Hôm nay, Mytour sẽ giới thiệu đến tất cả các bạn một số tài liệu mẫu lớp 12: Bàn luận về khả năng của Văn học trong việc tạo ra tính nhân đạo cho con người, đây là nguồn thông tin hữu ích đã được đội ngũ của chúng tôi thu thập từ những bài văn xuất sắc nhất của các bạn học sinh giỏi lớp 12.
Hi vọng rằng với tài liệu này thì các bạn sẽ có thêm nhiều phương pháp viết bài văn bàn luận xã hội lớp 12, cũng như có thêm công cụ để chuẩn bị cho kỳ thi THPT Quốc gia sắp tới. Dưới đây, mời quý thầy cô và các bạn cùng tham khảo phác thảo và một số bài văn mẫu bàn luận về ý kiến Văn học có khả năng nhân đạo hóa con người.
Phác thảo bàn luận về ý kiến Văn học có khả năng nhân đạo hóa con người
I. Khởi đầu:
- Giới thiệu quan điểm: Văn học có khả năng làm cho con người trở nên nhân đạo hơn.
II. Nội dung chính:
a. Định nghĩa về văn học chân chính:
- Văn học chân chính là loại hình văn học đặt con người vào trung tâm để khai thác, phải tôn trọng giá trị của con người, đi sâu vào cuộc sống con người, lấy chủ nghĩa nhân đạo làm căn cứ.
- Văn học không chân chính là những tác phẩm đặc sắc về hình thức, ngôn từ tinh tế, nhưng không mang tính nhân văn, đôi khi còn làm giảm phẩm giá và đạo đức của người đọc, mô phỏng những điều xa xỉ trong cuộc sống, thậm chí trở thành vỏ bọc cho sự tàn bạo, tham nhũng của một tầng lớp thống trị sa sút.
=> Chỉ có văn học tập trung vào con người từ xưa đến nay mới có thể tồn tại mãi mãi và trở thành bất diệt vì nó 'chứa đựng một cái gì to lớn, mạnh mẽ, đầy cảm xúc và đau thương nhưng cũng đầy niềm vui. Nó ca ngợi lòng nhân ái, tình thương, sự công bằng... Nó làm cho con người gần gũi nhau hơn'.
b. Nền tảng nhân văn của văn học chân chính:
- Văn học sử dụng cảm xúc để điều chỉnh, củng cố tâm trạng của con người.
- Văn học là biểu hiện của tấm lòng yêu thương sâu sắc của người nghệ sĩ dành cho con người.
- Văn chương chính là sự phản ánh chân thực của thế giới vào lòng người viết, nơi mà ta cảm nhận được tâm trạng, cảm xúc tinh tế và nhạy bén của tác giả trước các sự kiện trong xã hội, từ đó người đọc có thể tự suy ngẫm về bản thân mình.
c. Làm thế nào văn chương nhân đạo hóa con người?
- Văn học đã giúp con người nhận biết, thông cảm và chia sẻ cảm xúc với nhau, làm cho tinh thần con người trở nên nhạy cảm hơn trước sự thay đổi cảm xúc và cuộc sống của nhân vật, từ đó con người trở nên có lòng nhân ái hơn, rộng lượng hơn. (phân tích từ 2-3 ví dụ).
- Văn chương đã giúp con người thực hiện quá trình làm sạch tâm hồn, tự nhìn nhận bản thân và tự ý thức cải thiện bản thân để trở nên tốt hơn thông qua những bài học và triết lý nhân sinh được nghệ sĩ truyền đạt trong tác phẩm của mình (phân tích một số ví dụ để minh họa).
III. Kết luận:
- Phát biểu quan điểm cá nhân.
Nghị luận về ý kiến Văn học có khả năng nhân đạo hóa con người - Mẫu 1
Nhớ lại lời của M. Gorki: 'Văn học là nhân học', nghĩa là văn học không chỉ là sản phẩm trí tuệ của con người mà còn là công cụ giáo dục, bồi dưỡng con người trong nhiều mặt xã hội như tăng cường nhận thức, nuôi dưỡng tình cảm, động viên và làm cho tâm hồn mềm dần để lắng nghe những tiếng động của cuộc sống... Văn chương không chỉ làm thay đổi thế giới mà còn làm thay đổi con người, đặc biệt là văn học chân chính có khả năng nhân đạo hóa con người.
Tại sao chỉ có văn học chân chính mới có thể nhân đạo hóa con người mà không phải là các loại văn học khác? Để hiểu rõ điều này, ta cần xác định văn học chân chính là gì, đó là loại văn học đặt con người vào trung tâm để khai thác, tôn trọng giá trị của con người, đi sâu vào cuộc sống của loài người, lấy chủ nghĩa nhân đạo làm nền tảng. Theo Nam Cao: 'Một tác phẩm thực sự giá trị phải vượt lên trên mọi giới hạn và kỳ vọng, nó phải là một tác phẩm dành cho cả nhân loại. Nó phải chứa đựng một điều gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đầy đau thương nhưng cũng đầy hy vọng. Nó ca ngợi lòng nhân ái, tình thương, sự công bằng... Nó làm cho con người trở nên gần gũi nhau hơn'. Ngược lại, văn chương không chân chính là những tác phẩm về hình thức, ngôn từ tinh tế, nhưng không mang lại giá trị thay đổi nhận thức của con người. Đôi khi, nó còn làm mất phẩm giá và đạo đức của người đọc, tạo ra những hình ảnh xa xỉ về cuộc sống, thậm chí làm nền cho sự bất công và tàn ác của một tầng lớp thống trị suy đồi... Có thể phân loại văn chương chân chính và không chân chính dựa trên lời của Nguyễn Văn Siêu: 'Văn chương có loại đáng thờ và không đáng thờ. Loại không đáng thờ là loại chỉ tập trung vào văn chương, loại đáng thờ là loại tập trung vào con người'. Vì vậy, chỉ có văn học chân chính với chủ nghĩa nhân đạo là vững vàng trong thời gian và trở thành bất diệt, còn những tác phẩm khác, dù đẹp đẽ nhưng xa rời nhân sinh, sớm muộn cũng bị lãng quên, vì chúng không có sức mạnh đánh thức cảm xúc chân thực và tình yêu thương từ người nghệ sĩ. Có thể kể đến một số tác phẩm lớn với chủ nghĩa nhân đạo luôn được tôn vinh của Việt Nam và thế giới như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Les Misérables của Victor Hugo, Romeo và Juliet của Shakespeare, War and Peace của Leo Tolstoy, Gone with the Wind của Margaret Mitchell, No Family của Hector Malot,... Mỗi tác phẩm có cách tiếp cận chủ nghĩa nhân đạo riêng, và đôi khi vẫn còn bị chỉ trích vì cách giải quyết mâu thuẫn không phản ánh đúng với xã hội hiện đại nhưng giá trị nhân đạo ẩn chứa trong đó thì không thể phủ nhận.
Tại sao tôi cho rằng nhân đạo hóa con người là khía cạnh mà văn học thực hiện tốt nhất và nổi bật nhất? Bởi vì như câu 'Dĩ độc trị độc' của ông cha ta, văn chương cũng sử dụng cảm xúc để điều chỉnh, củng cố cảm xúc của con người. Mỗi nghệ sĩ khi viết tác phẩm thường phải dùng tấm lòng và linh hồn của mình, phải sử dụng tất cả tài năng và trí tuệ, đầy đủ cảm xúc về một phát hiện trong cuộc sống khiến tâm hồn họ đắc đỏm. Enxa Tơriole đã nói: 'Nhà văn là người cho máu', người nghệ sĩ phải coi văn chương như máu thịt của mình, phải viết với hồn xác của mình để đạt được xúc cảm chân chính nhất. Vì vậy, văn chương thực sự là biểu hiện của việc phản ánh thế giới khách quan vào tâm hồn của người viết. Ở đó, người ta nhìn thấy tâm tư, tình cảm hỉ, nộ, ái, ố tinh tế, nhạy bén của tác giả trước các sự kiện xã hội để so sánh với bản thân mình. Đương nhiên, người nghệ sĩ muốn tác phẩm của mình đạt được sự động viên, thay đổi nhận thức của độc giả, họ phải tập trung vào con người, khai thác các khía cạnh thực tế của cuộc sống, cả hạnh phúc lẫn khổ đau, tích cực lẫn tiêu cực. Viết sao cho thật chân thực, sinh động, hấp dẫn người đọc, để họ cảm nhận được tình yêu thương con người sâu sắc của nghệ sĩ. Như L.Tôn xtôi đã nói: 'Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu. Tình yêu con người, ước mơ cháy bỏng vì một xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái luôn luôn thôi thúc các nhà văn sống và viết, hiến dâng tất cả suy nghĩ, cống hiến bầu máu nóng của mình cho nhân loại'. Tóm lại, 'nghệ thuật vị nhân sinh' phải là thước đo giá trị cho mọi tác phẩm văn học, cũng là thước đo cho khả năng nhân đạo hóa của một tác phẩm văn học chân chính.
Vậy văn học chân chính đã nhân đạo hóa con người như thế nào? Trước hết, văn học đã làm cho con người biết nhận thức, biết thông cảm, biết xót thương cho đồng loại. Truyện Kiều của Nguyễn Du là một kiệt tác về thơ ca Việt Nam, là tiếng khóc của những kiếp người đau khổ dưới chế độ phong kiến, tố cáo bất công xã hội và đau thương của nữ nhân trong xã hội đó. Một tác phẩm mang nhiều giá trị nhân văn, nhân đạo như vậy đã trở thành biểu tượng của văn học dân tộc, thúc đẩy con người nhận thức sâu sắc về một giai đoạn lịch sử của dân tộc và thúc đẩy họ đứng lên thay đổi thế giới, thay đổi cuộc sống. Các tác phẩm khác như Đời Thừa, Chí Phèo, Sống Mòn, Vợ Nhặt của Nam Cao; Lão Hạc của Kim Lân; Tắt Đèn của Ngô Tất Tố; Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài; Người Ngựa Ngựa Người, Kép Tư Bền, Tinh Thần Thể Dục của Nguyễn Công Hoan... cũng đều đem lại cho độc giả sự thấu hiểu và cảm thông sâu sắc về con người, làm cho tâm hồn con người trở nên tinh tế hơn, nhạy cảm hơn trước sự biến động cảm xúc và cuộc đời của nhân vật. Từ đó, con người trở nên nhân từ hơn, rộng lượng hơn.
Quá trình nhân đạo hóa của văn chương không chỉ dừng lại ở việc gợi lòng thương cảm, trắc ẩn trước những số phận bất hạnh trong xã hội hay sự bất bình trước cái khốn nạn của chế độ cũ, mà quan trọng hơn cả là văn chương đã giúp con người thanh lọc tâm hồn. Như Hoài Thanh đã nói: 'Văn chương gây cho ta những tình cảm ta không có luyện những tình cảm ta sẵn có', hoặc như Thạch Lam: văn chương 'làm cho lòng người đọc thêm trong sạch và phong phú hơn'. Tính chất cốt lõi của văn chương là khiến con người tự nhìn nhận lại mình, tự ý thức để cải thiện bản thân thông qua bài học, triết lý nhân sinh mà người nghệ sĩ gửi gắm trong tác phẩm. Lục Vân Tiên và các tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đã nhân đạo hóa con người bằng cách phân biệt rõ thiện ác, hướng con người đến vẻ đẹp chân - thiện - mỹ, giáo dục bằng tư tưởng 'ở hiền gặp lành, ác giả ác báo', khẳng định chân lý cái thiện sẽ luôn chiến thắng cái ác. Hoặc như Đời thừa của Nam Cao, một tác phẩm không chỉ làm cho người đọc thông cảm với tấn bi kịch tinh thần của nhân vật, mà còn để nhận ra những triết lý sâu sắc về văn học và người nghệ sĩ, 'Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện', khẳng định đẹp tâm hồn và ước mơ cao cả của nhân vật chính giữa đau khổ và lý tưởng. Điều này thúc đẩy con người nhìn nhận lại bản thân, thái độ của mình trong cuộc sống, có ý chí thay đổi và tạo dựng ước mơ. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài không chỉ đau đớn cho số phận dưới đáy xã hội, mà còn để người đọc nhận ra vẻ đẹp tâm hồn, niềm khao khát tự do, sức sống tiềm tàng mãnh liệt, mở đường cho quá trình tiến đến cách mạng để giải phóng bản thân. Tác phẩm đã có giá trị 'nâng cao tinh thần ta lên và gợi cho ta những tình cảm cao quý và can đảm'. Xuân Diệu không chỉ làm cho người đọc thông cảm hay đau đớn, mà còn khai phá nhận thức của con người về thời gian, cuộc đời, khuyến khích lòng yêu cuộc sống, sức trẻ, lòng trân trọng những điều tươi đẹp, làm cho tâm hồn trở nên sâu sắc, giàu cảm xúc hơn.
Chung quy lại, không thể nói một cách toàn diện về khả năng nhân đạo hóa con người của văn chương, vì đó là một lãnh vực rộng lớn, mỗi nghệ sĩ lại có cách nhìn và phong cách thể hiện khác nhau. Tuy nhiên, văn chương chính là một tài sản quý giá của nhân loại, từ việc nhân đạo hóa con người, văn chương đã gián tiếp thay đổi thế giới để làm cho nó tốt đẹp và ấm áp hơn.
Nghị luận về ý kiến Văn học có khả năng nhân đạo hóa con người - Mẫu 2
Văn học từ lâu đã gắn bó với đời sống tinh thần của con người. Dưới hình thức nào đi nữa, văn học vẫn là phản ánh thế giới khách quan qua thế giới chủ thể của nghệ sĩ...
Tác phẩm nghệ thuật là sự thể hiện những tình cảm, khát vọng sâu xa của nhà văn trước cuộc sống và những vấn đề đặc biệt đối với con người. Dù viết về những sự kiện lớn: cách mạng, chiến tranh, hay chỉ diễn tả một góc nhỏ của cuộc sống, bất kỳ tác phẩm nào cũng chứa đựng hình ảnh, tâm sự của con người gửi gắm ở bên trong.
Vai trò của con người trong hoàn cảnh, là động lực cho sự phát triển xã hội, là nguồn gốc của mọi ý tưởng, sáng kiến. Con người với tất cả niềm vui, nỗi buồn, khát vọng và khổ đau luôn là trung tâm của văn học, là ưu tiên hàng đầu của những người nghệ sĩ chân chính. Tình yêu đối với con người là nguồn cảm hứng cơ bản nhất đẩy ngòi bút của mọi nhà văn chân chính.
Tolstoi đã viết: 'Một tác phẩm nghệ thuật là kết quả của tình yêu'. Goethe nói: 'Thiên nhiên cần tình yêu nồng nàn đối với cuộc sống'. Elsa Trisolet diễn tả tình yêu đó bằng hình ảnh cụ thể: 'Nhà văn là người cho máu'. Đó là một tình yêu bao gồm sự hi sinh lớn lao. Tác phẩm chân chính là sản phẩm của trí tuệ, trái tim, mồ hôi và cả nước mắt của người nghệ sĩ, là kết quả của nỗi đau, nghẹn ngào, cảm xúc dâng trào trong quá trình sáng tạo nghệ thuật, không ai sáng tạo trong trạng thái khô cằn, cảm xúc lạnh lùng. Cảm xúc có thể bắt đầu từ niềm vui, tự hào hay hy vọng, nhưng với người nghệ sĩ chân chính, không bao giờ có niềm vui nhẹ nhàng, đơn giản. Bởi cuộc sống, trong hiện thực, niềm vui luôn đi cùng với nỗi buồn, ánh sáng luôn tồn tại bên cạnh bóng tối, cái xấu luôn xen lẫn bên cạnh cái tốt, hạnh phúc thường đi kèm với đau khổ, bất hạnh... Và những đau khổ của con người luôn là nỗi đau thống khổ nhất thúc đẩy người nghệ sĩ cầm bút.
Nhà văn Xô viết V.Raxpuchin đã diễn đạt tình cảm đó một cách giản dị chân thành: 'Nếu tôi viết, đó là vì tôi cảm thấy đau ở đâu đó trong tâm hồn, với Hugo thì bể khổ của nhân loại là hầm mỏ không ngừng khai thác của cha ông. Truyện Kiều là tiếng khóc về bi thương. Chí Phèo là tiếng la hét phẫn nộ yêu cầu quyền làm người... Những tác phẩm chân chính, bất tử với thời gian thường là những tác phẩm diễn tả những xung đột có khi đầy bi kịch giữa cái thật và cái giả, giữa cái thiện và cái ác, giữa bóng tối và ánh sáng, giữa cái cao thượng và cái thấp hèn, kinh hoàng... Tuy nhiên 'như nam châm thu hút mọi thế hệ vẫn là cái cao thượng, cái tốt đẹp, cái thủy chung'. Đó chính là khả năng nhân đạo mà văn học chân chính có thể mang lại cho con người.
Ở đây cần lưu ý một số vấn đề: Nói về văn học chân chính, không phải là văn học nói chung, vì trong thế giới văn học có những tác phẩm nâng cao giá trị con người nhưng cũng có những tác phẩm làm giảm giá trị con người. Có những tác phẩm kết quả của thao thức, hy sinh, trăn trở, nhưng cũng không thiếu những tác phẩm chỉ làm công cụ, bồi dưỡng tâm hồn cho tầng lớp thống trị trong xã hội suy tàn, trống rỗng.
Có những tác phẩm văn chương sống mãi với thời gian, còn những tác phẩm sẽ bị lãng quên. Chủ nghĩa nhân đạo, lòng yêu thương và tôn trọng con người là thước đo căn bản nhất để đánh giá mọi giá trị văn học. 'Những người đau khổ' của Hugo, 'Sống lại' của L.Tolstoi, Thúy Kiều của Nguyễn Du... là những tác phẩm mà tác giả đã tiết lộ quan điểm và giải pháp cải thiện xã hội, những nhân vật đã trải qua nhiều gian truân, giằng xé, lầm lỗi... nhưng đó là những tác phẩm nghệ thuật chân chính sẽ sống mãi với thời gian; bởi sức mạnh thấu hiểu sâu sắc, bởi lòng yêu thương con người vô bờ bến, sâu thẳm bởi sự căm ghét, phẫn uất trước những thế lực xấu xa, tàn nhẫn đã hủy hoại con người.
Đó chính là ý tưởng về sự nhân đạo hóa của nhà văn, làm cho con người tin vào điều tốt lành, tin vào khả năng vươn lên cao cả, tưởng tượng thậm chí cả với những người đã chịu đựng nhiều gian khổ từ xã hội hoặc từ bản thân mình.
Nói về quá trình nhân đạo hóa của văn học không chỉ là khả năng kích thích tình cảm, động viên, thương xót cho những hoàn cảnh bất hạnh trong xã hội, mặc dù đó cũng là một phương tiện quan trọng. Chức năng nhân đạo hóa còn thể hiện qua việc nhận biết và tự nhìn nhận bản thân trước những đặc điểm tốt và xấu, đạo đức và phi đạo đức mà tác phẩm phản ánh. Có người nói về việc 'tẩy trắng' tâm hồn trong văn học, hoặc sự 'hối hận' về lương tâm khi tiếp nhận tác phẩm.
Nam Cao không chỉ muốn chúng ta cảm thông với Điền, với Thứ, với Hộ... những người sống trong cảnh 'cơm áo sát gốc', đang đối mặt với nguy cơ mất đi những ước mơ và lòng nhân ái, cao quý. Các tác phẩm của Nam Cao như một gương phản chiếu, để chúng ta nhìn thấy bản thân, không ngừng vượt qua hoàn cảnh, sống một cuộc sống đáng sống hơn, tốt đẹp hơn.
Trong tác phẩm 'Đời thừa', nếu nhân vật Hộ là một người trí thức hoàn toàn tốt, có thể tác phẩm không khiến ta cảm động như vậy. Sự đấu tranh giữa nhân cách cao quý, hành động đẹp, ước mơ cao lớn, lòng từ bi của một 'chàng trai trẻ đam mê lý tưởng' với những trở ngại hàng ngày, những sự lạc hậu trong cuộc sống, cũng như những hành vi tàn nhẫn của mình đối với người khác, tất cả đã khiến người đọc cảm thấy thương cảm và đau xót. Đó là điều tạo nên giá trị nhân văn to lớn của tác phẩm.
Chính tác phẩm 'Đời thừa' đã thể hiện giá trị thực sự mà tác giả luôn mong muốn. 'Nó mang trong mình một điều gì đó lớn lao, mạnh mẽ, đau đớn nhưng đầy phấn khởi. Nó ca tụng lòng nhân ái, tình thương, sự công bằng... Nó làm cho con người trở nên gần gũi hơn'. Những giá trị nhân văn lớn như vậy thường hình thành từ những câu chuyện nhỏ bé, nhưng được viết bằng một ngòi bút chân thực, tài năng và đặc biệt là bằng cuộc sống đầy mâu thuẫn, đau khổ và trăn trở của Nam Cao.
Ở đây, có vấn đề là viết gì và viết như thế nào. Không nên đồng nhất nội dung phản ánh và cách phản ánh. Điều quan trọng là tình cảm, trí tuệ, và thái độ tôn trọng đối với giá trị tinh thần của con người đã được ánh sáng trong từng câu văn, tạo ra sự kết nối đồng cảm và đau xót trong người đọc. Đó mới là những yếu tố thuyết phục sâu xa đối với người đọc.
Đọc 'Đời thừa', ta cảm nhận như nhà văn đã chạm vào tận cùng của quá trình nhân đạo hóa. Trong 'Lão Hạc', không có điều này. Tác phẩm gợi lên sự đồng cảm của người đọc từ cái chết bi thương của lão vì tình cha và tình cảm khốn khổ của lão. Tuy nhiên, giá trị nhân đạo của tác phẩm không chỉ nằm ở đây. Đó là tình cảm tha thứ, cao thượng của một lão già nông dân đơn giản, hiền lành: có thể lão tự tử vì lòng tự trọng bị tổn thương, lương tâm đau đớn vì đã lừa dối một con chó! Phát hiện những nét đẹp nhân văn sâu xa nhất, tác phẩm đóng vai trò tích cực trong việc làm cho con người trở nên tốt đẹp, nhân ái hơn.
Ngoài ra, những câu văn tràn đầy lòng vị tha, tâm lượng, thái độ nhân từ đối với người khác và chính bản thân, cùng với những tình cảm nhân đạo, cung cấp cho chúng ta bài học về cách sống, cách đối xử, cách nhìn nhận và đánh giá con người, làm cho tâm hồn ta trở nên bình an hơn, cao thượng hơn. 'Nếu ta không có lòng hiểu biết, thì ta chỉ thấy mọi người là đê tiện, ngu ngốc, nghèo nàn, xấu xa, phỉ nhổ... Nhưng tất cả đều là lý do để ta trở nên tàn nhẫn và không thương xót bao giờ. Vợ tôi không ác, nhưng cảnh khốn khổ quá đỗi. Khi một người đau chân, liệu có thể quên đi cơn đau của mình để nghĩ đến điều gì khác. Khi con người gặp khó khăn, họ không thể nghĩ đến điều gì khác nữa. Bản tính tốt của con người bị nỗi buồn lo âu và sự ích kỷ che lấp. Tôi hiểu điều đó nên tôi chỉ cảm thấy buồn chứ không giận
Nếu mọi người đều suy nghĩ như thế, thì mối quan hệ giữa con người sẽ được cải thiện nhiều hơn. Những câu văn sâu lắng mà đẹp đẽ như vượt ra khỏi tầm của tác phẩm, nói về tình người vĩnh cửu cần có, có khả năng làm cho con người trở nên cao thượng và nhân ái hơn.
Ở đây, nhấn mạnh vào việc nhân đạo hóa để tăng cường sức mạnh cảm hóa mạnh mẽ của nghệ thuật. Con người là kết quả của sự tạo hóa, vốn có 'bản chất thiện lành'. Tuy nhiên, xã hội có thể làm mất đi phẩm giá của con người, nhưng văn chương lại có thể làm ngược lại. Tình thương, lòng nhân đạo có thể cảm hóa, thức tỉnh lương tri tiềm ẩn sâu trong tâm hồn con người, tạo điều kiện cho việc 'nhân đạo hóa' con người. Tuy nhiên, việc này không phải lúc nào cũng có thể đạt được. Nó phụ thuộc vào cách mà mỗi người tiếp nhận. Nhưng một nhà văn chân chính luôn mong muốn tác phẩm của mình mang lại một giá trị tinh thần nào đó nhằm cứu vãn con người. Ngay cả Truyện Kiều, dù Nguyễn Du đã viết:
'Câu nói khiêm tốn rằng:
'Mua niềm vui, cũng có thể chỉ là một vài phút giải trí'
Khi nhà văn ghi lại những nỗi đau của cuộc sống, anh ấy mong nhận được sự đồng cảm, những giọt nước mắt của tấm lòng:
'Hơn ba trăm năm đã trôi qua
Mọi người đều tự hỏi: 'Tại sao vẫn còn Truyện Kiều?''
Suốt hàng thế kỷ, Truyện Kiều và những tác phẩm nhân đạo của Nguyễn Du vẫn là nguồn cảm hứng và sức mạnh cho nhiều thế hệ độc giả, bao gồm cả những độc giả trẻ hiện nay:
'Dù trên chiến trường máu tanh
Mang theo 'Truyện Kiều' bước dài vẫn
(Chế Lan Viên – Gửi Kiều cho em Năm đi đánh Mỹ)
Không thể phủ nhận khả năng nhân đạo hóa của văn học đối với con người. Đọc một tác phẩm văn chính cảm thấy như đang trò chuyện với một người bạn thông minh, nhân ái, từng trải, chia sẻ niềm vui, nỗi buồn, ước mơ và niềm tin trong cuộc hành trình đầy thử thách của cuộc sống.
Hiểu biết con người, hiểu chính mình, chia sẻ nỗi đau và niềm vui, đón nhận niềm tin và nghị lực trong cuộc hành trình với mọi con người, hướng tới cái thiện và mỹ; đó là dấu hiệu của quá trình nhân đạo hóa mà văn học chân chính mang lại cho con người.
Nghị luận về khả năng nhân đạo hóa con người qua Văn học - Mẫu 3
Con người trở thành vĩ đại không chỉ bởi vẻ bề ngoài mà còn bởi cuộc sống tinh thần phong phú. Văn học chân chính giáo dục con người bằng cái thật và cái đẹp, có khả năng nhân đạo hóa con người.
Văn học giúp con người nhận thức sâu hơn, mở rộng tầm nhìn về thế giới xung quanh. Đọc văn học, chúng ta hiểu được quá khứ, hiện tại và tương lai của loài người. Tác phẩm như “Bình Ngô Đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du giúp chúng ta hiểu biết lịch sử và tinh thần dân tộc. Những tác phẩm khoa học viễn tưởng giúp chúng ta tưởng tượng về tương lai của xã hội. Thậm chí, những dự báo trong các tác phẩm văn học hiện đại cũng mở ra nhiều suy tư mới.
“Đã về thành phố xa xôi
Nhưng lòng vẫn nhớ quê hương
Phố đông vẫn nhớ về ngôi làng
Dù đèn sáng vẫn nhớ ánh trăng giữa rừng.”
Khi nhà văn G.Mac Ket (đoạt giải Nobel năm 1983) nói rằng “Sự thương cảm của con người không bao giờ có điểm dừng” đã khiến mọi người suy ngẫm sâu sắc hơn về ý nghĩa của lòng nhân ái.
Trong văn học, chúng ta thấy hai hướng chính: một là những nhân vật cao thượng, anh hùng, và hai là những thân phận bé nhỏ, bi kịch. Hướng đầu tiên là ước mơ cao cả của loài người, khi mà những anh hùng như Prômêtê, Đôn Ki Sốt, Giăng Van Giăng, Lương Sơn Bạc, Thánh Gióng, Từ Hải... hướng con người đến những tình cảm cao thượng. Hướng thứ hai như một liều thuốc chống vô cảm, khi những Thúy Kiều, Trương, Tám Bính, chị Dậu... khiến trái tim chúng ta rung động.
Những câu chuyện văn học làm chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc sống, cảm nhận sâu sắc về con người và xã hội. Đọc văn học, chúng ta mở lòng, mở trí và mở cửa sổ tâm hồn đón nhận cái mới mẻ, cái đẹp đẽ của thế giới xung quanh.
Hướng này, nhưng sâu hơn, những nhà văn chiếu sáng vào tâm hồn của những con người bị lạc lối, để họ nhận ra rằng mình vẫn còn một chút nhân từ. Nếu xã hội bằng phẳng, nó có thể cứu vớt những linh hồn đã mất. A.Q, Chí Phèo, Binh Chức, Năm Thọ đều thể hiện sự hiểu biết về con người, kêu gọi xã hội không nên đẩy con người vào con đường tội lỗi.
Sức mạnh của văn học thực sự là ở việc lên án những thế lực đen tối, tàn bạo trong xã hội, đánh đập cuộc sống của con người. Văn học đã truyền sức mạnh cho con người chống lại cái ác, tiêu diệt những xã hội đen tối.
Cái chết bi thảm của Rômêô và Giuliét làm giảm bớt xung đột gia tộc. Bi kịch giúp làm sạch tình yêu của con người.
Nguyễn Du đã vẽ nên những hình ảnh đáng sợ như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến… khiến con người kinh sợ trước cái xấu, cái ác, cái bạo lực.
Những nhân vật trong văn học thực tế như Nghị Quế, Nghị Lại, Nghị Hách, Bá Kiến, Xuân tóc đỏ… thể hiện xã hội thực dân phong kiến đen tối, tàn bạo. Văn học cũng ca ngợi những nỗ lực thay đổi, làm cho hoàn cảnh trở nên nhân đạo hơn. Lục Vân Tiên, Chị Dậu, Bà Má Hậu Giang đều là những ví dụ rõ ràng về sức mạnh chính nghĩa.
Văn học chân chính có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện đạo đức và nhân cách của con người, giúp họ sống một cuộc sống đẹp đẽ hơn. Đồng thời, văn học cũng giúp con người hiểu biết về xã hội và tự nhiên, đồng thời khuyến khích họ tự cải tổ và hoàn thiện bản thân. Các tác phẩm như “Đôi mắt” của Nam Cao, “Con cá chột nửa” của Tố Hữu, và “Chữ người tử tù” tôn vinh những giá trị cao quý trong cuộc sống.
Thơ trữ tình có ảnh hưởng sâu sắc vào tâm trí của độc giả, truyền đạt một tình yêu mãnh liệt đối với cái đẹp và cao cả, đồng thời khuyến khích sự căm ghét đối với cái xấu và tàn bạo. Điều này làm cho thơ trữ tình trở thành một công cụ giáo dục mạnh mẽ đối với con người.
Khổng Tử đã nhận xét về Kinh Thi của Trung Quốc, nhấn mạnh vai trò của văn học chân chính trong việc cảm hứng, mở mang tầm nhìn và đoàn kết con người để đấu tranh cho cái thiện. Văn học chân chính cũng có khả năng kích thích lòng căm phẫn trước cái xấu và tàn bạo, đồng thời nhân đạo hóa con người.