
Khi xây dựng và quy hoạch thành phố Hà Nội, người Pháp đã chú ý đến việc trồng cây xanh trên các hè phố, mang tính đặc trưng của xứ nhiệt đới. Phân loại và trồng cây theo từng tuyến phố là một đặc điểm độc đáo mà người Pháp đã thực hiện. Ngày nay, cư dân thủ đô vẫn nhớ và ấn tượng với các tuyến phố được trang bị cây xanh đặc trưng.
Phố Phan Đình Phùng, được biết đến là trung tâm của thành phố, là nơi tập trung những ngôi nhà kiểu Pháp sang trọng. Đường phố rộng lớn, có hè rộng và được trang trí bởi hai hàng cây xanh, điều hiếm có ở bất kỳ phố nào khác ở Hà Nội. Cây sấu được trồng nhiều trên phố Phan Đình Phùng, một số đã trở thành cây thụ thời gian dài.
Ngoài phố Phan Đình Phùng, một số tuyến phố khác của Hà Nội như phố Trần Hưng Đạo, một phần của phố Bà Triệu cũng được trang trí bằng cây xanh. Cây sấu với tán lá rậm rạp và mát mẻ được trồng nhiều, mang lại bóng mát cho đường phố.
Trái sấu, loại quả được coi là biểu tượng của Hà Nội từ ngày xưa. Sấu xanh thường được sử dụng để làm giấm cho món rau sống, nấu canh chua hay ngâm trong nước để uống. Khi chín, trái sấu thường được chế biến thành mứt sấu, sấu dầm, hoặc tương giấm... Các em nhỏ ở Hà Nội, sinh sống gần các con phố trồng sấu nhiều, không bao giờ quên những buổi mưa rào xôn xao, khiến quả sấu chín rụng xuống đường.
Người Hà Nội luôn ghi nhớ hình ảnh những người hái sấu leo lên cây bằng dây thừng dày và chiếc bị cói, thu hoạch quả vào cuối mùa hè. Người dân Hà Nội khi đến Nam, vào mùa hè cũng mong muốn được nhận một gói quà là trái sấu chín từ thủ đô để giảm nhớ.
Trên đoạn đường qua hồ Thiền Quang, phố Bà Triệu và phố Nguyễn Du trồng nhiều cây hoa sữa. Mùi hương của hoa sữa thường được ca ngợi trong nhiều bài hát, nhưng có lẽ những nhạc sĩ ấy chưa từng sống gần những hàng cây hoa sữa lâu dài để cảm nhận thực sự. Thực ra, mùi hương của hoa sữa khá nồng. Nếu chỉ trồng một vài cây rải rác và ngửi mùi hương thoang thoảng từ xa thì mới thấy dễ chịu. Nhưng nếu sống gần, mỗi khi hoa nở, mùi hương sẽ trở nên quá đậm và cảm giác khó chịu, thậm chí đau đầu.
Những ngày đầu tiên xây dựng con đường chạy quanh hồ Tây, từ Tam Đa đến Trích Sài, những cây hoa sữa đã được trồng dọc đường hy vọng tạo nên một bức tranh thơ mộng cho chiều thu, như trong lời ca của bài hát. Nhưng chỉ sau một mùa hoa nở, hầu hết các cây hoa sữa đã phải di dời, chỉ còn lại một số ít làm điểm nhấn, mang mùi hương thoang thoảng trong gió của hồ Tây.
Cây xà cừ được coi là loại cây phổ biến nhất ở Hà Nội. Chúng được trồng nhiều trên phố Hoàng Diệu, phố Nguyễn Tri Phương, trong khu vực của thành Hà Nội, xung quanh bốt Hàng Đậu, và trong khuôn viên của trường Chu Văn An từ thời Pháp... Hầu hết đã trở thành cây già từ lâu.
Sau năm 1959, các con phố Trần Nhân Tông, Quang Trung, đường Nam Bộ, trong Công viên Thống Nhất, và khu tập thể Kim Liên đều được trồng cây xà cừ để tham gia vào phong trào Tết trồng cây hàng năm. Dù trải qua nhiều cơn giông bão, nhiều cây xà cừ gốc to, đủ lớn để hai người ôm được, vẫn tồn tại. Có người nói rằng do xà cừ không có hệ thống rễ cọc sâu vào đất như cây sấu nên dễ bị đổ. Nhưng trên những con phố trên vẫn còn rất nhiều cây xà cừ.
Hà Nội có nhiều loại cây gắn liền với tên của các phố, nhưng trong tâm trí của tôi, ấn tượng nhất vẫn là những cây gạo trồng trên đường Hoàng Hoa Thám và trong vườn cây La Pho gần vườn Bách Thảo.
Cây gạo không được trồng dày, nhưng to và cao vút. Cây gạo thường nở hoa vào đầu mùa xuân, khi lá cũ đã rụng hết. Bông hoa gạo rất lớn, có đến năm cánh màu đỏ rực. Nhìn từ xa, cây hoa gạo đỏ rực không bị lẫn với bất kỳ màu xanh nào. Hoa gạo đang tàn cũng là lúc cây bắt đầu mọc lá mới.
Khi quả gạo chín, chúng sẽ bung ra những sợi bông trắng và hạt bay đi theo gió. Tuy nhiên, cũng có nhiều quả gạo rơi xuống mặt đất trước khi chín hoàn toàn. Lớp vỏ của những quả gạo này có thể được sử dụng để đựng trong gối, thay thế cho bông dù chất lượng không cao bằng.
Những năm sống ở trường Chu Văn An với bà nội, chị em tôi thường dạo chơi dưới bóng cây gạo, nhặt hoa về. Vào đầu hè, khi quả gạo đã chín, chúng lại thu hoạch bông gạo để nhồi gối cho bà nội.
Hà Nội có ba loại cây gỗ không ra quả nhưng lại nở hoa đẹp, tô điểm cho mùa xuân và mùa hè. Nếu hoa gạo là biểu tượng của mùa xuân với màu đỏ không lẫn vào màu xanh lá cây, thì hoa phượng đỏ là điều duy nhất làm đẹp mùa hè. Khi màu đỏ của hoa gạo kết thúc, hoa phượng lại nở. Dù cây còn lá xanh nhưng màu đỏ của hoa phượng vẫn ánh lên mọi ngóc ngách, đặc biệt khi có nắng. Màu đỏ đó thường khiến người ta ngắm nhìn từ xa.
May mắn khi mùa hè có hoa phượng cũng là lúc hoa bằng lăng nở. Hoa bằng lăng nở sau hoa phượng nhưng tàn sớm hơn. Khi cả hai loài hoa đồng thời nở, màu tím của hoa bằng lăng dường như làm dịu đi màu đỏ của hoa phượng; đồng thời nhờ màu đỏ của hoa phượng, màu tím của hoa bằng lăng trở nên tươi sáng hơn.
Những người đi xa thường nhớ nhà khi nhìn thấy những cảnh quen thuộc. Khi tôi còn trong quân ngũ, tôi từng bị cuốn hút bởi những cây gạo nở hoa ở vùng đất Tây Nguyên. Từ xa, tôi chỉ thấy màu đỏ rực của hoa gạo trên bầu trời xanh, điểm thêm vài đám mây trắng. Tôi cũng từng lặng người khi nhớ về Hà Nội, nhớ về những hàng cây bằng lăng ở công viên Thống Nhất, trên đảo Dừa khi thấy một rừng cây bằng lăng cổ thụ, tạo thành một màu tím dày đặc. Tôi ngắm nhìn hoa và mơ ước về những ngày trở về.
Theo 'Có một Hà Nội trong tôi' (Vũ Công Chiến)