ướm hỏi, trả lời, làm cho mạch cảm xúc và sự phát triển của chủ đề bài thơ cũng trên cơ sở ấy. Đặc biệt, tính dân tộc trong hình thức nghệ thuật của bài thơ được thể hiện rõ nét ở ngôn ngữ. Trong bài thơ, tác giả đã rất tài tình khi sử dụng lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân để tái hiện lại cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến cũng như vẽ nên khung cảnh về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn. Đồng thời, ngôn ngữ trong bài thơ rất giàu hình ảnh và nhạc điệu - “người mẹ nắng cháy lưng”, “rừng che bộ đội rừng vây quân thù”, “chày đêm nện cối đều đều suối xa”,... Và đặc biệt, tác giả đã sử dụng cặp đại từ nhân xưng “mình” - “ta” biến hóa linh hoạt với những lối biểu cảm, ngữ nghĩa phong phú vốn có của nó.
Tóm lại, bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu mang tính dân tộc đậm đà, điều đó thể hiện rõ nét trên cả nội dung và hình thức nghệ thuật của bài thơ.
Tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc - Mẫu 7
Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là một thành tựu quan trọng của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được Tố Hữu sáng tác vào tháng 10 năm 1954 nhân một sự kiện lịch sử: Trung ương Đảng và chính phủ rời chiến khu về thủ đô Hà Nội. Từ điểm xuất phát ấy bài thơ thể hiện tình gắn bó thắm thiết giữa người ra đi và người ở lại, giữa miền xuôi và miền ngược, giữa người cán bộ với Việt Bắc quê hương của cách mạng, với đất nước và nhân dân, với Đảng và Bác Hồ, với cuộc kháng chiến đã thành kỉ niệm sâu nặng trong tâm hồn.
Như thế nghĩa là trong niềm vui thắng lợi và đón nhận cuộc sống thanh bình nhà thơ vẫn không quên tình nghĩa gắn bó trong những năm gian khổ đã qua và coi đây là cội nguồn sức mạnh tinh thần to lớn cho những ngày hiện tại và tương lai. Có thể nói, bài thơ Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca mà cội nguồn sâu xa của nó là tình cảm quê hương đất nước, là truyền thống ân nghĩa, đạo lý thuỷ chung của dân tộc.
Trước hết với kiểu kết cấu đối đáp rất đậm đà tình nghĩa của bài thơ Việt Bắc là tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện cụ thể qua sự gắn bó với núi rừng Việt Bắc trong nỗi nhớ của người cán bộ sắp về xuôi. Cảnh Việt Bắc hiện ra những vẻ đẹp hiện thực và thơ mộng, thi vị gợi rõ nét độc đáo của Việt Bắc so với nhiều miền quê khác của đất nước. Việt Bắc đó là hình ảnh: 'Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương', hình ảnh bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, là những 'rừng nứa bờ tre, sông Đáy' là tiếng mõ trâu về trong rừng chiều, tiếng 'Chày đêm nện cối đều đều suối xa'.
Nhưng nổi bật nhất là nỗi nhớ của Tố Hữu về Việt Bắc là sự kết hợp với người, là ấn tượng không thể phai mờ về người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, trung thành trong tình thân:
Chúng ta về nhớ chính mình
...
Nhớ âm thanh của tiếng hát thân thương trung thành.
Từ đó có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện ra với vẻ đẹp phong phú, đa dạng, biến đổi theo mùa. Kèm theo cảnh đó là con người giản dị, người làm nương, người đan nón, người hái măng. Bằng những hành động nhỏ nhặt của họ, họ đã đóng góp vào sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Tình thân gắn bó và chia sẻ gánh nặng cùng nhau, chịu đựng gian khổ và thiếu thốn, gánh vác nhiệm vụ khó khăn giữa nhân dân và bộ đội và cán bộ, tất cả tạo ra hình ảnh sáng ngời của Việt Bắc trong ký ức của nhà thơ. Việt Bắc - nơi có những ngôi nhà 'Lau xanh rêu phủ, đậm chất màu nâu', nơi mẹ 'Đỡ con lên cánh đồng, bẻ từng bắp ngô', là những ngày tháng đoàn kết cùng nhau chịu đựng:
Thương nhau chia cắt củ sắn
Chén cơm chia nửa, mền sui chăn kín
Có thể nói âm hưởng trữ tình vẫy gọi trong toàn bài tạo ra bài ca ngọt ngào, sâu lắng về tình đồng chí với đồng bào, tình yêu với thiên nhiên, đất nước, và cuộc sống.
Theo hồi ức của Tố Hữu, bài thơ dẫn ta vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với hình ảnh hào hùng, hoạt động sôi nổi, âm thanh hân hoan. Bài thơ tràn ngập âm hưởng anh hùng ca mang dáng vẻ sử thi hiện đại khi chỉ cần miêu tả khung cảnh hùng vĩ của Việt Bắc, Tố Hữu đã vạch ra khí thế chiến đấu mạnh mẽ của dân tộc.
Những con đường Việt Bắc của chúng ta
Đêm đêm vang vọng như lòng đất rung
Quân đi, điệp, đông đúc, nhiều như mây
Ánh sao đầu súng bạn với chiếc nón quân
Dân lao đỏ lửa từng đội
Bước chân nát đá, ngọn lửa vẫy vùng.
Dân tộc đã vượt qua bao gian khổ hi sinh để tạo nên những kì tích, những chiến công, từ đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hòa Bình, Tây Bắc đến Điện Biên. Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả diễn biến của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu vào lý giải những nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh tình nghĩa trung thành: 'Chúng ta ở đây, chúng ta ở đó, đắng cay ngọt bùi' nhất là sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên. Tất cả tạo nên hình ảnh 'đất nước đứng lên'.
Nhớ khi kẻ thù xâm nhập
Rừng cây núi đá chúng ta cùng chống phương Tây
Núi dựng hàng rào thép dày
Rừng che bảo vệ đội quân, rừng bao vây kẻ thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời chúng ta cùng chiến khu một lòng.
Đặc biệt với những lời thơ trang trọng và tha thiết, Tố Hữu đã nhấn mạnh hình ảnh và vai trò của Việt Bắc như quê hương của cách mạng, căn cứ vững chắc của cuộc kháng chiến. Trong những năm u ám trước cách mạng, hình ảnh Việt Bắc dần hiện lên từ xa xôi 'mưa nguồn suối lũ, những mây và sương' cho đến xác định như chiến khu kiên cường nơi nuôi dưỡng nhiều sức mạnh đấu tranh, nơi sinh ra nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dân tộc.
Nhớ về núi non khi quay về
Nhớ thời Việt Minh chống Nhật
Mình đi đâu vẫn nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa.
Trong những năm gian khó kháng chiến, Việt Bắc là nơi 'cụ Hồ soi sáng', với Trung ương, Chính phủ thảo luận công việc để củng cố niềm tin của cả nước vào Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những câu thơ mang sắc thái của ca dao, đậm nét nghĩa tình dân tộc.
Ở nơi nào đau đớn, nguồn gốc
Nhìn về Việt Bắc để nuôi dưỡng lòng kiên cường
Mười lăm năm ấy không ai quên
Quê hương cách mạng xây dựng nên cộng hòa.
Từ tình yêu thương, sự gắn bó với cảnh và người Việt Bắc, từ lòng tin vững chắc vào sức mạnh của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ, Tố Hữu vẽ ra một tương lai tươi sáng cho Việt Bắc, trong bối cảnh xây dựng một cuộc sống mới hòa bình, phồn thịnh.
Ngày mai sẽ đầy sơn khê
Điều hòa tàu chạy, lưới bao phủ mọi nơi
Thanh Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm mọc giữa trời.
Những hình ảnh ấy là ước mơ, khát vọng và cũng là tình nghĩa mà những người cán bộ kháng chiến muốn đền đáp tại cội nguồn của cách mạng, nơi đã che chở họ trong những ngày đầy gian nan hi sinh.
Đặc biệt ở những dòng cuối cùng của bài thơ, người đọc càng hiểu sâu thêm sự sắc sảo, nhạy bén của bài thơ Tố Hữu khi hướng về tương lai, không quên nét đẹp trong đạo lý truyền thống của dân tộc là tình nghĩa thuỷ chung, luôn nghĩ đến nhau và vì nhau giữa miền xuôi và miền ngược, giữa cán bộ và nhân dân của mình.
Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao vẫn nhìn thấy núi đồi phải không?
Phố đông vẫn nhớ bản làng
Ánh đèn vẫn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Đây có thể coi là cảnh báo về sự mất đi khi có sự thay đổi môi trường, khi ta có thể quên tất cả những tình nghĩa năm xưa để chỉ nghĩ đến bản thân và vì bản thân. Cho đến ngày nay, những lời thơ của Tố Hữu vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, không hề lỗi thời.
Tính dân tộc là nét đặc trưng nổi bật ở Việt Bắc. Chính tính dân tộc này đã tạo ra sức hút của bài thơ. Tính dân tộc đã giúp nhà thơ truyền đạt tư tưởng hiện đại, tiên tiến. Đây là một trong những tác phẩm thành công nhất của Tố Hữu, một tác phẩm ca ngợi những ngày hào hùng của dân tộc, những ngày mà toàn dân nô nức ra trận, những ngày mà đất Việt Bắc ghi dấu bao chiến công hào hùng, tươi đẹp. Tất cả đều được tái hiện trong một hình thức đặc biệt mà Tố Hữu đã lựa chọn và sử dụng. Rõ ràng, bài thơ Việt Bắc đã truyền tải tinh thần và tư tưởng của thời đại, nhưng vẫn có thể được hát vang như những bài ca dao.
........
Tải tài liệu để đọc thêm về phân tích tính dân tộc trong Việt Bắc