Phân tích về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ 'Bếp lửa' bao gồm 15 ví dụ xuất sắc nhất, cùng với dàn ý chi tiết, giúp học sinh hiểu sâu hơn về ý nghĩa của hình ảnh bếp lửa, nhanh chóng hoàn thiện bài viết số 7 lớp 9 đề 5 của mình.
Bếp lửa là biểu tượng đẹp mắt, đặc biệt trong tình cảm gia đình được mô tả trong bài thơ 'Bếp lửa'. Đồng thời, nó cũng thể hiện khát vọng trở về nơi ấm cúng, nơi có hình ảnh người bà yêu thương. Mời các em cùng đọc bài viết dưới đây của Mytour:
Phân tích về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ 'Bếp lửa'
- Dàn ý Phân tích về hình ảnh bếp lửa
- Phân tích hình ảnh bếp lửa một cách ngắn gọn
- Phân tích hình ảnh bếp lửa tốt nhất
- Bài mẫu Phân tích về hình ảnh bếp lửa (13 mẫu)
Dàn ý Phân tích về hình ảnh bếp lửa
I. Mở đầu: Giới thiệu về hình ảnh bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
- Ví dụ:
Trong gia đình, mỗi gia đình có sự đa dạng về thành viên và nghề nghiệp. Có người làm nông, giáo viên, nhân viên và nhiều nghề khác. Trong gia đình, có thể có ba, mẹ, ông bà, cháu, cậu, chú,... Mỗi thành viên trong gia đình đều đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người có một tình cảm và vai trò riêng biệt. Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt đã tôn vinh mối quan hệ đặc biệt giữa bà và cháu. Ngoài ra, bài thơ cũng tập trung mô tả hình ảnh bếp lửa rất đặc biệt.
II. Phần thân bài: Hình ảnh của bếp lửa trong bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt
1. Hình ảnh của bếp lửa gợi lên cảm xúc:
- Bếp lửa là một biểu tượng quen thuộc trong làng quê Việt Nam
- Bếp lửa mang lại cảm giác gần gũi, thân thiện
- Hình ảnh của ngọn lửa rực cháy trong sương sớm là một cảnh tượng rất mơ mộng và ảo ảnh
- Hình ảnh của bếp lửa gắn bó mật thiết với ký ức tuổi thơ
2. Suy ngẫm về hình ảnh của bếp lửa:
- Ấm áp, đậm chất
- Nơi chứa đựng tình yêu thương
- Bếp lửa không thể nào tắt được trong trái tim của người cháu
- Bếp lửa là nơi nhen nhóm tình cảm bà cháu sâu đậm
III. Phần Kết bài: Thể hiện cảm nghĩ của bạn về hình ảnh của bếp lửa
Phân tích hình ảnh của bếp lửa một cách ngắn gọn
Trưởng thành là một cuộc hành trình khó khăn và gian khổ, là việc phải học cách tự lập, tự chăm sóc bản thân, đôi khi phải tự an ủi mình rằng mọi thứ sẽ ổn, nhưng đôi khi lại bất ngờ rơi nước mắt không ngừng. Những lúc như thế, ta lại nhớ về gia đình, về những kỷ niệm xưa cũ, như là nguồn động viên để tiếp tục bước đi trên con đường đã chọn. Bài thơ Bếp lửa với hình ảnh của bếp lửa xuất hiện suốt tác phẩm là biểu tượng của sự nhớ nhung, là tình cảm, là suy tư sâu xa của một người con xa nhà mong mỏi được trở về bên mái ấm đơn sơ nơi có hình ảnh của người bà quen thuộc.
Đúng vậy, sống trên cuộc đời, không ai thực sự mạnh mẽ, kiên cường mà không cần đến tình thương từ gia đình. Càng được yêu thương, được bảo vệ bấy nhiêu, thì khi mất đi điều đó, con người cảm thấy mất mát, khao khát. Và đây có lẽ cũng là tâm sự của tác giả - niềm khát khao của một người con ở xa nhà.
Mùa đông, mùa của cô đơn và lạc lõng. Thật vậy, bởi cái lạnh trong sương mờ ấy lại đưa tác giả về nhớ về quê hương, nhớ về bà, nhớ về tuổi thơ chân chất, ấm áp, tràn đầy tình yêu của bà. Có lẽ vì không kìm nén được nỗi nhớ mà tác giả đã thốt lên:
'Một cái bếp lửa vẫy vùng trong sương sớm
Một cái bếp lửa ấm áp, tràn ngập tình yêu
Cháu thương bà biết bao nắng mưa'
Hình ảnh của bếp lửa xuất hiện ngay từ đầu bài thơ, ngọn lửa ấy như một tia sáng rực rỡ chiếu rọi cả không gian và thời gian, làm thổn thức trái tim bé nhỏ của bao đứa con xa quê. Ngọn lửa lớn lên trong tiềm thức của người cháu, là ngọn lửa gắn với hình ảnh của bà, bà là người đốt lên ngọn lửa để ấm áp cháu lớn lên, không ngại gian khổ, bà sống giản dị, thức khuya sớm dậy, tình yêu của bà đã chạm đến trái tim cháu để rồi đứa cháu phải thốt lên tình yêu thương dành cho bà trong nghẹn ngào.
Nhờ việc sử dụng các từ ngữ như 'ấm áp, vẫy vùng', tác giả đã mô tả được hình ảnh một cái bếp lửa đẹp, giản dị. Đó không chỉ là một cái bếp lửa bình thường và cũng không phải là một vật không sinh linh, nó mang trong mình hơi ấm của tình yêu thương, nó đốt cháy ngọn lửa trong trái tim cháu, là ngọn lửa tình yêu của bà và cũng là biểu tượng cho tình cảm gia đình trong những ngày thơ ấu của tác giả.
Ngọn lửa ấm áp làm cho tuổi thơ của cháu trở nên ấm áp, lớn lên bên cháu. Nó đã trở thành biểu tượng gắn liền với tuổi thơ đầy khó khăn bên bà:
'Khi cháu lên bốn, mùi khói đã trở nên quen thuộc...
Chỉ còn nhớ mùi khói êm dịu bám lấn mắt cháu
Bây giờ khi nhớ lại, mùi khói vẫn còn đọng lại trong tâm trí!'
Liệu là mùi khói vô tình đã làm mắt cháu nhè nhẹ hay là nỗi lòng thương yêu của bà đã khiến cháu ngậm ngùi trong những cảm xúc. Thời gian không khoan nhượng với ai, khi còn bé cháu chỉ biết sống vô tư, không biết quan tâm đến ai ngoài bản thân, đôi khi tỏ ra nóng nảy với bà mà không hay biết bà đang gánh vác gánh nặng của gia đình. Bà thay cha, thay mẹ của cháu, bà yêu thương cháu, giúp cháu cảm nhận sự êm dịu trong cuộc sống. Giờ đây khi cháu trưởng thành, cháu hiểu rõ hơn cuộc sống, cháu mới nhận ra nỗi đau của bà, nỗi cô đơn mà bà phải chịu đựng, nhưng bà vẫn kiên nhẫn, âm thầm nuôi cháu lớn.
Bài ca về tình yêu và sự hy sinh của bà vẫn tiếp tục, nó không ngừng đè nén trái tim của cháu, khiến cháu lại hồi tưởng về những ngày tháng bên bà, những kỷ niệm đó trôi vào dòng ký ức từ tiềm thức trỗi dậy.
'Đã mấy chục năm trôi qua, cho đến bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Bếp lửa ấm áp, tràn ngập tình thương
Bếp lửa của yêu thương, của sự no ấm, hạnh phúc
Bếp lửa của niềm vui khi cùng chia sẻ
Bếp lửa còn chứa đựng cả những kỷ niệm thơ ấu
Ôi kỳ diệu và thiêng liêng - bếp lửa ấm áp!'
Bà đã quen với cuộc sống khó khăn, mỗi ngày bà vẫn kiên nhẫn nhóm bếp. Bếp lửa của tình thương ấm áp, của niềm hạnh phúc, sự no ấm. Bếp lửa của sự hy sinh cao cả đã làm cho ngọn lửa trong trái tim cháu sáng rực hơn, dạy cháu biết yêu thương và trân trọng.
Sẽ có một ngày mà ta phải rời xa những điều quen thuộc, để học cách trưởng thành, học cách tự lập. Dù sống giữa thành phố ồn ào, nơi có muôn vàn phương tiện giao thông, nhưng ta vẫn không quên nhớ về lòng biết ơn của mình dành cho bà, vẫn lo lắng về thói quen dậy sớm của bà:
'Bây giờ cháu đã đi xa. Dù có khói bếp trăm nhà
Và lửa sáng trăm ngôi nhà, niềm vui ở mọi nơi
Nhưng chẳng bao giờ quên nhắc nhở:
- Sáng mai bà đã đốt bếp chưa?'
Kết thúc bài thơ bằng một câu hỏi nhẹ nhàng đầy lo lắng, đó là tình cảm dành cho bà, là lo lắng quan tâm dành cho người đã dưỡng dục mình lớn. Dù xa xôi nhưng cháu vẫn nhớ bà, vẫn hướng về hướng về bà như bà luôn hướng về cháu. Bây giờ ở nơi xa ấy, liệu bà đã đốt bếp chưa?
Hình ảnh bếp lửa được nhắc đến liên tục trong bài thơ, bếp lửa là nguồn sống của hai bà cháu, là nơi ấm áp của những bữa cơm giản dị từ thuở nhỏ. Bếp lửa gắn với tuổi thơ của cháu, bà đốt bếp lửa cũng là lúc cháu cảm thấy đầy hạnh phúc khi ấm bên bà. Hình ảnh bà và bếp lửa sẽ mãi theo cháu, trở thành biểu tượng của tình thương mà cháu sẽ không bao giờ quên. Cuộc đời trôi qua nhanh chóng, vì vậy đừng để phí phạm một khoảnh khắc nào vì ích kỷ mà làm tổn thương những người thân yêu xung quanh. Hãy sống để yêu thương, biết ơn và cho đi. Sống với lòng biết ơn những người đã yêu thương mình và hãy trưởng thành để đền đáp tình thương của cha mẹ, của những người đã ban tặng cho chúng ta sự yêu thương.
Phân tích về hình ảnh bếp lửa tốt nhất
Bếp lửa là biểu tượng quen thuộc, liên kết với cuộc sống của các gia đình ở nông thôn Việt Nam. Khói từ bếp luôn khiến con người cảm thấy nhớ nhung, xao xuyến. Tác giả Bằng Việt cũng vậy, khi nhìn thấy khói từ lửa bếp ở nơi xa xứ, ông lại nhớ về quê hương. Nỗi nhớ ấy đã thúc đẩy ông viết bài thơ 'Bếp lửa'. Đến ngày nay, khi đọc lại tác phẩm, ta vẫn cảm thấy xúc động với hình ảnh bếp lửa quen thuộc, thân thuộc và ý nghĩa.
Ngay từ những dòng thơ đầu tiên, tác giả đã viết:
'Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa'
Từ 'Một bếp lửa', ta thấy rằng hình ảnh đó đã hiện diện liên tục trong tâm trí của nhà thơ, khiến ông không thể không viết ra để thể hiện tâm trạng của mình. Hai từ 'chờn vờn' và 'ấp iu' mô tả lửa cháy âm ỉ, không ngừng cháy. Đó là do người bà luôn dậy sớm để nhóm bếp, giữ cho lửa cháy mãi. Vậy nên, ở ba dòng thơ đầu tiên, hình ảnh bếp lửa đã khơi dậy trong tâm trí nhà thơ một cảm xúc sâu sắc về người bà thân thương.
Trong những dòng thơ sau đó, ta biết rằng hình ảnh bếp lửa đã hiện hữu trong tuổi thơ của tác giả từ rất sớm. Từ khi 'lên bốn tuổi', ông đã quen với mùi khói từ bếp. Đó cũng là lúc ông bắt đầu nhận thức về những điều xảy ra xung quanh. Những đau thương, mất mát hay sự cơ cực của gia đình đều được ông ghi lại trong lòng. Vậy nên, khi nhớ lại, ông vẫn cảm nhận được mùi khói bếp đã 'hun nhèm mắt cháu'. May mắn thay, trong những năm tháng ấy, ông luôn có bà ở bên cạnh. Bà đã chăm sóc, dạy dỗ ông thành một nhà thơ nổi tiếng. Hiểu được vất vả của bà, nhà thơ đã thốt lên 'Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc'. Đó chính là sự biểu hiện của tình yêu thương và biết ơn đối với người bà yêu quý.
Mặc cho cuộc chiến loạn rối, bà vẫn kiên trì nhóm lửa:
'Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng'
'Rồi sớm rồi chiều' cho thấy sự lặp lại của thời gian, hàng ngày bà vẫn nhóm bếp. Những ngọn lửa bà nhen là biểu tượng của tình yêu thương, chứa đựng niềm tin, hi vọng vào một tương lai tươi sáng. Bằng những bài học từ bà qua bếp lửa, cháu học được hi vọng ấy. Từ đó, ông có nhiều suy nghĩ về người bà thông qua bếp lửa:
'Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!'
Từ 'Nhóm' ở đoạn thơ này tượng trưng cho việc bà là nguồn cảm hứng, thức tỉnh những tình cảm trong lòng cháu. Bằng bếp lửa, bà đã mang lại những bữa cơm, những món ăn ngon lành. Và đồng thời, tâm trạng của con trẻ cũng được bà thấu hiểu và chia sẻ nơi bếp lửa. Tác giả sử dụng từ 'Ôi kì lạ và thiêng liêng' để diễn đạt sự ngạc nhiên, khám phá ý nghĩa của bếp lửa. Đó chính là cách để bà truyền tải tình cảm của mình đến người cháu, nơi bà dành hết tâm huyết để chăm sóc, hy vọng một ngày cháu sẽ trưởng thành. Sự hy sinh của bà là đáng kính trọng. Người cháu, khi lớn lên, ở nước ngoài vẫn luôn nhớ đến bà, tự hỏi rằng 'Sáng mai này bà đã nhóm bếp lên chưa?'.
Bằng cách sử dụng thơ trữ tình và nhiều phương tiện biểu đạt khác như biểu cảm, tự sự, miêu tả, bình luận, tác giả Bằng Việt đã tạo ra hình ảnh của bếp lửa vừa gần gũi, quen thuộc, vừa giàu ý nghĩa biểu tượng. Bếp lửa không chỉ là nơi tác giả thể hiện nỗi nhớ về bà, mà còn là phương tiện để bà truyền tải yêu thương cho người cháu, là nơi chứa đựng niềm tin, hy vọng vào một tương lai tươi sáng.
Bằng Việt đã thành công khi đổi mới hình ảnh của bếp lửa, mang vào đó những ý nghĩa biểu tượng mới đầy ấn tượng và đặc sắc. Bếp lửa không chỉ là câu chuyện riêng của tác giả, mà còn tượng trưng cho hy vọng vào một tương lai tươi sáng của con người.
Bài viết mẫu về Phân tích hình ảnh bếp lửa
Mẫu số 7 về Bài viết - Mẫu 1
'Bếp lửa' của Bằng Việt là một tác phẩm đầy cảm động, tôn vinh tình cảm bà cháu sâu sắc, trong đó hình ảnh người bà hiện lên tươi đẹp bên ánh lửa hồng. Hình ảnh của bếp lửa là một biểu tượng nghệ thuật độc đáo, được nhà thơ sáng tạo để làm sâu sắc thêm ý nghĩa của tác phẩm.
Trước hết, hình ảnh của bếp lửa hiện ra, là điều gì đó thực tế được người bà thắp sáng trong căn nhà của hai bà cháu:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Đó là chiếc bếp lửa được chính tay người bà tạo ra trong cuộc sống hàng ngày, được sử dụng để phục vụ cuộc sống như nấu cơm, luộc khoai luộc sắn,… chính bếp lửa này làm “cay mắt cháu” và cũng chính nó nuôi sống hai bà cháu.
Thế nhưng có vẻ như nhà thơ đã sáng tạo ra biểu tượng này không chỉ để nói về bếp lửa thực tế mà hình ảnh của bếp lửa còn là biểu tượng cho tình yêu thương mà bà dành cho cháu:
“Rồi sớm rồi chiều, lại bếp lửa bà nhen,
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Lận đận cuộc đời, bà trải qua bao nắng mưa
Mấy chục năm trôi qua, từ xưa đến nay
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Ngọn lửa trong bếp ấp ủ tình yêu thương đong đầy
Ngọn lửa ấy đựng đầy niềm vui, tình thương đắm say
Ngọn lửa còn là chứng nhân cho những tâm tư nhỏ bé
Kì diệu và thiêng liêng, bếp lửa ơi!”
Hình ảnh của bếp lửa là biểu tượng cho những khó khăn và niềm vui mà hai bà cháu đã trải qua, là tình yêu thương mà bà dành cho cháu không biên giới, là niềm tin và hy vọng của bà. Bà là người thắp lửa nhưng cũng là người truyền lửa cho cháu trong mọi tình huống. Dù cuộc sống có gian khổ ra sao, lòng bà luôn ấp ủ một tia lửa tình thương, sẵn sàng truyền đến cho cháu để cảm nhận được sự ấm áp và yêu thương của bà, giúp cháu có thể thắp sáng niềm tin vào tương lai và nhớ về một tuổi thơ đầy hạnh phúc dưới bóng bếp lửa. Khi người cháu lớn lên, đi xa và không còn bên cạnh bà nữa, mỗi khi nhìn thấy ánh lửa, trái tim người cháu lại hướng về bà với một tình cảm nhớ thương vô tận. Chính bếp lửa đã giúp cháu trưởng thành hơn rất nhiều:
Giờ đây, khi cháu đã rời xa. Bóng khói nghi ngút,
Bóng lửa sáng rực, hạnh phúc tràn lan,
Nhưng vẫn mãi không quên nhắc nhở:
- Mai này sớm thức dậy, bà đã nấu ấm chưa?...
Có thể nói rằng hình ảnh bếp lửa là một biểu tượng nghệ thuật độc đáo và sáng tạo của nhà thơ Bằng Việt, thể hiện nội dung tư tưởng của tác phẩm. Qua đó, chúng ta càng thấy được tài năng sáng tạo của nhà thơ và càng yêu quý và trân trọng tình cảm bà cháu, tình cảm gia đình.
Bài viết số 7 đề 7 - Mẫu 2
Bài thơ Bếp lửa là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt. Trong tác phẩm này, chúng ta không chỉ thấy được hình ảnh của một người bà tận tình, chịu khó, mà còn nổi bật là hình ảnh của bếp lửa. Hình ảnh này xuất hiện khắp nơi trong tác phẩm, là điểm dừng của cảm xúc, là hình tượng trung tâm, qua đó tư tưởng chủ đề của bài được thể hiện một cách sâu sắc nhất.
Hình ảnh bếp lửa hiện lên trong bài thơ vô cùng đơn giản, quen thuộc với mọi gia đình:
Một bếp lửa chờ đợi sương sớm
Một bếp lửa ấp ủ tình thương đong đầy
Từ 'một bếp lửa' được lặp lại hai lần ở đầu mỗi câu thơ, tạo thành một giai điệu da diết, gợi nhớ cho người cháu về hình ảnh người bà. Mỗi buổi sáng, bà thức dậy sớm, nhóm lửa nuôi cháu khôn lớn. Từ hình ảnh chờn vờn sương sớm gợi lên hình ảnh ngọn lửa sáng rực trong buổi sáng mơ màng, và đâu đó còn có sự huyền ảo, gợi nhớ về những ký ức đẹp khi bà ở bên.
Với đôi bàn tay khéo léo, bà đã âu yếm, nuôi dưỡng cháu lớn khôn từng ngày. Bếp lửa đó chứa đựng biết bao tình thương mà bà dành cho cháu, khiến cháu mãi mãi yêu mến và nhớ thương: “Cháu mãi nhớ bà vô vàn” Nhưng không chỉ thế, hình ảnh của bếp lửa còn khiến cháu nhớ lại những kỷ niệm ấm áp trong tuổi thơ đầy yêu thương và khó khăn nhưng đầy ấm áp.
Đó là khói bếp mùi hương trong những năm đói kém, hàng vạn người dân chết đói. Nhưng bà vẫn vượt qua mọi khó khăn, thách thức, để bảo vệ cháu thoát khỏi thời kỳ đen tối đó. Đó cũng là kỷ niệm về người bà kiên cường, bền bỉ, dốc hết mình để nuôi dưỡng cháu lớn. Bà không chỉ thay thế cha mẹ để trao cho cháu tình yêu mà còn dạy cháu cách sống, cách làm người:
Cháu cùng bà, nghe lời bà
Bà dạy cháu, bảo cháu học
Tám năm sống bên bà là tám năm được che chở, bảo vệ. Sự hi sinh của bà có lẽ cháu cả đời này cũng không thể đền đáp được. Nghĩ về bà, về sự hy sinh âm thầm ấy khiến cháu cảm thấy tôn kính và yêu mến bà hơn: “Tình thương bà mãi không phai nhạt”. Bà chính là điểm tựa tinh thần, che chở và dìu dắt cháu. Cùng với đó là tiếng chim hót vang vọng mỗi khi hè về, gợi nhớ những kỷ niệm đẹp của tuổi thơ. Với từ ngữ mềm mại nhưng đầy cảm xúc, Bằng Việt đã làm cho người đọc thấy được hình ảnh của một người bà âu yếm, đầy tình thương, bà chính là cha mẹ trong những năm gian khó. Bên cạnh đó, bếp lửa còn là biểu tượng gắn liền với hình ảnh của người bà – người nuôi dưỡng và truyền đạt tình thương:
Bếp lửa ấm áp vô vàn tình thương
Tình yêu thương như khoai sắn ngọt bùi
Xôi gạo nồi chung vui niềm hạnh phúc
Dạy dỗ những tâm hồn nhỏ bé
Từ điệp lặp lại ở đầu mỗi câu thơ không chỉ kết hợp một cách hài hòa giữa ý nghĩa rõ ràng và ý nghĩa ẩn dụ mà còn tạo ra giá trị biểu tượng sâu sắc cho hình ảnh. Bà không chỉ nuôi lớn cháu trong ngọn lửa ấm áp, đong đầy tình thương vô hạn, mà còn dạy cháu biết chia sẻ, san sẻ trong cuộc sống, với hàng xóm của mình. Hơn nữa, bà còn truyền niềm tin và ước mơ vào tương lai cho cháu.
Bếp lửa là biểu tượng của tình thương ấm áp của bà, là biểu hiện của sự khéo léo, chăm sóc, và nó cũng gắn liền với những khó khăn, gian khổ trong cuộc sống của bà. Do đó, ông cảm nhận được sự thiêng liêng của bếp lửa: “Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa”. Ông nhận ra rằng, bếp lửa không chỉ là sự kết hợp của củi và rơm mà còn là ngọn lửa của tình thương và niềm tin bất diệt trong lòng bà. Do đó, từ hình ảnh cụ thể của bếp lửa, tác giả đã dẫn đến hình ảnh trừu tượng của ngọn lửa:
Mỗi sáng, mỗi chiều, bà nhen lên ngọn lửa
Một ngọn lửa luôn sẵn sàng đốt cháy
Một ngọn lửa chứa đựng niềm tin kiên cường
Bà không chỉ là người nuôi lửa mà còn là người giữ và truyền lửa cho thế hệ sau. Bà truyền niềm tin, sức mạnh cho cháu vững bước trên con đường gập ghề của cuộc đời. Bếp lửa và ngọn lửa là hành trang vững chắc của cháu mỗi khi rời xa quê nhà.
Không chỉ là biểu tượng của tình thương ấm áp, bếp lửa còn là trái tim của đứa cháu xa quê, luôn hướng về bà với lòng kính trọng và biết ơn vô hạn. Khi rời xa quê nhà, đứa cháu càng hiểu sâu hơn về vẻ đẹp của bà và về truyền thống tốt đẹp của dân tộc: “Uống nước nhớ nguồn”
Hình ảnh của bếp lửa là một biểu tượng đặc biệt. Nó được hình thành từ sự kết hợp giữa hiện thực và biểu tượng. Thông qua đó, tác giả truyền đạt những thông điệp sâu sắc về người bà đầy tình yêu thương, người truyền lửa cho thế hệ sau; là tấm lòng tri ân sâu sắc tiếp nối truyền thống uống nước nhớ nguồn của dân tộc chúng ta.
Bài viết số 7 đề 7 - Mẫu 3
Trong cuộc đời, những kỷ niệm tuổi thơ luôn là những khoảnh khắc đẹp đẽ và gắn bó với những người thân yêu. Với Bằng Việt, kỷ niệm về bà và tình thương của bà dành cho cháu là điều rất quan trọng, là nguồn cảm hứng để sáng tác một tác phẩm đặc biệt: bài thơ Bếp lửa. Dù có thể đó là những kỷ niệm cá nhân của nhà thơ, nhưng khi đọc bài thơ này, chúng ta cảm nhận được hơi ấm của tình người, sự gần gũi và cao quý của tình thân. Theo từng dòng suy tư của nhân vật cháu, chúng ta cảm nhận được từng thăng trầm của tâm trạng.
Có cảm giác như ta đang đứng trước bếp lửa - ngọn lửa của ký ức tuổi thơ, ngọn lửa của cuộc sống khi đã trưởng thành, bếp lửa của bà xưa giờ là tâm điểm của nhiều gia đình ngày nay.
Tám dòng đầu tiên là những kỷ niệm mới nhen lên từ khi đứa cháu mới bốn tuổi:
Một bếp lửa khói mơ màng sớm mai
Một bếp lửa ấm áp nồng nàn
Cháu mãi nhớ bà qua bao cơn mưa nắng...
Trong một vài dòng thơ, hình ảnh của bà hiện lên một cách lặng lẽ, âm thầm trong bức tranh cuộc sống với bao cơn mưa nắng. Kỷ niệm được hồi sinh từ tình cảm sâu thẳm của cháu dành cho bà và cuộc sống gian khổ của hai bà cháu:
Năm đó là năm kém vụ
Bố đi kiếm ăn, ngựa mỏi thân xương
Với hoàn cảnh như vậy, tuổi thơ của cháu và tuổi già của bà không thể tránh khỏi những khó khăn đau đớn. Bao kỷ niệm xa xưa hiện về trong lòng.
Trong số đó, có một kỷ niệm ấn tượng nhất, làm rung động lòng người. Đó là hình ảnh của khói bếp, khói từ một bếp lửa của gia đình nghèo.
Khi mới bốn tuổi, cháu đã quen với mùi khói...Chỉ nhớ khói lúc mờ mắt cháuNghĩ lại bây giờ, mùi còn đọng trên mũi...
Mùi khói, sau đó lại là khói lúc mờ mắt... nhà thơ đã chọn một chi tiết đúng với thực tế cuộc sống tuổi thơ và đồng thời thể hiện những cảm xúc sâu sắc của lòng người. Khi nghĩ lại, mùi vẫn đọng trên mũi như làm tái hiện lại những kỷ niệm sâu thẳm trong tiềm thức, gợi lại cảm giác cay cay trong lòng và trên đầu mũi của người đọc. Thơ của Bằng Việt có sức lan tỏa mạnh mẽ nhờ vào sự thật của từ ngữ và sự giản dị. Bức tranh về bếp lửa kỉ niệm vừa mới được vẽ lên, với mùi khói nhẹ nhàng, màu xanh mờ... Nó chứa đựng những hình ảnh thực tế, đong đầy tình cảm sâu lắng.
Đoạn thơ tiếp theo:
Suốt tám năm dài, cháu và bà cùng nhóm lửa
(...)
Một ngọn lửa ấp trữ niềm tin bền vững.
Trong mù sương khói của tuổi thơ, những kỷ niệm về thời niên thiếu ở trong quê hương chiến tranh dần hiện lên rõ ràng. Ngôn ngữ của thơ trở nên rõ ràng hơn, như một câu chuyện cổ tích, với thời gian và không gian riêng. Nhân vật chính trong thơ là sự kiện cụ thể của việc cháu và bà cùng nhóm lửa suốt tám năm, mặc dù con số không lớn nhưng thời gian kéo dài và nặng nề. Trong những ngày ở Huế đó, cuộc sống gia đình cảm thấy cô đơn và trống vắng, khi cha mẹ phải đi làm xa. Chỉ có hai bà cháu, gắn bó nhau, nhóm lửa mỗi sáng mỗi chiều với tiếng tu hú vang lên. Nếu ấn tượng mạnh mẽ nhất của cháu ở tuổi bốn là mùi khói, thì ở đây, ấn tượng chính là tiếng tu hú. Trong mười dòng thơ, tiếng tu hú được nhắc đến năm lần. Đôi khi tiếng tu hú vọng từ xa, đôi khi gần gũi và tha thiết, như một lời than thở chia sẻ. Có khi nó vang dội, liên tục lặp lại. Trong cảnh cô đơn của sông quê chỉ có hai bà cháu giữa đói khổ và chiến tranh, tiếng tu hú có thể là tiếng đồng thanh của trời đất, để an ủi những cơn đau khổ của cuộc sống? Việc đưa tiếng tu hú, một âm thanh đặc trưng, đã cho thấy rằng thi sĩ Bằng Việt là một người thơ gắn bó sâu sắc với quê hương. Trong những biến thể của tiếng tu hú, nỗi nhớ của người cháu trở nên mạnh mẽ hơn từng ngày và hình ảnh của người bà hiện lên rõ ràng hơn. Bên cạnh bếp lửa hồng, bà kể chuyện, từ chuyện thực tế đến chuyện cổ tích, rồi dạy cháu, chăm sóc cháu... Từng hành động nhỏ nhẹ, âm thầm của hai bà cháu, ngày qua ngày, tháng qua tháng, tám năm dài nhóm lửa cùng nhau để sưởi ấm và soi sáng tâm hồn. Hình ảnh của bếp lửa và việc nhóm lửa, cùng với hình ảnh của bà, hiện lên và biến mất lặp đi lặp lại, tạo nên một bức tranh rất sâu sắc.
Người cháu trưởng thành, cuộc sống trở nên khó khăn hơn. Nhưng nghị lực của người bà vẫn không bao giờ suy yếu, lòng người bà vẫn lớn lao. Kỷ niệm về bà trong tâm trí người cháu lan tỏa như ánh sáng của bếp lửa. Ý thơ tiếp tục mô tả những sự kiện cụ thể:
Năm giặc tàn phá làng cháy trơ vơ
Hàng xóm lẻ loi trở về khói lửng
Nhưng người bà kiên cường, dựng lại những căn nhà tan hoang, và vẫn dạy cháu tin tưởng:
'Bố ở chiến trường, bố vẫn đang bận rộn,
Mày viết thư nhưng đừng kể những điều này, kể cả những điều khác
Chỉ nói rằng nhà vẫn yên bình!'.
Những dòng thơ này chân thực như cuộc sống chúng ta đang trải qua. Không cần nhiều lời giải thích, chúng ta vẫn cảm nhận được vẻ đẹp tinh thần của một thế hệ Việt Nam trong cuộc chiến tranh vừa qua. Đó là tình đoàn kết trong xóm làng, là sức mạnh của những người mẹ, người bà ở nhà sau hướng ra tiền tuyến, và quan trọng hơn cả, là tình thương bất diệt giữa bà và cháu trong lòng quê hương, đất nước. Từ hình ảnh của bếp lửa, thơ đã biến thành ngọn lửa:
Một ngọn lửa, lòng bà luôn sẵn sàng
Một ngọn lửa chứa niềm tin bền vững
Bếp lửa trong những dòng thơ trên thể hiện cuộc sống bình dị trong căn nhà nhỏ của hai bà cháu. Từ hình ảnh của ngọn lửa đã mở ra những ý nghĩa lớn lao hơn. Đó là sự sống, tình thương và niềm tin của bà trong cuộc sống hàng ngày của họ, và cũng là tình thương và niềm tin của toàn dân tộc trong thời kỳ chiến tranh. Hình ảnh của ngọn lửa sáng lên trong thơ đã làm ấm lòng của người đọc. Ngọn lửa không chỉ là kỷ niệm cá nhân mà còn là biểu tượng của sức mạnh và hy vọng cho cả quốc gia.
Ở phần cuối, kỷ niệm tuổi thơ dần phai nhạt, chuyển từ cảm xúc của đứa trẻ đối với bà sang những suy tư sâu sắc của người trưởng thành về cuộc sống và lòng hiếu khách đối với thế hệ trước:
Quãng đời bà chịu đựng bao nắng mưa
Mấy chục năm trôi qua đến thời điểm hiện tại
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Bếp lửa ấm áp đầy tình thương
Nơi hội tụ niềm yêu thương, mùi khoai lang ngọt bùi
Nơi chia sẻ niềm vui bên nồi xôi gạo mới
Nơi ghi lại những cảm xúc của tuổi thơ
Thật kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa...
Hình ảnh của người bà đong đầy trong những dòng thơ. Từ từng từ 'nhóm' được nhắc lại nhiều lần mang đến nhiều ý nghĩa, làm tăng sự sáng tỏ và tinh tế của bức tranh về bếp lửa và vẻ đẹp thiêng liêng của người bà, từ hình ảnh đến hành động, nhất là tình cảm sâu sắc của bà. Bếp lửa ấy là nơi có ánh lửa sáng và hơi ấm. Nhóm niềm yêu thương là bà truyền cho cháu tình thân thiết và ấm áp. Nhóm nồi xôi gạo mới chia sẻ niềm vui, mở rộng lòng từ bi và sự gắn bó với làng xóm quê hương. Cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy gieo mầm kiến thức và sức sống cho tuổi trẻ, để chúng trở thành người tốt. Bức tranh văn chương dày đặc như sóng, lan tỏa như ngọn lửa ấm, hoặc ở đây, cảm xúc dâng trào, nóng lòng nhân vật người cháu, của nhà thơ? Mỗi câu, mỗi từ đều phát ra ánh sáng, ấm áp biết bao kỷ niệm, tình thương và lòng biết ơn. Đó là tinh thần cốt lõi của dân tộc Việt Nam trong mối quan hệ gia đình, con cái đối với cha mẹ, cháu đối với ông bà và tổ tiên. Đó là đạo lý: Nhớ đến người gieo mầm cây, nhớ đến suối khi ra sông...
Tổng kết qua ký ức và suy tư của người trưởng thành, bài thơ bếp lửa tái hiện lại những kỉ niệm đẹp đầy xúc động về tình cảm bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc của người cháu dành cho bà và quê hương gia đình.
Bài thơ kết hợp một cách tự nhiên giữa biểu cảm, kể chuyện, miêu tả và bình luận. Sự thành công của bài thơ còn phản ánh ở cách sáng tạo hình ảnh về bếp lửa kết hợp với hình ảnh về người bà, gợi lên mọi ký ức và cảm xúc về tình bà cháu.
Thật kỳ lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Hình ảnh đặc sắc của thơ văn, sáng mãi vẫn vang trong lòng chúng ta.
Bài viết số 7 đề 7 - Mẫu 4
Bằng Việt là một nhà thơ thuộc thế hệ đã trưởng thành trong cuộc chiến chống Mĩ. Bài thơ 'Bếp lửa' được ông sáng tác khi mới 19 tuổi, đang du học tại Liên Xô vào năm 1963. Bài thơ này đã tái hiện lại những kỷ niệm đầy xúc động về người bà và tình cảm thân thiết giữa bà và cháu, cũng như thể hiện lòng kính yêu, trân trọng và biết ơn của người cháu dành cho bà, gia đình, quê hương và đất nước.
Tình cảm và ký ức về người bà được gợi lên từ hình ảnh của bếp lửa. Ở một vùng đất xa quê, khi bắt gặp hình ảnh bếp lửa, tác giả bỗng nhớ đến người bà:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấm áp, đong đầy tình thương
Cháu thương bà biết bấy nhiêu nắng mưa.
Hình ảnh 'chờn vờn' làm cho những ký ức hiện về trong tác giả trở nên rõ ràng như khói bếp. Bếp lửa, được thắp lên, chiếu sáng mọi thứ và làm ấm lòng đứa cháu thơ ngây. Nó cũng là biểu tượng của cuộc đời bà đã trải qua 'biết mấy nắng mưa'. Từ đó, hình ảnh người bà hiện lên. Dù đã ở xa hàng dặm, nhưng Bằng Việt vẫn cảm nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc từ bà. Trong khoảnh khắc đó, lòng nhà thơ lại trào dâng với tình yêu thương vô hạn dành cho bà. Mối quan hệ thiêng liêng giữa bà và cháu như một con sông chở đầy những kỷ niệm không bao giờ phai mờ. Tình cảm và ánh sáng của tình bà cháu lan tỏa khắp bài thơ. Mùi khói mang đến sự ấm áp và xua tan nỗi đau trong tâm hồn trẻ thơ. Dù thời gian trôi đi, những ký ức đó vẫn sẽ in sâu trong lòng đứa cháu, khiến cho mỗi khi nhớ lại là 'mũi còn cay'. Đó có phải là mùi khói làm cay mắt hay tấm lòng của người bà khiến cho đứa cháu không cầm được nước mắt? Cùng nhau, cháu và bà nhóm lửa, thắp lên ngọn lửa của tình thương và sự sống. Hình ảnh bếp lửa quê hương đã gợi lại những ký ức, những hồi ức trong tâm trí thi sĩ từ thuở nhỏ.
Hình ảnh ngọn lửa trong câu thơ truyền tải sức mạnh mãnh liệt. Ngọn lửa là biểu tượng của tình thương, của niềm tin, là nguồn sáng soi đường cho con đường của đứa cháu. Bà luôn nhắc nhở cháu rằng: Nơi có lửa, bà sẽ ở đó, luôn bên cạnh cháu. Cùng với ngọn lửa ấy, bà đã truyền cho cháu tình thương gia đình và nhắc nhở cháu không quên những năm tháng đầy ý nghĩa và khó khăn. Cháu không bao giờ quên, vì đó chính là nơi cháu đã được nuôi dưỡng và lớn lên.
Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt mang lại cảm giác ấm áp cho người đọc. Bếp lửa của nhà thơ là biểu tượng của tình thương, niềm tin và sức mạnh, là nguồn động viên trên hành trình của cuộc đời. Bài thơ gợi lên tình cảm thân thiết giữa bà cháu trong ánh lửa ấm áp. Bếp lửa của Bằng Việt gợi nhớ về những kỷ niệm của mỗi người, những nơi quen thuộc và người thân yêu, làm cho tình yêu của chúng ta trở nên kỳ diệu hơn.
Những kỷ niệm ấy hiện lên sâu trong tâm trí với hình ảnh của người bà. Tác giả mong ước sẽ quay trở lại những ngày ấm áp đó, và những kỷ niệm đó làm cho trái tim tác giả đầy hạnh phúc. Những cảm xúc và sự hiểu biết sâu sắc về tình yêu thương và hạnh phúc được ghi sâu trong tâm trí, là niềm vui và nỗi nhớ sâu sắc đã gắn bó với tác giả từ thuở nhỏ.
Hình ảnh của bếp lửa thể hiện sự gắn bó giữa người cháu và người bà, tình thương đó ngày càng trở nên sâu sắc và hiện lên trong những kỷ niệm đậm đà về những người bà. Hình ảnh đó là biểu tượng của sự nhớ thương và mong chờ không ngừng.
Bài viết số 7 đề 7 - Mẫu 5
Quê hương - hai từ thiêng liêng với mỗi con người, ai cũng mang trong lòng một tình yêu riêng biệt. Những cảm xúc ấy tươi đẹp và đáng quý. Dù ở bất cứ nơi đâu trên thế gian, người ta vẫn luôn nhớ về quê hương - nơi gói gọn kí ức tuổi thơ.
Trong trái tim mỗi người, cất giữ những tiếng hát, hình ảnh của quê hương, những kỷ niệm đáng quý và đặc biệt là âm thanh ru nhẹ nhàng, êm đềm của mẹ, mái tóc bạc trắng của bà - người đã dành cả cuộc đời để chăm sóc, dạy dỗ chúng ta lớn lên.
Bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt đã làm mới lại những kỷ niệm tuổi thơ trong lòng triệu con người. Những tình cảm đẹp đẽ đó được diễn đạt một cách thơ mộng…
Bếp lửa là biểu tượng của tấm lòng chân thành, nhạy cảm và phong phú của một tâm hồn sâu lắng và tinh tế. Trong kí ức của nhà thơ, hình ảnh người bà luôn kết hợp với bếp lửa. Vì cha mẹ phải đi chiến đấu, Bằng Việt đã sống cùng bà trong tuổi thơ. Mỗi ngày bắt đầu từ ngọn lửa mà bà đã thắp sáng. Cuộc sống của cháu đã được nuôi dưỡng và bảo vệ bởi ngọn lửa ấy. Ở mọi nơi, ngọn lửa là nguồn gốc của sự sống, bếp lửa nào cũng mang theo nỗi lao động, tâm huyết, bếp lửa nào cũng đong đầy, ấm áp.
Trong tâm hồn của tác giả, hình ảnh 'một bếp lửa ấp iu nồng đượm' luôn hiện diện, yên bình và sâu lắng; hình ảnh của người bà luôn kết hợp với hình ảnh của bếp lửa, gắn liền với việc chăm sóc cho đứa cháu luôn vắng cha mẹ.
'Một bếp lửa' chạm đến tận đáy lòng kí ức của mỗi người về hơi ấm gia đình, đặc biệt là khi xa nhà sống ở một vùng đất xa lạ; và câu nói này thường được dùng để diễn đạt cảm xúc đang tràn ngập cùng với kí ức, hồi tưởng. Bếp lửa hiện lên mạnh mẽ trong tình cảm, đong đầy trong cảm xúc.
Toàn bài thơ phản ánh sự đau xót, nhớ nhung sâu sắc như muốn tràn ngập và chiếm lĩnh tất cả. Mỗi kỷ niệm được kích thích làm sống dậy bao cảm xúc. Mỗi kỷ niệm được bao bọc bởi nỗi nhớ thương vừa tràn ngập vừa sâu lắng. Toàn bài là một dòng chảy của tâm trạng, một dòng của hồi ức. Suốt mấy chục năm, mọi sự cứ xoay quanh hình ảnh của bếp lửa của bà. Lửa là ánh sáng, lửa là sự ấm áp. Bếp lửa lặng lẽ nuôi dưỡng mọi gia đình, nuôi dưỡng cả cuộc sống này. Tại sao không nhớ về bếp lửa? Khi nó gần gũi, khiêm nhường hơn bao giờ hết? Nhưng cũng cao quý và thiêng liêng hơn bao giờ hết? Nhớ về bếp lửa là nhớ về bà.
Bằng Việt đã làm sống lại tất cả những bếp lửa 'ấp iu nồng đượm' trong kí ức của mỗi người. Và mối tình bà cháu đẹp như trong truyện cổ tích của nhà thơ cũng như trong ký ức của chúng ta. Trong thơ ca, có gì mà đáng xúc động hơn mối tình bà cháu? Mối tình ấy là dòng sông êm đềm và thanh bình, dòng sông mang đầy kí ức. Một bếp lửa và một lớp sương sớm. Những kí ức trôi theo như một giai điệu êm đềm, triền miên như nỗi nhớ lan toả trong từng chữ, từng cảm xúc, từng kí ức và từng hồn người, tình người lan tỏa vào cảnh vật, ấm áp trong tình yêu quê hương.
Ôi kì lạ và thiêng liêng - bếp lửa!
Đó là lời thốt lên từ lòng biết ơn, lòng trân trọng khi nhận ra rằng trong một vật đơn sơ, lại ẩn chứa bao điều kỳ diệu. Hình ảnh của bếp lửa vẫn rực cháy trong ký ức của tình bà cháu. Cháu bắt đầu quen với mùi khói từ khi mới bốn tuổi, thời kỳ đó cũng là thời kỳ đói khổ, chiến tranh gay gắt. Do đó, mùi khói từ những năm tháng ấy vẫn còn đọng lại trong kí ức, không thể phai nhạt. 'Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói'... Đoạn thơ cảm động, ngay cả khi ngọn lửa tàn ác của quân giặc đang thiêu đốt làng xóm, thì chính ngọn lửa ấm áp, ân cần của bà vẫn đang mang lại sự sống. Bà đã chịu đựng mọi khó khăn, hy sinh, mất mát. Vì thế, những gì bị thiêu cháy trong ngọn lửa dữ dội kia, kỳ lạ thay, đang hồi sinh trong ngọn lửa của tình yêu của bà. Ngọn lửa ấy, bếp lửa ấy đã sưởi ấm và soi sáng tâm hồn đứa cháu ngây thơ từ khi mới lên bốn tuổi. Kỳ lạ và thiêng liêng nhất là tình yêu quê hương, xuất phát từ sự gắn bó với những thứ đơn giản, bình dị, gần gũi nhất. Tình yêu bà cháu, kết nối với lòng yêu nước, thật thiêng liêng, thượng đẳng. Cháu lớn lên trong lòng yêu thương vô hạn của bà, trong đôi bàn tay nâng niu và nuôi dưỡng của bà. Ngọn lửa mà bà đã thắp từ 'bếp lửa' ấy đã sưởi ấm và chiếu sáng cuộc đời của cháu.
Và đứa cháu hiếu thảo đã trưởng thành, đã đi xa nơi bếp lửa của bà, đã biết đến khói của nhiều miền, đã tận hưởng niềm vui với lửa của nhiều nhà. Nhưng trong lòng cháu chỉ nhớ về khói đã làm ướt đẫm mắt cháu, chỉ nhớ về lửa ấm, ân cần nhen nhóm nơi góc bếp của bà. Cháu không bao giờ quên 'bếp lửa', bởi đó là nguồn gốc, bởi cuộc sống của cháu đã được thắp lên từ ngọn lửa ấy. Ngọn lửa của bà đã cháy trong tâm hồn cháu, tạo ra một bếp lửa mới cho cuộc sống tiếp tục truyền đi, bất diệt!
'Bếp lửa' là một bài thơ cảm động, tràn ngập tình cảm, đã chọn lựa một giọng điệu, một nhịp điệu thích hợp. Đó là giọng nồng nàn của lửa, là nhịp bật tung của lửa, giọng kể chuyện đầy cảm xúc, dâng trào mỗi ngày, ấm áp…
Bằng Việt đã tài tình chọn lựa và sắp xếp để hình ảnh của người và bà bếp lửa luôn đồng điệu. Đọc 'Bếp lửa', ta không chỉ nhận thấy một dòng tâm sự sâu sắc, dồn dập mà còn thấy sự ca ngợi một điều rất giản dị: 'Tình yêu quê hương xuất phát từ những thứ gần gũi, thân thương với mỗi con người'.
Bài viết số 7 đề 7 - Mẫu 6
Mỗi người đều có một quá khứ gắn liền với gia đình, tuổi thơ của họ có thể là những khoảnh khắc hạnh phúc, trong sáng hoặc cảm xúc đầy bi thương, khốn khổ... Nhưng những kí ức về tuổi thơ luôn sâu đậm trong lòng mỗi người, không thể nào quên được. Chúng đi theo ta suốt cuộc đời, chiếm trọn trong tâm trí và tồn tại mãi mãi trong tim... Dù tuổi thơ có ngọt ngào hay đắng cay, vẫn có người hoặc nhiều người đã ủng hộ, chăm sóc chúng ta,... để lại những dấu ấn sống mãi theo thời gian, qua nhiều năm tháng.... Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ như vậy... Một tuổi thơ khốn khổ, cô đơn nhưng cũng đầy đủ, ấm áp và hạnh phúc vô cùng! Đầy đủ, tràn ngập tình thương của bà, ấm áp nhờ sự quan tâm, chăm sóc, bảo vệ của bà trong những ngày xa bố mẹ và hạnh phúc bởi... có bà! Ông đã sáng tác bài thơ “Bếp lửa” khi đang là một du học sinh ở Liên Xô, trong một ngày mùa đông lạnh giá không có bà ở bên cạnh, ông tìm về ký ức về tuổi thơ được sống cùng bà, theo dòng thời gian bên bếp lửa đang ấm áp tình thương, theo nhịp đập của một trái tim nhớ nhung da diết…”Bếp lửa” không chỉ làm ấm tình cảm bà cháu mà còn sưởi ấm cả cuộc đời…”Bếp lửa” chính là bà đang bên cháu, hình ảnh của bà hiện về lung linh qua ánh lửa “chờn vờn”, “chờn vờn”, phải không bà ơi…?
Bà đang đốt lửa trong những dòng thơ đầu của cháu…
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ngay từ ba câu thơ đầu tiên, điệp ngữ “một bếp lửa” đã kết hợp với những từ ngữ mềm mại… gợi cảm giác ấm áp với tình cảm sâu nặng. Trong câu thơ đầu tiên, bếp lửa với những ngọn lửa ấm áp “chờn vờn” sưởi ấm cả căn nhà vào lúc bình minh dễ chịu mà sương sớm buốt giá một mùa đông khi hai bà cháu sống cùng nhau. Bếp lửa là hình ảnh đầu tiên mà cháu nhớ lại khi hồi tưởng về quá khứ. Bởi vì có hình bóng bà luôn gắn bó với bếp lửa “rồi sớm rồi chiều” bà nhen hay bếp lửa ấy cũng ấm như trái tim của bà dành cho cháu, ấm như tình cảm gia đình, hơi ấm của bếp lửa cũng chính là của bà đang sưởi ấm trái tim của cháu, lan tỏa cả căn nhà chỉ có hai người vốn lạnh lẽo, trống vắng, xua đi nỗi cô đơn, buồn rầu của hai bà cháu hay là ấm cả mùa đông buốt giá “sương sớm” bên ngoài…? ” Ấp iu”- gợi một bàn tay nhẹ nhàng lên ngọn lửa vừa đủ ấm một cách khéo léo, ân cần. Chính vì vậy, dù trong hai câu thơ đầu tiên, bà không hiện diện trực tiếp, nhưng hình ảnh của bà đã rõ ràng hiện lên. Bà đang ngồi bên bếp lửa để nhen lên ngọn lửa “chờn vờn”, “ấp iu nồng đượm” tình thương vô bờ bến mà bà dành cho cháu. Đến khi đến câu thơ thứ hai, cháu thốt lên theo dòng cảm xúc xót xa “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa” trong trái tim của cháu nhớ về cuộc đời đầy khó khăn, vất vả của người bà! Chỉ một từ “thương” đã đủ để truyền đạt ý thơ cho cả câu chuyện. Cháu biết và cháu thương rất nhiều những cố gắng, nỗ lực, nghị lực, “nắng mưa”, gian khó, thử thách trong cuộc đời của bà! Cháu hiểu và cảm nhận rất rõ những hy sinh, sự dũng cảm của cuộc sống của bà! Tình thương là một loại muối mặn của tình người, là chất kết dính của mối quan hệ. Chữ “thương” thường xuất hiện nhiều trong thơ ca trữ tình và đặc biệt là trong những tác phẩm nói về tình yêu thương con người. Đối tượng của tình thương là trái tim ẩn sâu và như vậy, một từ “thương” đã đủ để thể hiện được biết bao cảm xúc đang sống dậy trong trái tim cháu, một nỗi nhớ thương cháy bỏng, da diết, mãnh liệt và mong muốn được trở về tuổi thơ bên bà, ngồi cạnh bà dưới ánh lửa ấm của bếp lửa và “nồng đượm” tình thương… Hình ảnh của bà “biết mấy nắng mưa” dần rõ, tỏa sáng với những hy sinh âm thầm, lặng lẽ. Từ ký ức dần trở về dưới những dòng thơ của tác giả, hiện lên theo những ánh lửa kỉ niệm bùng cháy, trở về quá khứ…:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói kém đói khổ
Bố đi làm, khô rạc, ngựa gầy
Chỉ nhớ khói làm mắt cháu ướt
Nghĩ lại đến giờ sống, mũi còn cay”
Những kỷ niệm từ khi cháu bốn tuổi, mùi khói và cảm giác đói khổ vẫn còn ám ảnh mãi. Những năm tháng đói khốn, cháu cảm nhận được mùi khói từ khi mới lên bốn tuổi, đó là năm 1945, thời kỳ đói kém kinh khủng, ghê rợn và kéo dài, “đói mòn đói mỏi”. Từ “mòn mỏi” đã tách ra thành hai từ đau đớn, thấu vào tâm trí đứa cháu là sự ám ảnh không thể quên được - cảm giác đói kéo dài làm con người mệt mỏi, kiệt sức dần, như thể từ từ giết chết người. Cả xã hội lúc bấy giờ bao trùm bởi cảm giác đói khủng khiếp, đó là cái đói lịch sử của dân tộc ta khiến hơn hai triệu người phải chết! Trong kí ức của cháu, đến bây giờ vẫn còn đọng lại mùi khói đó, kinh khủng không lời! Hơn hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả, như thể mới “hun nhèm” xong! Ký ức tràn về, đọng lại trong lòng, trong tâm trí, và cay cay mùi khói của quá khứ. Cay vì khói, vì cái đói làm cho những giọt nước mắt của đứa trẻ thơ dại cay xè đi trong cảm giác “đói mòn đói mỏi” ăn sâu vào từng tế bào, dấy lên trong cổ họng và dường như cả cơ thể đều khao khát thức ăn, củ khoai, củ sắn, hay là giọt nước mắt mừng rỡ, sung sướng, hạnh phúc đến tận cùng khi sắp được ăn no, bù lấp phần nào cảm giác đói dai dẳng, lúc bà lặng lẽ nhóm bếp lửa, tức là cháu sắp được ăn rồi đấy! Trong tâm trí bé nhỏ của đứa trẻ lên bốn tuổi, dù đồ ăn không ngon, nhưng lúc ấy đó là một thứ “sơn hào hải vị” không gì sánh kịp, một trải nghiệm lớn lao, vĩ đại!
“…Cái năm đói, củ rong riềng luộc sượng
Cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm”
(Đò Lèn-Nguyễn Duy)
Chỉ cần như vậy thôi, cũng đủ ấm lòng cháu và trở thành một kỷ niệm không thể phai nhạt trong cuộc đời cháu! Cảm giác “cay” đó còn là một phần của đau đớn từ những năm đói khổ không chỉ của cháu và hai bà tác giả mà còn của nhiều người khác! Người ta còn không có ăn, nói chi “người gầy” “khô rạc” là điều hiển nhiên! Theo tâm sự của tác giả, lúc đó, để kiếm thêm tiền nuôi gia đình, bố tác giả đã phải đi đánh xe chạy từ Phùng (Đan Phượng, Hà Tây) đi Hà Nội. Đó cũng là một kỷ niệm không thể quên của cháu, trở thành một trong những điều ám ảnh suốt cuộc đời cháu mãi không thể quên! Đau thương không nhắc đến bà, nhưng bà vẫn đẹp và lặng lẽ thế! Bà chở che cho cháu và cả gia đình, là cây cao bóng cả suốt những ngày đói khổ, những cơn bão ập đến dữ dội và dai dẳng… Bà nhỏ bé mà vĩ đại, lớn lao như thế đấy… Trong lòng cháu…!
Ở đây, dòng cảm xúc hòa vào dòng thơ tự sự, tưới đẫm chất trữ tình cho giọng thơ, giúp hình ảnh của bà trong bài thơ hiện ra rõ ràng hơn và đẹp đẽ hơn:
“Trải qua tám năm, cháu cùng bà nhóm lửa
Nghe tiếng tu hú từ những cánh đồng xa xăm
Khi tiếng tu hú vang lên, bà còn nhớ không?
Bà thường kể chuyện về những ngày ở Huế
Tiếng tu hú tại sao lại tha thiết đến vậy”
“Tám năm ròng” chỉ nghe thôi đã cảm nhận được những khó khăn, vất vả cùng với nỗi sợ hãi và niềm nhớ mong, đeo bám chặt lấy hai bà cháu! Nhưng trong suốt tám năm đó, “cháu cùng bà nhóm lửa”, vẫn đốt lên ngọn lửa của sự sống, của tình yêu rực cháy trong trái tim một đứa trẻ ngây thơ, trong sáng đã tám tuổi. Chính hình ảnh của bếp lửa quê hương, bếp lửa của tình thân bà cháu đó đã gợi lên một ký ức khác, một hồi ức khác trong tâm trí của thi sĩ thuở nhỏ.
Đó là tiếng chim tu hú. Âm thanh ấy sao mà đau lòng, cảm động và buồn thương thế! Nó vang lên dài dằng dặc suốt cả bài thơ, là âm thanh của quá khứ dội về hiện tại, làm cho kỷ niệm sống dậy trong tâm hồn cháu. Ôi những kỷ niệm ấy, có cả ngọt ngào và đắng cay, cô đơn và hạnh phúc! Việc lặp lại từ “tu hú” ba lần đã làm cho tiết điệu câu thơ trở nên xúc động hơn, làm cho người đọc cảm nhận như tiếng tu hú đang vang vọng từ xa trong tiềm thức của tác giả. Tiếng “tu hú” lúc mơ màng, lúc vọng về từ những cánh đồng xa xăm, lấp lánh trong lòng người cháu xa xứ. Trong văn học và nghệ thuật, tiếng chim tu hú là biểu tượng của một sự nhớ nhung cay đắng không nguôi. Trong thực tế, chim tu hú lại là một loài chim bất hạnh, không biết xây tổ và ấp trứng.
Hạnh phúc, dù nhỏ bé nhưng lại thiêng liêng và lớn lao nhất trong cuộc đời mỗi người, đó là hạnh phúc của gia đình, là khoảnh khắc vô cùng sung sướng khi thấy đứa con - hình bóng yêu thương nhất - món quà quý giá mà cuộc đời ban tặng, khi nghe thấy tiếng khóc chào đời, là sự mãn nguyện nhất khi có được một tổ ấm, một nơi che chở vững chãi nhất trong những thời khắc khó khăn, yếu lòng, sau mỗi trận gập ghềnh của cuộc sống - con người tìm về để được an ủi, sẻ chia một cách chân thành! Tuy vậy, loài chim tu hú không có được hạnh phúc lớn lao, thiêng liêng như vậy, đẹp đẽ nhất trong cuộc sống ấy! Tiếng kêu của chúng trở nên đắng cay, mòn mỏi, mong đợi, khao khát điều gì đó tha thiết lắm… Ta đã từng nghe thấy tiếng kêu ấy trong “Khi con tu hú” của Tố Hữu, khiến lòng người xúc động mãnh liệt, bùng cháy mạnh mẽ nơi tâm hồn người tù cách mạng, khiến anh phải thốt lên:
“Ta nghe hè dậy trong lòng bồn chồn
Chân muốn đạp tan phòng, hè ơi!
Ngột ngạt, chết uất mà thôi!
Con chim tu hú ngoài trời vẫn kêu ca”
Tiếng kêu khao khát và khắc khoải đó cũng hiện hữu trong kí ức về quê hương và người cha già đơn độc, lẻ loi trong lòng cô gái trẻ - như trong bài thơ “Tiếng chim tu hú” của Anh Thơ:
“Rồi tiếng chim tu hú
Vang mãi trong những mùa hè
Con dài cô đơn nhớ nhung
Mười năm chưa về với quê hương!”
Trong “Bếp lửa”, tiếng chim tu hú đầy khắc khoải làm cho dòng kí ức của cháu dày thêm, mở rộng và sâu sắc hơn trong không gian cô đơn của nỗi nhớ… Khi chim tu hú kêu, cũng là lúc “Bà thường kể chuyện những ngày ở Huế”. Những câu chuyện ấy, dài nhưng hay, cảm động, và được kể bằng giọng ấm áp, chậm rãi, tràn đầy cảm xúc và tình thương của bà. Có lẽ đó là những ngày hạnh phúc khi gia đình còn ở Huế, những kí ức sâu sắc và suy tư của bà… Cũng có thể là nhiều câu chuyện khác,… như những câu chuyện mà bà thường kể “ngày xưa ở Huế”! Có đúng vậy không? Có nhiều lắm! Trong kho tàng ấy, có thể, tuổi thơ của cháu đã đượm vị ngọt ngào của truyền thống! Cháu đã nhảy mình vào thế giới có cô Tấm hiền lành, chàng Thạch Sanh dũng cảm, mẹ con nhà Cám tàn ác, mẹ con Lý Thông ranh mãnh,… có thiện và ác. Và trên hết, thiện luôn chiến thắng ác! Nhớ về tuổi thơ, người ta luôn nghĩ đến những câu chuyện cổ tích mà bà và mẹ thường kể cho con, sau đó truyền đạt bài học hay, lẽ phải từ những câu chuyện ấy! Những câu chuyện cổ tích mà bà kể cho cháu nghe cũng như vậy! Đơn giản, dễ hiểu, nhưng sâu sắc, đầy tình… Bà đã truyền dạy và nuôi dưỡng trong tâm trí, trong trái tim của cháu từ khi còn thơ bé một hạt giống tươi mới, đẹp đẽ, sáng bừng, là nền tảng để phát triển thành những thân, nhánh, hoa, lá, quả… sau này!
....