Những câu chuyện về nữ anh hùng và phụ nữ có tài xuất sắc nhất, giúp học sinh lớp 5 hiểu rõ công lao của những người phụ nữ nổi tiếng như Hai Bà Trưng, Võ Thị Sáu, Võ Thị Thắm, Nguyễn Thị Định, Bùi Thị Xuân,... trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Đồng thời, các em cũng có cơ hội rèn luyện kỹ năng kể chuyện qua bài tập Kể chuyện đã nghe, đã đọc tuần 30 - SGK Tiếng Việt 5 tập 2 trang 120. Hãy tham khảo bài viết dưới đây của Mytour:
Đề bài: Kể một câu chuyện em đã nghe hoặc đã đọc về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Kể chuyện đã nghe, đã đọc tuần 30 - SGK Tiếng Việt 5 tập 2 trang 120.
Mô tả về những nữ anh hùng mà các em biết tốt nhất
- Kể về Bà Triệu - Nữ anh hùng mạnh mẽ
- Kể về cặp nữ anh hùng Trưng Trắc - Trưng Nhị (2 mẫu)
- Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Định (2 mẫu)
- Kể về nữ anh hùng Võ Thị Thắm
- Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Chiên
- Kể về nữ anh hùng Võ Thị Sáu (6 mẫu)
- Kể về nữ anh hùng Hai Bà Trưng (6 mẫu)
- Kể về nữ anh hùng Bùi Thị Xuân
- Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai (2 mẫu)
- Kể về nữ anh hùng Lê Chân
- Kể về Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ
Tả về Bà Triệu - Nữ anh hùng mạnh mẽ
Khi nói về những phụ nữ anh hùng trong lịch sử, nhiều người thường nhắc đến Hai Bà Trưng. Tuy nhiên, trong trái tim của em, người phụ nữ anh hùng được tôn vinh nhất chính là Bà Triệu - Triệu Thị Trinh.
Bà Triệu Thị Trinh, hay còn được biết đến với tên gọi là Triệu Trinh Nương, sinh vào ngày 02 tháng 10 năm 226 tại vùng núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay là huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Ngay từ khi còn nhỏ, bà đã thể hiện sức mạnh, trí tuệ và tài năng đặc biệt. Đến khi trưởng thành, cùng với anh là Triệu Quốc Đạt, bà đã tập hợp một đội quân dũng mãnh, khí phách để khởi nghĩa chống lại bách hại ở Quan Yên, thu hút sự tham gia của người dân địa phương. Từ vùng đất Quan Yên, Bà Triệu cùng quân sĩ của mình vượt qua sông Chu, tiến vào vùng ngàn Nưa, sau đó vượt qua sông Mã để đến Bồ Điền. Quân đội của bà nhanh chóng chiếm được các thành phố, làng mạc ở quận Cửu Chân và một số khu vực ở quận Giao Chỉ. Cuộc khởi nghĩa của bà đã lan rộng như một cơn gió bão và gây ra cơn sốt ở Giao Châu vào thời điểm đó.
Năm 248, Ngô Triều sai Lục Dận dẫn tám ngàn quân kỵ binh tiến hành đàn áp cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu. Với sức mạnh của mình, quân nghĩa quân trẻ tuổi không thể đối đầu với đạo quân lớn hơn, mạnh hơn nhiều. Trong một trận chiến đẫm máu, trước sự mạnh mẽ và mưu mô tàn ác của kẻ thù, Bà Triệu đã hy sinh tại núi Tùng, xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc vào năm 248, khi chỉ mới 22 tuổi.
Bà Triệu là một hình mẫu của nữ anh hùng thật sự trong lịch sử nước ta, với lòng dũng cảm và ý chí kiên cường. Học theo Bà, em sẽ cố gắng học tập chăm chỉ để sau này có thể đóng góp vào việc xây dựng một đất nước mạnh mẽ hơn.
Kể về Trưng Trắc - Trưng Nhị
Bài văn mẫu số 1
Ngày xưa, dưới thời quân Hán thống trị, dân ta phải chịu đựng sự tàn ác và bạo lực của chúng, bị cướp bóc và hành hạ.
Tại huyện Mê Linh, có hai cô gái tài năng: chị là Trưng Trắc và em là Trưng Nhị. Cả hai đều giỏi võ công và dũng mãnh, quyết tâm bảo vệ đất nước. Trưng Trắc kết hôn với Thi Sách, một người dũng sĩ cùng tinh thần cao đẹp. Tướng giặc Tô Định, biết rằng Thi Sách là thù địch của mình, đã âm mưu ám sát anh. Bị đe dọa bởi kẻ thù, Hai Bà Trưng không chịu khuất phục, họ dựng cờ khởi nghĩa. Mỗi bước đi của quân nghĩa quân làm giảm sức mạnh của giặc. Với quân đội hùng mạnh, Hai Bà giải phóng thành Luy Lâu và đánh bại quân giặc, đẩy Tô Định phải chạy trốn về nước. Hai Bà Trưng trở thành Nữ Vương xứ núi Hát Giang.
Năm 43, quân giặc sai Mã Viện, một tướng lão luyện, để đàn áp cuộc khởi nghĩa. Dẫn đầu quân ta, Hai Bà dũng cảm chiến đấu, nhưng sức mạnh quá lớn, họ buộc phải rút lui và hy sinh tại sông Hát Giang. Dân ta lại phải chịu đựng sự cưỡng bức từ quân giặc. Dù vậy, tinh thần kiên cường của Hai Bà Trưng vẫn được dân tộc ghi nhận.
Bài văn mẫu số 2
Trong lịch sử giữ nước của dân tộc Việt Nam, có nhiều anh hùng dũng cảm đã hi sinh để bảo vệ đất nước. Trong số những anh hùng đó, Hai Bà Trưng là người mà em luôn ngưỡng mộ và yêu mến. Hai Bà Trưng là biểu tượng của sự dũng cảm, khiến kẻ thù phải khiếp sợ.
Sau khi giành được vùng đất Mê Linh ở tỉnh Vĩnh Phúc, Bà Trưng Trắc lên làm vua với danh hiệu Trưng Vương. Bà tiếp tục truyền thống vĩ đại của các vị vua Hùng, bảo vệ lãnh thổ quê hương.
Tuy nhiên, không lâu sau đó, quân xâm lược trở lại với ý đồ thôn tính nước ta một lần nữa. Hai Bà Trưng kiên quyết chống lại bằng tinh thần mạnh mẽ, nhưng do quân địch quá đông đảo và mạnh mẽ, họ đã thất bại và hy sinh tại sông Hát Giang. Tinh thần chiến đấu kiên cường của hai bà vẫn sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam.
Mặc dù cuộc chiến của Hai Bà Trưng kết thúc trong thất bại, nhưng nó đã để lại dấu ấn to lớn. Tên tuổi của hai bà đã được ghi vào lịch sử là hai vị nữ tướng lãnh đầu tiên của dân tộc Việt Nam. Trong một xã hội nơi nam giới được coi trọng hơn phụ nữ, Hai Bà Trưng đã chứng minh bản thân không kém cạnh các nam anh hùng, khi họ đến, phụ nữ cũng phải chiến đấu.
Hậu duệ ngày nay luôn nhớ về công lao to lớn của Hai Bà Trưng. Phụ nữ Việt Nam luôn là biểu tượng của sự mạnh mẽ và dũng cảm, là nguồn động viên cho chúng ta tiếp tục phấn đấu.
Kể về nữ anh hùng Nguyễn Thị Định
Bài văn mẫu số 1
Một nữ anh hùng của Việt Nam mà tôi luôn kính trọng và tự hào chính là nữ tướng Nguyễn Thị Định.
Bà là một nữ anh hùng xuất thân từ Bến Tre. Từ khi mới 16 tuổi, bà đã bắt đầu tham gia vào hoạt động cách mạng. Bà tham gia hoạt động tích cực trong nhiều nhiệm vụ, như giao liên, phân phát đơn và kêu gọi nhân dân tham gia cuộc đấu tranh. Hai năm sau, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Năm 1940, bà và chồng bị bắt. Chồng bà bị bắn chết. Bà bị giam giữ nhưng vẫn không mất đi ý chí chiến đấu. Khi được phóng thích, bà tiếp tục tham gia vào hoạt động cách mạng, thậm chí nguy hiểm hơn. Bà tham gia vào việc vận chuyển 12 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam qua biển, mở ra con đường biển huyền thoại Hồ Chí Minh. Sau đó, bà còn tham gia vào phong trào Đồng Khởi, mở đầu cho cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang ở miền Nam. Bà đã có nhiều đóng góp quan trọng khác, giúp thống nhất đất nước. Vì những công lao đó, bà trở thành nữ tướng duy nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX.
Bà Nguyễn Thị Định là một biểu tượng của tinh thần yêu nước và sự dũng cảm, là nguồn động viên cho thế hệ phụ nữ tiếp theo của Việt Nam.
Bài văn mẫu số 2
Bác Hồ đã nói: “Khi giặc đến nhà, phụ nữ cũng đánh”. Trong những năm chiến tranh, nhân dân Việt Nam không phân biệt tuổi tác, giới tính, tất cả đều tham gia vào cuộc đấu tranh chống giặc. Trong số đó, không thể không kể đến bà Nguyễn Thị Định - nữ tướng duy nhất của Việt Nam trong thế kỷ XX.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh năm 1920, là cô út trong một gia đình đông con ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Người dân Bến Tre thường gọi bà với biệt danh thân mật “cô Ba Định”. Lúc 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia phong trào cách mạng, giao phó nhiệm vụ liên lạc, phổ biến tư tưởng cách mạng và kêu gọi nhân dân tham gia cuộc đấu tranh. Hai năm sau khi tham gia phong trào, bà được mời gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian này, bà kết hôn với ông Nguyễn Văn Bích, một viên chức cấp cao ở tỉnh Bến Tre. Năm 1940, cả hai bị quân Pháp bắt giữ, ông Bích bị đày ra Côn Đảo và sau đó bị giết, còn bà bị giam giữ tại nhà tù Bà Rá, nay là tỉnh Bình Phước. Cho đến năm 1943, bà mới được phóng thích và trở về quê hương.
Sau khi trở về, bà tiếp tục nỗ lực, gan dạ tham gia vào các hoạt động cách mạng. Tháng 4 năm 1946, bà được cử ra Bắc để báo cáo với Bác Hồ về tình hình tại miền Nam. Sau đó, bà được Đảng tin tưởng, giao nhiệm vụ chuyên mật vận chuyển 12 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển, khởi đầu cho hành trình huyền thoại: đường Hồ Chí Minh qua biển. Từ năm 1954 đến năm 1959, bà được giao nhiệm vụ làm Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, vì thế bị chính quyền của Ngô Đình Diệm săn lùng. Năm 1960, bà được bầu làm Phó Bí thư và sau đó là Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre, cùng với những người đồng lòng khởi xướng phong trào Đồng Khởi, mở ra trang sử cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang khắp miền Nam. Trong giai đoạn 1965 - 1974, bà được bầu làm Phó Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Tháng 4 - 1974, bà được thăng quân hàm Thiếu tướng, trở thành nữ tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định đã sống một cuộc đời trọn vẹn với đất nước, với những khó khăn, thử thách. Dù trải qua biết bao mất mát, nhưng bà luôn vượt qua, sống trọn vẹn với tình yêu đồng đội và tình thương nhân dân, hy sinh hạnh phúc cá nhân để mang lại hạnh phúc cho mọi người.
Nói về nữ anh hùng Võ Thị Thắm
Trong thời kỳ chiến tranh, sinh viên cũng là một lực lượng quan trọng, nhiệt tình tham gia cuộc chiến cho sự độc lập của tổ quốc. Trong số họ, không thể không nhắc đến sinh viên Võ Thị Thắm.
Chị sinh ra và lớn lên tại Long An, một vùng đất nổi tiếng với tinh thần trung dũng, kiên cường, và lòng yêu nước sâu sắc. Ngay từ khi còn nhỏ, chị đã tích cực tham gia vào các hoạt động cứu nước. Lúc 9 tuổi, chị đã đi gửi thư, mang cơm đến cho các chiến sĩ cách mạng được cha mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng trong những hầm bí mật. Khi 16 tuổi, chị gia nhập Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức – Long An. Khi 17 tuổi, chị được gửi về Sài Gòn hoạt động bí mật trong Phong trào Thanh niên – Sinh viên – Học sinh, sau đó tham gia vào Phong trào Công nhân và lực lượng vũ trang trong thành phố.
Trong chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân 1968, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, chị bị bắt giữ bởi quân giặc. Chị phải chịu giam giữ và bị tra tấn, đày đọa trong suốt sáu năm. Tuy nhiên, tinh thần yêu nước của chị vẫn không chùn bước. Cho đến khi Hiệp định Paris được ký kết, chị cùng các đồng đội mới được thả ra.
Sau này, khi hòa bình trở lại, chị tiếp tục đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Chị được giao công tác tại Thành đoàn và Hội Liên hiệp phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh, sau đó được bổ nhiệm làm Phó Chủ tịch thường trực Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam. Sau đó, chị được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng ở các kỳ họp khóa VIII và IX. Chị đã tham gia Quốc hội ở các kỳ họp IX, X và XI, và nhận nhiệm vụ làm Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, Chủ tịch Hội hữu nghị Việt Nam – Cu Ba cho đến khi nghỉ hưu.
Chị Nguyễn Thị Chiên là một nữ anh hùng thực sự, không chỉ trong thời chiến mà còn trong thời bình. Cống hiến của chị với dân tộc là vô cùng lớn lao.
Nói về nữ anh hùng Nguyễn Thị Chiên
Việt Nam là quê hương của nhiều anh hùng, trong đó, những nữ anh hùng cũng rất nổi bật và xuất sắc. Trong số họ, người mà tôi ấn tượng nhất là bà Nguyễn Thị Chiên.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 tại huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp, bà vừa giữ chức vụ bí thư duy nhất và chỉ huy một trung đội du kích ở xã. Năm 1950, bà đã dùng mìn phá hủy một tiểu đội địch đang tuần tra trên đường 39. Sau đó, trong một chiến dịch, bà bị bắt và bị tra tấn dã man, nhưng vẫn kiên quyết không tiết lộ thông tin. Cuối cùng, giặc buộc phải thả bà ra. Sau khi được thả, bà trở về quê hương và tiếp tục hoạt động trong đội du kích.
Năm 1951, bằng mưu mẹo, bà đã bắt một tiểu đội địch ngay giữa chợ và thu được bảy khẩu súng. Sau đó, bằng mưu mẹo khác, bà bắt được tên sĩ quan Pháp chỉ huy trong một trận càn quét ở xã. Năm 1952, trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần đầu tiên, bà được tặng khẩu súng và được thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Quân công hạng Ba và được tuyên dương là Anh hùng lực lượng vũ trang.
Bà Nguyễn Thị Chiên là một nữ anh hùng đáng kính trọng, là nguồn cảm hứng cho tôi và rất nhiều người khác. Tôi sẽ học tập và noi gương bà, dốc hết sức mình để đóng góp cho tổ quốc.
Kể về nữ anh hùng Võ Thị Sáu
Bài văn mẫu 1
Tuổi thơ của tôi luôn đầy những câu chuyện về bà. Đó là thế giới của những nhân vật cổ tích và những anh hùng dũng cảm hy sinh vì đất nước. Trong đó, tôi luôn nhớ về người anh hùng nữ Võ Thị Sáu.
Võ Thị Sáu sinh ra ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, một vùng quê mang trong mình truyền thống yêu nước sâu sắc. Từ nhỏ, chị đã chứng kiến sự tàn bạo của thực dân Pháp đối với dân làng. Vì thế, khi mới 14 tuổi, chị đã gia nhập Việt Minh, tham gia vào chiến khu chống Pháp. Chị tham gia đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ liên lạc và tiếp tế. Chị đã có nhiều chiến công nổi bật, tiêu diệt các tên địch và phát hiện nhiều âm mưu gián điệp.
Tháng 7/1948, Công an Đất Đỏ được giao nhiệm vụ phá cuộc mít tinh kỷ niệm Quốc khánh Pháp. Biết rõ đây là nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm, chị Sáu vẫn tự nguyện tham gia trực tiếp. Chị đã ném lựu đạn vào phía khán đài, đe dọa giải tán mít tinh và hoàn thành nhiệm vụ. Sau chiến công này, chị được khen ngợi và được giao nhiệm vụ tiêu diệt các tay cầm quyền Pháp. Nhưng trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị đã bị bắt và bị tra tấn dã man. Tuy vậy, chị vẫn kiên quyết không tiết lộ thông tin. Bọn địch đã tuyên án tử hình và chuyển chị ra nhà tù Côn Đảo.
Trên đường ra chiến trường, chị không hề sợ hãi. Chị ngắt một bông hoa ven đường và tặng cho người lính đang hành quyết chị. Trước cái chết, chị kiên quyết không quỳ xuống, từ chối bịt mắt, đối mặt với cái chết một cách bình tĩnh. Điều chị hối tiếc nhất là chưa thể tiêu diệt hết bọn thực dân Pháp. Trước khi ra đi, chị bắt đầu hát Tiến quân ca. Khi lính nâng súng, chị ngừng hát, hô vang những lời cuối cùng “Đả đảo bọn thực dân Pháp. Việt Nam độc lập muôn năm. Hồ Chủ tịch muôn năm!”. Chị ngã xuống nhưng tấm gương của chị sẽ mãi sáng tỏ.
Chị Võ Thị Sáu là biểu tượng của lòng dũng cảm, kiên trì và sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Tôi cảm thấy cần phải cố gắng học tập để đóng góp cho đất nước, để tôn vinh công lao của những người đi trước.
Bài văn mẫu 2
Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm bảo vệ và giữ gìn tự do, với biết bao nhiêu tấm gương anh dũng hy sinh cho sự độc lập của dân tộc. Trong số những nữ anh hùng, chị Võ Thị Sáu là người tôi ngưỡng mộ nhất - một người con gái quê Đất Đỏ với tinh thần kiên định không sợ hãi trước kẻ thù.
Chị Sáu, sinh năm 1933 ở huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa, là một ví dụ mẫu mực về lòng yêu nước. Khi còn rất trẻ, chị đã tham gia vào cuộc cách mạng, đứng lên chống lại ách thống trị của Pháp. Dũng cảm và quyết đoán, chị đã dùng lực lượng để bảo vệ quê hương và tiêu diệt kẻ thù.
Tháng 2/1950, chị dẫn đầu một đội, sử dụng lựu đạn để tấn công và tiêu diệt hai tên cầm đầu Cả Suốt và Cả Đay. Tiếc rằng chị đã bị bắt. Dù bị giam giữ và tra tấn, chị vẫn kiên trì không tiết lộ. Chị bị kết án tử hình và từ chối bịt mắt trước khi chịnh quyền tuyên án. Dù chỉ mới 17 tuổi, chị đã biểu diễn sự dũng cảm của một người phụ nữ Việt Nam, làm cho cả quan tòa và kẻ thù đều phải kính trọng.
Vào ngày 23/1/1952, chúng tôi thực hiện bản án, bắn chết chị ở ngoài hòn đảo xa lạ này sau hai ngày chúng tôi đưa chị ra đây. Biết sắp bị hành hình, suốt đêm 22, chị đã trao đi lòng mình với đất nước và nhân dân bằng những bài ca cách mạng: Lên đàng, Tiến quân ca, Cùng nhau đi hùng binh... Bốn giờ sáng, viên cố đạo lên tiếng: 'Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?'. Chị nhìn thẳng vào mặt ông ta và mặt tên chánh án, trả lời: 'Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước'.
Khi đến tòa án, tên chánh án hỏi chị: 'Có yêu cầu gì trước khi chết?'. Chị nói: 'Đừng bịt mắt tôi. Hãy để cho đôi mắt tôi được nhìn đất nước thân yêu đến giây phút cuối cùng và tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng vào họng súng của các người!'. Khi tên chỉ huy ra lệnh cho bọn lính chuẩn bị nổ súng thì chị lập tức ngưng hát và hét lên: 'Đả đảo thực dân Pháp!'. 'Việt Nam độc lập muôn năm!'. 'Hồ Chủ tịch muôn năm!'.
Tinh thần bất khuất, dũng cảm của chị Võ Thị Sáu đã truyền cảm hứng cho biết bao thế hệ thanh niên Việt Nam, tiếp tục viết nên lịch sử đấu tranh hào hùng của dân tộc. Cảm phục trước tấm gương người nữ anh hùng, chúng tôi tự hứa sẽ cố gắng học tập thật tốt hơn nữa để xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh và tươi đẹp hơn, xứng đáng với sự hi sinh anh dũng của các thế hệ đi trước.
Văn bản mẫu 3
Khi nói về những tấm gương hy sinh trong chiến tranh khốc liệt, không ai trong chúng tôi không biết đến chị Võ Thị Sáu - một cô gái ra đi khi tuổi đời còn quá trẻ.
Võ Thị Sáu sinh năm 1933 tại tỉnh Bà Rịa. Chị được nhân dân yêu mến, được biết đến như 'Người con gái đất đỏ'. Khi giặc Pháp xâm nhập quê hương, Võ Thị Sáu mới 12 tuổi nhưng đã thể hiện sự dũng cảm không giới hạn, dám ném lựu đạn tiêu diệt ba tên chỉ huy Pháp. Đặc biệt, chị nổi tiếng với khả năng tình báo, hoạt động biệt động và giao tiếp tốt. Tuy nhiên, trong một lần thực hiện nhiệm vụ, chị không thể hoàn thành việc ám sát tên Việt gian Đốc phủ Tòng. Do đó, chị Võ Thị Sáu bị bắt vào năm 15 tuổi. Dù ở trong tù, chị vẫn tiếp tục hoạt động, cống hiến cho cách mạng. Tháng 12 năm 1952, Pháp đưa chị ra Côn Đảo giam giữ trong nhà lao 'Đá trắng'. Khi giặc chuẩn bị xử bắn chị, chúng mang một viên cố đạo tới để 'rửa tội', chị phản đối: 'Tôi là người yêu nước, tôi không phạm tội. Chỉ có các ngươi mới là bọn cướp nước, giết dân, mới là kẻ có tội.' Trước khi ra đi, chị hét to: 'Việt Nam mãi mãi! Bác Hồ mãi mãi!'. Chị Võ Thị Sáu hy sinh khi chưa đầy 17 tuổi - khi còn rất trẻ. Sau này, khi hòa bình được thiết lập, vào năm 1993, Nhà nước trao tặng chị danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và Huân chương chiến công hạng Nhất.
Mỗi khi nhớ về hình ảnh mạnh mẽ, kiên cường của chị Võ Thị Sáu, tôi lại càng trân trọng hơn nữa nền hòa bình hiện tại. Tôi sẽ cố gắng học tập, rèn luyện để đóng góp vào sự phát triển mạnh mẽ hơn của đất nước.
Văn bản mẫu 4
Võ Thị Sáu - một cô gái sinh ra ở vùng Đất Đỏ thuộc Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Việt Nam. Sinh năm 1933, chị là một cô gái thông minh, mưu trí, yêu nước và dũng cảm. Dù còn rất trẻ, chị đã tham gia vào hoạt động của đoàn quân cách mạng và đạt được nhiều chiến công đáng khen ngợi.
Năm 1948, chị được giao nhiệm vụ quan trọng là phải phá hủy một buổi lễ mít tinh của thực dân Pháp để làm rối loạn và phá hủy kế hoạch của kẻ thù. Tại buổi mít tinh đó, Võ Thị Sáu đã ném lựu đạn vào khán đài có tỉnh trưởng Lê Thành Trường - một trong những lãnh đạo cao cấp của thực dân Pháp, nhằm phá vỡ đám đông. Chiến công này đã giúp cho chị Võ Thị Sáu ghi dấu nhiều chiến công khác.
Sau đó, chị Võ Thị Sáu được cơ quan trung ương Đảng giao nhiệm vụ tiêu diệt kẻ gian tế. Tháng 2 năm 1950, trong khi đi làm nhiệm vụ, chị đã bị bọn kẻ thù bắt giữ. Bọn giặc ngoại xâm đã tra tấn chị Võ Thị Sáu của chúng ta một cách tàn bạo, ép chị khai ra đồng đội của mình. Tuy nhiên, chị kiên quyết không tiết lộ, dù bị tra tấn dã man như dùng dùi điện cho điện giật vào người, hoặc dùng dùi nóng lửa đốt cháy... Mọi hình thức tra tấn đều làm chị thêm căm phẫn bọn thù và củng cố quyết tâm của mình.
Cuối cùng, với tất cả nỗ lực của bọn kẻ thù, họ buộc lòng đày chị ra Côn Đảo - nơi giam giữ và hành hạ những tù nhân chính trị của đất nước. Đó là nơi chôn vùi thân của rất nhiều anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam.
Vào ngày 23/1/1952, chị Võ Thị Sáu, anh hùng của chúng ta, bị dẫn ra pháp trường để đối mặt với tử hình khi mới 19 tuổi. Cho đến sau này, khi đất nước ta đã được giải phóng hoàn toàn vào năm 1993, chị Võ Thị Sáu được vinh danh với danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân, là một trong những chiến sĩ trẻ tuổi xuất sắc của chúng ta.
Tấm gương của chị Võ Thị Sáu làm cho chúng tôi rất ngưỡng mộ và kính trọng vì những hy sinh của chị dành cho quê hương, tổ quốc, giúp chúng tôi hôm nay được sống trong hòa bình.
Văn bản mẫu 5
Ở đâu cũng có những nơi tuyệt vời
Như dòng sông, như dòng suối, như con người Việt Nam
Lịch sử của đất nước Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm với biết bao biến cố, thăng trầm, và phải đối mặt với nhiều cuộc xâm lăng của các nước lớn. Nhưng nhân dân ta, dù hiền lành và chăm chỉ lao động, nhưng khi đối diện với kẻ thù xâm lược quê hương, lòng yêu nước lại bùng nổ mạnh mẽ, tạo nên một làn sóng không ngừng, đẩy lùi bè lũ phản quốc và tay sai bán nước. Trong làn sóng yêu nước đó, đã xuất hiện biết bao anh hùng, và một trong số họ là chị Võ Thị Sáu.
Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933, tại xã Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Vũng Tàu-Côn Đảo. Tham gia cách mạng từ khi mới 14 tuổi và nhanh chóng trở thành một nữ chiến sĩ trinh sát nổi tiếng với tinh thần gan dạ của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Năm 1950, chị Sáu bị địch bắt giữ trong một trận đánh tiêu diệt tề ở chợ quê gần nhà. Sau hơn một năm bị giam cầm và trải qua đủ loại tra tấn, nhưng chị Võ Thị Sáu vẫn giữ vững tinh thần dũng cảm, không khuất phục trước kẻ thù.
Bài văn mẫu 6
Chị Võ Thị Sáu là một nữ anh hùng mà em rất yêu mến và ngưỡng mộ.
Chị ấy là một cô gái trẻ tuổi, nhỏ nhắn như bao cô gái khác. Nhưng bên trong dáng vẻ ấy, là một trái tim dũng cảm và mạnh mẽ không ngờ. Lúc mới 14 tuổi, chị đã gia nhập Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Mọi người đều biết và kính trọng sự gan dạ của chị. Dù gặp phải những nhiệm vụ nguy hiểm, nhưng chị vẫn hoàn thành xuất sắc. Một ngày, trong khi thực hiện nhiệm vụ, chị bị giặc bắt. Họ tra tấn và dụ dỗ chị bằng nhiều cách, nhưng chị không bao giờ khuất phục. Cuối cùng, họ quyết định xử bắn chị. Lúc ấy, chị vẫn chưa đủ 18 tuổi. Nhưng khi đến pháp trường, chị bước đi mạnh mẽ, không một chút sợ hãi. Sự ra đi của chị để lại nỗi đau và tiếc nuối sâu sắc trong lòng nhân dân. Nhưng chính chị Võ Thị Sáu đã trở thành biểu tượng của tình yêu nước và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc.
Em thực sự tự hào khi đất nước ta có một nữ anh hùng vĩ đại như chị Sáu.
Kể về anh hùng Hai Bà Trưng
Bài văn mẫu 1
Hai Bà Trưng – những nữ anh hùng
“Bà Trưng xuất thân Châu Phong,
Giận giặc thù hằn, yêu nước mãi không phôi phai.
Chị em ghi trên bản lời dặn,
Đồng lòng vững tin, quyết hy sinh thay tướng quân.”
Là con dân Việt Nam, chắc hẳn ai cũng đã nghe về danh tiếng của Hai Bà Trưng được kể trong những câu thơ. Hai Bà Trưng là hai người phụ nữ anh hùng, dũng cảm trong cuộc chiến chống lại sự xâm lăng của giặc ngoại.
Em đã được học về câu chuyện của Hai Bà Trưng. Hai bà là hai chị em ruột, Trưng Trắc và Trưng Nhị. Họ sinh ra ở huyện Mê Linh, từ nhỏ đã nổi tiếng với sự tài năng. Cha mẹ mất sớm, nhưng với sự dạy dỗ của mẹ, hai chị em đã trở nên giỏi võ.
Thời kỳ đó, nước ta bị nhà Hán áp bức. Họ tàn bạo đàn áp dân lành, cướp ruộng đất của chúng ta. Nhưng lòng dân ta không chịu nổi, họ chỉ chờ cơ hội để nổi dậy đánh đuổi giặc ngoại xâm. Chồng của Trưng Trắc là Thi Sách, cũng mang trong mình ý chí giành lại tự do cho đất nước. Tướng quân giặc Tô Định, biết điều này, đã âm mưu giết Thi Sách.
Khi nghe tin không lành, Hai Bà Trưng ngay lập tức dẫn quân về Luy Lâu để đòi hỏi công bằng. Họ mặc áo giáp lộng lẫy, điều này khiến tướng quân sợ hãi. Quân của họ, với vũ khí đồ sộ, dồn dập nhưng kiên định, khiến quân giặc chạy thục mạng. Cuối cùng, các thành trì của giặc đều bị quân của Hai Bà Trưng chiếm đóng. Đất nước ta được giải phóng khỏi bóng dáng của kẻ thù.
Hai Bà Trưng trở thành hai anh hùng chống ngoại xâm đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Để tưởng nhớ công ơn hai bà, dân ta đã xây dựng đền thờ Hai Bà Trưng. Mỗi năm, khi xuân về, vùng Mê Linh lại rộn ràng tiếng chiêng, tiếng trống đón chào hội. Hai bà thật sự là những nữ tướng dũng cảm, anh hùng, đáng khâm phục.
Bài văn mẫu 2
Trong lịch sử của dân tộc, đã có nhiều lần nhân dân ta đứng lên, đoàn kết chống lại quân xâm lược. Trong số đó, không thể không nhắc đến Hai Bà Trưng - hai nữ tướng đầu tiên của nước ta.
Theo sách sử, Hai Bà Trưng là dòng dõi của người đứng đầu cai trị vùng Mê Linh từ thời Hùng Vương, gồm hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Lúc đó, giặc phương Bắc cai trị nước ta bằng chính sách tàn bạo, khiến dân ta căm phẫn. Vào mùa xuân năm 40, Thi Sách - chồng của Trưng Trắc bị Tô Định (một tên Thái Thú người Hán) giết hại. Sự kiện này kích động lòng dân, làm bùng lên lòng căm hận quân đô hộ và lòng khao khát tự do dân tộc trong Hai Bà Trưng. Vậy nên, vào một buổi sáng xuân tại Mê Linh, Hai Bà Trưng đã lên núi, thắp lửa cầu nguyện và lên kế hoạch khởi nghĩa. Trong tiếng trống dội, bài thơ sau đã vang lên trước khi ra trận:
“Một xin rửa sạch dáng đồi,
Hai xin ghi lại danh họ Hùng,
Ba xin oan trả lòng chồng,
Bốn xin khắc sâu công đồng này.”
Bà Trưng Trắc cùng em gái Trưng Nhị là hai tấm gương dũng cảm lãnh đạo cuộc khởi nghĩa. Bà Trưng Trắc đã thu hút lòng tin của nhân dân nhờ sự gan dạ và can đảm. Cuộc khởi nghĩa đã kết nối sức mạnh toàn dân, trong đó có nhiều phụ nữ và nữ tướng như Thánh Thiên, Lê Chân, Bát Nàn, Thiều Hoa... Không lâu sau, cuộc khởi nghĩa lan rộng khắp đất nước, từ Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (đất Việt Nam ngày nay) đến Hợp Phố (phía nam Quảng Đông - Trung Quốc ngày nay). Hai Bà Trưng đã nhanh chóng xoá sạch giặc thù khỏi lãnh thổ và trở thành vua, lãnh đạo đất nước. Sự độc lập quý giá ấy được duy trì trong ba năm (từ năm 40 đến năm 43). Tuy nhiên, vào năm 41, nhà Hán sai Phục Ba tướng quân Mã Viện cầm đầu đại quân sang tấn công lại, và Hai Bà Trưng đã chiến đấu dũng cảm với quân giặc. Cuộc kháng chiến diễn ra với những trận đánh lớn từ Tây Vu, Lãng Bạc đến Cẩm Khê. Cuối cùng, Hai Bà Trưng đã hy sinh dũng cảm tại dòng Hát giang vào ngày 6 tháng 2 năm 43, để lại một tấm gương anh dũng vĩ đại cho hậu thế.
Hai bà là biểu tượng về lòng yêu nước và chiến đấu quả cảm chống giặc, là nguồn cảm hứng cho thế hệ sau.
Bài văn mẫu 3
Năm 34 sau lịch Tây, nhà Đông Hán sai Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định là một kẻ tham lam và tàn bạo. Dân chúng căm ghét, cùng với Lạc hầu, Lạc tướng. Huyện Châu Diên có Lạc tướng Thi Sách, ông mưu tính chống lại quân Tàu. Tô Định vì vậy đã giết Thi Sách. Vợ Thi Sách, Trưng Trắc, dũng cảm đứng lên đánh Tô Định để báo thù cho chồng, rửa hận cho dân tộc.
Trưng Trắc, con gái của Lạc tướng Mê Linh, ngày nay thuộc tỉnh Phúc Yên, khi cùng em gái Trưng Nhị khởi nghĩa, được sự ủng hộ đông đảo từ các Lạc tướng và nhân dân. Không lâu sau, quân Hai Bà Trưng lan rộng khắp nơi, chiếm được 65 thành trì. Tô Định không thể chống cự, phải chạy về Tàu. Hai Bà Trưng lên ngôi vua, đóng đô tại Mê Linh (năm 40 sau lịch Tây). Dân chúng hân hoan mừng vui về sự độc lập.
Sau hơn một năm trị vì, Trưng Nữ Vương bị quân của nhà Đông Hán dưới quyền danh tướng Mã Viện đánh bại. Dù quân ta mới hình thành và yếu hơn, nhưng nhờ lòng dũng cảm, quân ta đã chiến thắng một số trận đầu. Quân giặc phải rút lui và đóng quân tại vùng Lãng Bạc (gần Hồ Tây, nay là Hà Nội). Sau đó, Mã Viện tập kích quân ta và dùng mưu lừa để tấn công bất ngờ. Hai Bà Trưng thất bại và rút quân về giữ Mê Linh.
Vào mùa thu năm 43, Mã Viện bao vây Mê Linh. Tình hình đối đầu căng thẳng. Hai Bà buộc phải bỏ chạy. Mã Viện truy đuổi và Hai Bà đã nhảy xuống sông Hát (gần sông Đáy đổ ra sông Hồng Hà) để tránh bị bắt. Dù thời gian làm vua của họ không lâu, nhưng Hai Bà Trưng vẫn là những anh hùng cứu nước đầu tiên của dân tộc, được tôn vinh qua các thế hệ.
Ngày nay, tại làng Hát Môn, huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây và làng Đồng Nhân gần Hà Nội, có đền thờ Hai Bà Trưng. Mỗi năm, vào ngày mồng sáu tháng hai âm lịch là ngày hội để tưởng nhớ công đức của hai vị nữ tướng.
Bài văn mẫu 4
Lịch sử dân tộc ta đã chứng kiến bao cuộc đấu tranh gian nan để bảo vệ tổ quốc và khẳng định chủ quyền độc lập. Trong số những anh hùng vĩ đại đó, Hai Bà Trưng là những người nổi tiếng, xuất thân từ những người dân thường. Cuộc kháng chiến của Hai Bà Trưng chống lại sự áp bức của nhà Đông Hán (40-43) tại Bắc Ninh đã ghi dấu ấn sâu đậm trong trang sử dân tộc. Khi chồng của Trưng Trắc bị Tô Định tàn bạo giết hại, bà và em gái Trưng Nhị quyết định khởi binh tại Luy Lâu, Thuận Thành, Bắc Ninh. Trước khi ra trận, hai bà đã tuyên thệ với âm thanh vang vọng:
Một xin rửa sạch nước thù
Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng
Ba kẻo oan ức lòng chồng
Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này
Trong cuộc kháng chiến, nhiều nữ tướng đã tham gia và cùng nhau tạo nên những chiến công vĩ đại, khiến quân giặc phải kinh sợ và Tô Định phải chạy trốn về quê hương. Sau khi kiểm soát Mê Linh, Trưng Trắc lên ngôi vua với danh hiệu Trưng Vương, hoàn thành sứ mệnh tiếp nối truyền thống dòng họ Hùng. Năm 43, quân giặc tiến công, Hai Bà Trưng kiên cường đấu tranh, nhưng với sức mạnh áp đảo, họ đã thất bại và tự vẫn tại sông Hát. Mặc dù thất bại, nhưng cuộc khởi nghĩa của hai nữ anh hùng đã đóng góp không ít vào việc chống lại thế lực xâm lược từ bên ngoài.
Hai bà luôn là những tượng đài vĩ đại của dân tộc, và lòng biết ơn sâu sắc của cả dân tộc dành cho họ không bao giờ phai nhạt.
Bài văn mẫu 5
Tôi luôn ngưỡng mộ một nữ anh hùng, đó là Hai Bà Trưng. Tôi đã tìm hiểu thêm về cuộc đời của họ qua các nguồn thông tin trên báo chí và internet. Càng hiểu biết, tôi càng khâm phục trước hành động dũng cảm của họ, trở thành những anh hùng của dân tộc. Cho phép tôi kể lại câu chuyện này cho các bạn nghe nhé!
Hai Bà Trưng sống trong thời kỳ đất nước chịu xâm lược và chiến tranh liên miên. Họ tỏ ra bất bình trước tình trạng áp bức đối với dân chúng, vì vậy họ đã rèn luyện võ nghệ và chờ đợi ngày giải phóng dân tộc. Sự việc bắt đầu khi quan giặc Thi Sách giết chồng của Trưng Trắc. Hai bà quyết định khởi nghĩa chống lại kẻ thù ngoại xâm.
Hai Bà Trưng trở nên mạnh mẽ và thông thạo chiến thuật. Đội quân của họ ngày càng lớn mạnh, chiến thắng kẻ địch và khiến kẻ thù kinh hãi. Tuy nhiên, quân thù bắt đầu nhận sự viện trợ và đặt áp lực lên quân ta. Hai Bà Trưng đã giành chiến thắng, nhưng không duy trì được lâu.
Tình hình khó khăn khiến hai bà bị dồn vào chân núi và quyết định tự vẫn để không rơi vào tay kẻ thù. Tinh thần kiên cường của họ vẫn là nguồn cảm hứng không nguôi cho tôi. Hai Bà Trưng là minh chứng rõ ràng và hùng hồn về sức mạnh của phụ nữ Việt Nam, luôn dũng cảm và kiên trì, không kém phần nam tính.
Bài văn mẫu 6
Em luôn ngưỡng mộ một nữ anh hùng, đó là Hai Bà Trưng. Vì vậy, em đã tìm đọc nhiều sách và tranh để hiểu thêm về hai bà.
Hai Bà Trưng sống trong thời kỳ đất nước rơi vào chiến loạn, họ rất bất bình trước tình hình bị áp bức. Do đó, họ tập trung rèn luyện võ nghệ, chờ ngày đứng lên. Nhưng ngờ đâu, quan giặc lại dám giết chồng của Trưng Trắc là Thi Sách, khiến hai bà quyết định khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Nhờ sự mạnh mẽ và thông thạo chiến thuật của mình, đội quân của hai bà ngày càng lớn mạnh, khiến kẻ địch hoảng sợ. Cuối cùng, Hai Bà Trưng chiến thắng, lên ngôi vua. Tuy nhiên, không lâu sau, quân thù đem binh viện trợ, dồn áp lực lên quân ta. Hai bà chiến bại và quyết định tự vẫn để không rơi vào tay giặc. Tinh thần của hai bà khiến em vô cùng nể phục.
Mặc dù thời gian cai trị không dài, nhưng Hai Bà Trưng vẫn là những anh hùng vĩ đại. Họ mở đầu cho những cuộc khởi nghĩa giành độc lập của dân tộc.
Kể về nữ anh hùng Bùi Thị Xuân
Trong cuộc khởi nghĩa Tây Sơn và lịch sử quân sự Việt Nam nói chung, Bùi Thị Xuân là một nhân vật đặc biệt. Bà không chỉ là một nữ tướng giỏi mà còn nổi tiếng với câu chuyện thuần phục voi trắng.
Nữ tướng Bùi Thị Xuân (?-1802) sinh ra tại thôn Xuân Hòa, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn (nay là phường Phú Xuân, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định). Ngay từ nhỏ, bà đã được biết đến với vẻ đẹp tuyệt vời, tài năng nghệ thuật viết chữ đẹp, và kỹ năng vượt sức thông thạo như cưỡi ngựa, bắn cung, và đặc biệt là nghệ thuật đấu voi.
Theo truyền thống, trước khi gia nhập quân Tây Sơn, nhờ vào tài năng phi thường của mình, bà đã mua được hai con voi ngà từ vùng Tây Sơn và huấn luyện chúng. Sau khi đào tạo chúng thành công, bà thường xuyên cưỡi voi đi săn ở khu vực Đồng Sim, Đồng Trăng, và Thuận Ninh.
Một ngày, trong lúc đang đi săn ở khu vực Đồng Sim, bà nghe thấy tiếng vo ve thảm thiết của một con voi. Khi đến nơi, Bùi Thị Xuân nhìn thấy một con voi trắng ngà dài gần hai thước bị một con rắn to quấn chặt bốn chân. Tiếng kêu thảm thiết của con voi trở nên yếu dần trong tiếng nước rơi ầm ầm. Không ngần ngại, Bùi Thị Xuân bắn mũi tên vào mắt con rắn. Đau đớn, con rắn bỏ mồi và tấn công bà.
Bà nhanh chóng thúc ngọn lao vào miệng của con rắn. Ngọn lao xuyên thủng đầu và đâm chặt con rắn vào gốc cây. Đau đớn, con rắn quấn chặt xung quanh cây và siết chặt hơn. Cây gãy, con rắn bị đâm chết. Con voi trắng đứng lên và quỳ gối trước Bùi Thị Xuân. Bà vỗ nhẹ lên đầu và nói: “Bạch tượng, từ giờ chúng ta là bạn thân nhé!”. Con voi trắng đặt vòi vào vai Bùi Thị Xuân và phát ra một tiếng thét vui mừng.
Từ xa, tiếng chân chạy vang lên, cây rừng rung chuyển, và một đàn voi xuất hiện xung quanh con voi trắng. Ngay sau tiếng thét của con voi trắng, đàn voi cúi đầu xuống và vòi nghiêm túc hướng về phía Bùi Thị Xuân. Đàn voi tiếp tục theo bà về làng. Bà thường đem hơn 10 con voi ra tập trận ở đồi Xuân Hòa, vì thế người dân địa phương đã đặt cho nơi đó cái tên là Gò Tập Voi.
Sau khi cuộc khởi nghĩa của Tây Sơn nổ ra, các dân tộc ở vùng núi đã tặng thêm nhiều con voi, tạo thành một đàn voi với hơn trăm con. Hầu hết quản tượng là phụ nữ, chỉ có vài nam binh tham gia khi huấn luyện. Khi thao trường, bà sử dụng một cây cờ đỏ có cán dài. Trước khi nữ tướng xuất hiện, đàn voi thường hoang mang. Khi bà hiện diện, con voi dẫn đầu liền chạy đến và đứng nghiêm trước mặt, chân trước co lại.
Bà nhảy lên lưng con voi, chân nhẹ nhàng đặt lên đầu gối của nó, sau đó nhanh chóng nhảy lên lưng con vật. Sau khi vỗ nhẹ hai cái lên đầu, con voi dẫn đầu phát ra một tiếng rống dài. Cả đàn chạy đến và xếp hàng gọn gàng trước mặt con voi dẫn đầu. Bà sử dụng cây cờ để chỉ đạo đàn voi di chuyển, xoay trái, xoay phải, tiến, lui, một cách nhịp nhàng và đều đặn.
Khi huấn luyện voi cho trận đánh, ban đầu, bà tập trung vào từng thớt một. Mỗi thớt được chỉ huy bởi một phụ nữ quản tượng, và chỉ sau khi huấn luyện thành thạo mới tập hợp thành đoàn. Khi đó, mỗi phụ nữ quản tượng sẽ đi cùng con voi của mình. Khi hàng ngũ đã gọn gàng, các phụ nữ quản tượng mặc áo quần chỉnh tề, đội khăn đỏ và, theo lệnh, nhảy lên lưng con voi của mình.
Cờ hiệu được phát ra, chỉ huy cho từng hướng, từ phía nam, phía bắc, từ trái, từ phải. Khi cờ hiệu được phát lên cao và buổi diễn tập kết thúc, đàn voi lại xếp hàng ngay ngắn và các phụ nữ quản tượng nhảy xuống với sự nhẹ nhàng, nhanh nhảy và nụ cười tươi tắn. Sau khi phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ vào năm 1771, Bùi Thị Xuân cùng chồng là Trần Quang Diệu trở thành những tướng lĩnh quan trọng, có đóng góp to lớn vào sự nghiệp của nhà Tây Sơn.
Qua câu chuyện này, ta lại càng ngưỡng mộ hơn về Bùi Thị Xuân - người phụ nữ vừa tài năng, vừa xinh đẹp. Từ một phụ nữ bình thường, bà đã trở thành một danh tướng được tôn trọng và khen ngợi bởi mọi người, luôn là một nguồn cảm hứng và kiêng nể.
Câu chuyện về nữ anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai
Một bài làm tham khảo mẫu
Lịch sử dân tộc ta đã ghi nhận bao nhiêu anh hùng dũng cảm chống ngoại xâm, những người xuất thân từ dòng dân bình thường. Nguyễn Thị Minh Khai là một trong số đó.
Trưởng thành trong cảnh bi thảm của quê hương, từ khi 16 tuổi, bà đã tham gia vào hoạt động cách mạng. Trong cuộc đấu tranh, bà đã cho thấy sự kiên cường, sắc sảo khiến kẻ thù Pháp phải khiếp sợ và tìm mọi cách để hại bà. Năm 1940, Nguyễn Thị Minh Khai bị bắt và bị tra tấn dã man bởi kẻ thù, nhưng sau mỗi trận tra tấn đó, bằng máu của mình, bà đã viết nên những bài thơ ca ngợi tinh thần của người chiến sĩ cộng sản. Biết rằng họ không thể khuất phục được bà, họ đã quyết định xử bắn bà.
Tôi tự hào được học tập dưới bóng dáng của người anh hùng Nguyễn Thị Minh Khai.
Một bài làm tham khảo mẫu số 2
Trong những năm chiến đấu khốc liệt chống lại Pháp, nhiều con người Việt Nam đã hy sinh mạng sống để giành lại tự do cho đất nước. Trong số đó, không thể không nhắc đến những phụ nữ dũng cảm trong cuộc chiến. Và một trong những biểu tượng nổi bật nhất là bà Nguyễn Thị Minh Khai - người phụ nữ chiến sĩ Cộng Sản hàng đầu.
Bà Minh Khai, tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 tại tỉnh Nghệ An. Cha là người Hà Nội, mẹ là người Hà Tĩnh. Năm 1919, bà bắt đầu học chữ Quốc ngữ và vào học tại trường tiểu học Cao Xuân Dục ở Vinh (Nghệ An). Năm 1927, bà tham gia hoạt động trong phong trào công nhân tại Vinh và tham gia vào việc thành lập Tân Việt Cách mạng Đảng, đảm nhận vai trò là Ủy viên Ban chấp hành Đảng.
Năm 1930, bà gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, đảm nhận công việc tuyên truyền và huấn luyện đảng viên tại Trường Thi, Bến Thủy. Sau đó, bà chuyển đến Hương Cảng làm thư ký cho Nguyễn Ái Quốc tại văn phòng chi nhánh Đông phương bộ của Quốc tế Cộng sản.
Tuy nhiên, không may, trong một lần hoạt động vào năm 1931, bà bị bắt tại Hương Cảng, bị kết án và giam giữ tại đây. Năm 1934, bà được phóng thích và được cử làm đại biểu chính thức tham dự Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Moskva cùng với Lê Hồng Phong. Sau đó, bà kết hôn với Lê Hồng Phong và theo học tại trường Đại học Phương Đông. Năm 1936, bà được cử về nước truyền đạt chỉ thị của Quốc tế Cộng sản và được bổ nhiệm vào Xứ ủy Nam kỳ, giữ chức Bí thư Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn. Tại đây, bà tham gia lãnh đạo cao trào cách mạng 1936 - 1939 ở Sài Gòn. Trong thời gian đó, bà sử dụng biệt danh là Năm Bắc.
Năm 1940, sau cuộc họp của Xứ ủy Nam kỳ để phổ biến chủ trương khởi nghĩa, bà bị bắt và giam giữ tại Khám Lớn Sài Gòn. Mặc dù vậy, bà vẫn duy trì liên lạc với bên ngoài và tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh.
Sau khi Khởi nghĩa Nam Kỳ thất bại, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và thực hiện hành án tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn vào ngày 26 tháng 8 năm 1941. Trước khi bị hành quyết, bà không hề tỏ ra sợ hãi, mà ngược lại, bày tỏ sự kiên định và lên án tội ác của thực dân Pháp, với khẩu hiệu: 'Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!'
Bà Nguyễn Thị Minh Khai là một tấm gương lớn về lòng yêu nước. Bà là một nữ anh hùng của dân tộc Việt Nam. Nhờ có bà và hàng ngàn chiến sĩ khác, chúng ta mới có được cuộc sống yên bình, độc lập như ngày hôm nay.
Kể về nữ anh hùng Lê Chân
Ngày nay, du khách từ khắp nơi đến thăm thành phố Hải Phòng sẽ có cơ hội ngắm nhìn bức tượng nữ tướng Lê Chân được đặt tại dải vườn hoa Trung tâm thành phố. Bức tượng được làm bằng đồng, cao 6m, tráng lệ và hùng vĩ. Với thanh kiếm bên cạnh, Lê Chân tỏ ra uy nghiêm, hướng về biển Đông với ánh mắt sáng ngời, đầy quyết đoán.
Theo sử sách, Lê Chân là con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nhân đức nổi tiếng trong khu vực. Bà quê ở làng An Biên, phủ Kinh Môn, hiện thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh.
Lúc 16 tuổi, Lê Chân đã nổi tiếng về tài sắc, võ nghệ và ý chí kiên định. Thái thú Giao Chỉ, một kẻ tàn nhẫn và bạo ngược, đã giết ông Lê Đạo khi bà từ chối làm tì thiếp. Lê Chân đã trốn về An Dương để nuôi thù nhà nợ nước và không bao giờ khuất phục trước giặc Hán xâm lược.
Lê Chân đã tập hợp trai trẻ và di dân thành lập ấp. Vùng đất ven biển mà bà đặt tên là An Biên, như tên của quê cha bà. Nghề nông và đánh cá phát triển mạnh mẽ. Lê Chân cũng đã có hàng nghìn dũng sĩ sẵn sàng cho cuộc chiến lớn.
Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, Lê Chân chỉ huy đội nghĩa binh của làng An Biên tấn công Luy Lâu, đánh quân Đông Hán. Cuộc chiến cháy rực, đánh thức lòng dũng cảm của dân quân, khiến quân Đông Hán hoảng sợ. Thành trì tan vỡ, quân Tô Định bỏ thành trốn vào phương Bắc. Đó là tháng 3 năm 40.
Cuộc khởi nghĩa thành công, giải phóng sáu mươi lăm thành trì, Hai Bà Trưng lên làm vua với nước gọi là Trưng Vương và đóng đô tại Mê Linh. Đất nước đã giành được độc lập.
Gần một trăm nữ anh hùng nữ tướng được phong thưởng và giao trọng trách. Trưng Vương đã chỉ đạo nữ tướng Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng giữ phía bắc, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân bảo vệ phía nam, và nữ anh hùng Lê Chân được phong 'Chưởng quản binh quyền nội bộ' để đóng bản doanh ở Giao Chỉ...
Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện dẫn độ đại binh sang xâm lược nước ta. Bà Trưng và các chiến tướng đã dẫn quân đối địch. Nhiều trận đánh đã xảy ra ở Lãng Bạc, Cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5 năm 43, Hai Bà Trưng thất bại và đã tự vẫn ở dòng sông Hát Giang. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã anh dũng hi sinh. Nữ anh hùng Lê Chân đã ngăn chặn quân giặc bằng cách lấp suối, ngăn sông, và đánh bại thủy binh giặc. Vào cuối năm 43, Lê Chân đã hy sinh anh dũng trên chiến trường ở vùng Lạt Sơn, Kim Bảng, nơi ghi nhận lòng dũng cảm anh hùng của người phụ nữ Việt Nam.
Để tưởng nhớ công lao vĩ đại của nữ anh hùng Lê Chân, dân làng An Biên đã xây dựng đền thờ được gọi là đền Nghè, một trong những di tích lịch sử uy nghiêm của thành phố Cửa Biển.
Kể về Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ
Trong số những tấm gương hiếu học, em ngưỡng mộ nhất chính là bà Nguyễn Thị Duệ. Bà là nữ tiến sĩ duy nhất trong thời kỳ phong kiến của nước ta. Trong suốt cuộc đời, bà đã có nhiều đóng góp cho đất nước.
Nguyễn Thị Duệ sinh sống vào thời nhà Mạc, là người dân ở tỉnh Hải Dương. Từ nhỏ, bà đã được biết đến với sự thông minh và nhan sắc. Năm 1592, khi chúa Trịnh Tùng đánh chiếm kinh đô Thăng Long, nhà Mạc đã phải lên Cao Bằng. Nguyễn Thị Duệ và gia đình cô cũng đi theo.
Bà Duệ là một người hiếu học, nhưng vào thời đó, pháp luật không cho phép phụ nữ học hành và thi cử. Vì vậy, bà đã phải giả trai để đi thi. Trong kỳ thi Hội năm 1594, bà đã sử dụng tên giả là Nguyễn Du và đỗ đầu khi mới 20 tuổi. Khi vua Mạc Kính Cung phát hiện ra, bà không bị trừng phạt mà còn được khen ngợi là nữ nhi vượt bậc. Sau đó, vua mời bà vào cung để dạy học cho các phi tần và công chúa. Bà được tuyển làm phi và hiệu là Tinh Phi, nên được biết đến với biệt danh Bà Chúa Sao.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh tiến lên Cao Bằng tiêu diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ phải lẩn trốn trong rừng, nhưng bị quân lính bắt được. Nhìn thấy bà có tài năng, vua Lê và chúa Trịnh đã để bà tiếp tục dạy học trong vương phủ. Bà luôn quan tâm đến việc thi cử và bồi dưỡng nhân tài. Phần lớn các bài thi đình, thi hội đều được bà kiểm tra. Mỗi tháng, bà cùng các nhà giáo đến dạy và ôn tập cho các sinh viên. Bên cạnh đó, bà cũng xin triều đình cấp ruộng cho những học sinh nghèo biết chăm chỉ.
Năm 70 tuổi, Nguyễn Thị Duệ quyết định về nghỉ ở quê nhà. Bà sống hơn 80 tuổi trước khi qua đời. Sau khi mất, người dân địa phương đã lập đền thờ và tôn bà làm phúc thần. Mỗi khi nhớ về bà, tôi lại cảm phục với tài năng và sự cố gắng không ngừng của bà. Điều đó đã làm động viên tôi tiếp tục nỗ lực học hành hơn.