Bàn luận về việc bảo tồn bản sắc văn hóa qua truyện ngắn Một người Hà Nội (tóm tắt)
Đề bài: Bàn luận về việc bảo tồn bản sắc văn hóa qua truyện ngắn Một người Hà Nội của Nguyễn Khải.
Bàn luận về việc bảo tồn bản sắc văn hóa qua truyện ngắn Một người Hà Nội - mẫu 1
Với người sinh ra và lớn lên tại Hà Nội, nhà văn Nguyễn Khải đã phản ánh sâu sắc văn hóa của thủ đô trong tác phẩm “Một người Hà Nội”. Tác phẩm không chỉ đơn thuần là câu chuyện của một nhân vật mà còn là hình ảnh của đất và người Hà Thành. Cô Hiền - nhân vật chính của tác phẩm - không chỉ là biểu tượng cho vẻ đẹp của phụ nữ Hà Nội mà còn là biểu tượng cho sự trường tồn và gìn giữ bản sắc văn hóa của dân tộc. Nhà văn đã đi sâu vào từng chi tiết cuộc sống hàng ngày, từ lời nói, hành động đến cả suy nghĩ của nhân vật để thể hiện những giá trị văn hóa truyền thống của Hà Nội. Qua tác phẩm, chúng ta cảm nhận được sự thanh cao, sâu sắc và đậm đà của văn hóa Hà Nội, giúp cho việc bảo tồn và phát huy giá trị của nó trở nên càng trọng đại hơn.
Bàn luận về việc bảo tồn bản sắc văn hóa qua truyện ngắn Một người Hà Nội - mẫu 2
Dẫu không thơm cũng có thể hoa nhài
Hoa nhài cũng thể không thanh lịch
(Câu ca dao)
Câu ca dao ấy thực sự đã tóm tắt những phẩm chất thanh lịch của người dân Tràng An từ lâu. Những nét đẹp ấy đã in sâu vào lòng mỗi người con của vùng đất này. Nhà văn Nguyễn Khải, sinh ra và lớn lên tại đất kinh kỳ, đã khéo léo thể hiện sự nhạy cảm và tinh tế của mình trước những nét văn hóa đặc trưng của Hà Nội trong truyện ngắn “Một người Hà Nội” thuộc tập “Hà Nội trong tôi”. Tác phẩm không chỉ là việc bảo tồn và tôn trọng những giá trị văn hóa đặc biệt của đất nước, không chỉ là sự tiếc nuối về sự mai một của văn hóa, mà còn là nguồn cảm hứng để mỗi người chúng ta suy ngẫm về việc giữ gìn bản sắc văn hóa trong cuộc sống ngày nay.
Có thể nói, “Một người Hà Nội' là một tác phẩm truyện ngắn thành công của Nguyễn Khải. Tác phẩm xoay quanh nhân vật chính là bà Hiền và mối quan hệ của bà với sự thay đổi của thời cuộc. Tất cả những phẩm chất tinh túy nhất của người dân Tràng An dường như đều hiện diện trong nhân vật này. Điểm đặc biệt của tác phẩm là việc tác giả không tập trung vào những sự kiện lớn, mà thay vào đó là những chi tiết hàng ngày, giản dị, nhưng vẫn làm nổi bật những đặc điểm tính cách độc đáo của nhân vật. Những suy nghĩ thanh cao của bà Hiền được thể hiện qua mọi hành động, từ cách bà chọn chồng cho đến cách bà dạy con, quản lý gia đình. Bằng lòng với sự hi sinh của con trai trong chiến trường, bà vẫn giữ vững niềm tin vào sự trường tồn vĩnh cửu của văn hóa Hà Nội.
Tuy nhiên, câu chuyện của Nguyễn Khải không chỉ dành cho người dân Hà Nội mà còn gửi thông điệp về việc giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc đến mọi người Việt Nam. Văn hóa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội, và nó luôn tồn tại và phát triển theo thời gian. Bảo tồn bản sắc văn hóa là bảo tồn những đặc trưng riêng của mỗi dân tộc, góp phần quan trọng vào sự hình thành của một quốc gia độc lập. Đó là lý do tại sao việc tôn trọng và bảo tồn văn hóa luôn được coi trọng.
Bảo vệ tinh thần dân tộc ở ở người dân
Trước tiên là đánh giặc, sau đó là xây nhà
Như dòng nước Việt từ xa xưa
Nổi tiếng với nền văn hóa từ lâu
Mỗi dân tộc cần có văn hóa riêng, giống như mỗi người phải có cá tính để tạo nên bản sắc cá nhân. Sự tồn tại của một quốc gia phụ thuộc vào việc nhớ đến nó, và văn hóa là yếu tố quan trọng tạo nên bản sắc dân tộc. Văn hóa Việt Nam đơn giản nhưng sâu sắc, thể hiện sự kiên cường và tinh tế của con người Việt Nam. Truyền thống văn hóa là nguồn gốc của lòng tự hào và niềm tin vào tương lai của dân tộc. Văn hóa là 'vàng son' của quá khứ, đồng thời cũng hình thành phẩm chất tốt đẹp của con người. Những công trình kiến trúc và di tích lịch sử không chỉ thể hiện văn hóa độc đáo của Việt Nam mà còn quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới. Giữ gìn văn hóa là bảo vệ bản sắc riêng biệt của dân tộc, và cần sự tham gia của mọi người.
Trong thế giới hiện đại, việc giao lưu văn hóa với các quốc gia khác mang lại nhiều cơ hội, nhưng nếu không giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, chúng ta sẽ mất đi những giá trị độc đáo. Hòa nhập không phải là hoà tan, và mỗi người cần có ý thức bảo vệ văn hóa của dân tộc mình. Cần có biện pháp phù hợp để bảo tồn những di tích lịch sử và giữ gìn giá trị văn hóa. Việc này không chỉ là trách nhiệm của cá nhân mà còn của toàn xã hội.
Trong cuộc sống, không phải lúc nào chúng ta cũng có thể bảo tồn văn hóa do có những biến cố như chiến tranh, thiên tai có thể làm cho các công trình văn hoá suy yếu. Mặc dù vậy, chúng ta vẫn nỗ lực hàng ngày để bảo tồn phố cổ Hà Nội, chùa Một Cột,... Việt Nam đã được UNESCO công nhận một số di sản văn hoá là di sản văn hoá thế giới, chứng tỏ nỗ lực không ngừng của chúng ta trong việc bảo tồn giá trị văn hoá dân tộc. Dù cuộc sống hiện đại hối hả, nhưng sâu thẳm trong mỗi người là tâm hồn Việt, cốt cách Việt. Bảo tồn văn hóa không có nghĩa là không giao lưu, học hỏi. Mỗi nền văn hoá có những điểm mạnh riêng. Tiếp nhận một cách hợp lý và lựa chọn sẽ làm phong phú thêm vốn văn hoá của dân tộc.
Giữ gìn bản sắc văn hoá không chỉ quan trọng với cộng đồng mà còn đối với từng người vì những giá trị văn hoá hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Tạ ơn Nguyễn Khải với tác phẩm 'Một người Hà Nội', qua đó ta nhận ra rằng văn hoá là một phần quan trọng của cuộc sống, và dù có những thay đổi, 'nếp sống tốt đẹp của cha ông vẫn lặng lẽ chảy trong cuộc sống ồ ạt ngày nay'.
Bài luận về việc bảo tồn bản sắc văn hoá qua truyện ngắn Một người Hà Nội - mẫu 3
'Đất nước, dân tộc có giá trị cao quý nhất ở giá trị văn hóa...' (Phạm Văn Đồng)
Nếu nghệ thuật là một phần đặc trưng của văn hóa, thì văn học là gương mặt tiêu biểu cho văn hóa tinh thần của mỗi dân tộc. Văn học là nơi tập trung những giá trị văn hoá bền vững của dân tộc, và có vai trò quan trọng trong việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay.
Trong thời đại toàn cầu hóa, văn hóa dân tộc đang đối mặt với sự tấn công của các luồng văn hóa từ bên ngoài. Cuộc sống hiện đại đang thay đổi cách sống chậm rãi, thiền thức của dân tộc Việt. Nhưng bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống là thách thức mà chúng ta phải đối mặt trong thời đại này.
Văn học là biểu tượng của tinh thần văn hóa của mỗi dân tộc. Trong bối cảnh đó, văn học phải đảm nhận một nhiệm vụ quan trọng: bảo tồn, tôn vinh những giá trị văn hóa bền vững của dân tộc. Văn học là sự phản ánh của hiện thực, nhưng là sự phản ánh đặc biệt: phản ánh kèm theo nhận thức, phản ánh kèm theo biểu hiện, phản ánh kèm theo sáng tạo. Do đó, thế giới hiện thực trong văn học phải là thế giới đã qua sàng lọc và được tái tạo sáng tạo, có tác động đến nhận thức, tình cảm của người đọc, đưa con người đến với cái chân thực, thiện lành, và đẹp đẽ. Thế giới nghệ thuật trong văn học càng thêm sâu sắc bản sắc dân tộc thì càng có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và bảo vệ nó. Nếu văn học tôn vinh những vẻ đẹp truyền thống, thể hiện sức sống mạnh mẽ giữa xô bồ, hỗn tạp, thì văn học đó có ý nghĩa làm hướng dẫn con người tìm kiếm những giá trị thực sự. Vì ai có thể không cảm động trước cái đẹp, đặc biệt là cái đẹp đã được lọc qua trí tưởng tượng và trái tim nhạy cảm của nhà văn?
Những chàng trai và cô gái trẻ đang mải mê theo đuổi xu hướng thời trang Hàn Quốc, liệu họ đã nhận ra sự duyên dáng, đằm thắm và tình tứ gợi cảm của hình ảnh cô gái trong thơ quan họ của Hoàng Cầm:
Khi bước về phía bên kia dòng sông Đuống
Anh lại gặp em
Em mặc yếm màu thắm
Em thắt đai lụa hồng
Em đi trẩy hội dưới núi sông
Mỉm cười dưới ánh sáng của mùa xuân rạng ngời.
Đó là vẻ đẹp mang dấu ấn của truyền thống. Những 'yếm thắm, lụa hồng' có thể đã trở thành lạ thường, nhưng quan trọng hơn hết vẫn là nét đặc trưng của dân tộc hiện hữu trong vẻ đẹp dịu dàng, mềm mại, và ánh mắt rạng ngời của cô gái. Nó khơi gợi vẻ đẹp thuần túy của Việt Nam.
Dù hàm răng đen (một xu hướng thời trang của phụ nữ xưa) có thể không phù hợp với thời đại hiện nay, nhưng trong văn học, nó vẫn giữ lại một vẻ đẹp đặc biệt:
Những cô gái với hàm răng đen
Mỉm cười như ánh nắng mùa thu
(Bên kia dòng sông Đuống - Hoàng Cầm)
Nụ cười ẩn sau những dải áo đen
Dưới ánh nắng gay gắt của buổi trưa hè rộn ràng
(Nắng mới - Lưu Trọng Lư)
Vẻ đẹp tươi tắn, sảng khoái của nụ cười ấy chính là bản sắc của phụ nữ truyền thống, những người 'giữ lửa' cho gia đình và xã hội, dù gặp nhiều khó khăn, gian khổ, nhưng vẫn toát lên sức sống mạnh mẽ và tâm hồn giàu tình thương.
Cuộc sống ngày càng trở nên hối hả, thực dụng hơn. Sự lan tỏa của văn hóa phương Tây đang làm đảo lộn không khí bình yên của đất nước. Một phần thanh niên, lớp trẻ bị ảnh hưởng bởi lối sống phương Tây, thực tế hơn và công bằng hơn. Tỷ lệ ly hôn tăng cao. Tuy nhiên, chúng ta vẫn tin tưởng vào sự bền vững của gia đình Việt, khi văn học vẫn gìn giữ những giá trị của cuộc sống gia đình:
Cùng nhau xuống bờ biển săn cua
Đem về để nấu mứt mơ chua từ quả mơ trên cây
Em ơi, chua ngọt đã trải qua
Đừng quên nhau dưới ánh nắng non xanh nước bạc
Rồi trở thành một phương châm sống:
Tóc mẹ bèn bài sau lưng
Cha mẹ thể hiện tình thương bằng gừng cay và muối mặn.
Mặc cho ý thức về 'bình đẳng giới' hiện đại, người phụ nữ trong 'Chiếc thuyền ngoài xa' vẫn hi sinh để bảo vệ gia đình. Sự sẻ chia này là dấu ấn văn hóa của người Việt, vượt qua thời gian, thể hiện qua những nhân vật trong văn học.
Ngoài ra, văn chương còn gìn giữ và tôn vinh những giá trị văn hóa. Văn học là gương cho dân tộc nhìn vào, giúp bảo toàn và tồn tại bản sắc văn hóa dân tộc.
Văn học không chỉ là ý thức xã hội, mà còn là tình cảm sâu lắng. Nó kích thích niềm tự hào về văn hóa và mong muốn bảo tồn văn hóa dân tộc.
Thứ nhất, với lương tâm của một nhà văn, họ khiến ta tỉnh giấc trước những thay đổi của xã hội đang dần phai nhạt đi những giá trị văn hóa truyền thống. Đó là sự tỉnh giấc đầy ý nghĩa.
Trong tác phẩm “Một người Hà Nội”, Nguyễn Khải khám phá về một hiện thực phức tạp trên vùng đất đầy bản sắc văn hóa của dân tộc: “Tôi đạp xe trên đường Phan Đình Phùng, suy tư về điều gì đó. Một người bạn trẻ đạp xe vụt qua, suýt va vào tôi. Tôi hỏi: “Cậu đi vội quá điều gì vậy?”. Hắn không trả lời, đạp qua tôi và gắt gao: “Lão già ơi!”. Một buổi sáng khác, tôi ghé thăm một người bạn ở quận Đống Đa, bị lạc đường nên phải hỏi. Một số người trả lời thân thiện, có người lạnh lùng nhìn tôi như thể nhìn vào một thứ kỳ quái. Tôi kể về sự thiếu lễ phép của người Hà Nội với cô bạn, cô bé đang cho con bú phản đối: “Ông mặc như thế và đi xe đạp họ khinh thường, hãy đội mũ dạ, áo vest, đi ô tô, thưa ông”. Tôi cười: “Đúng là vậy”. Tác giả bày tỏ nỗi lo lắng về sự mai một của giá trị văn hóa tinh thần. Một Hà Nội thanh lịch “Tràng An nhưng không trang nhã” đang phản ánh qua hành động của mọi người trong thế giới kinh tế hiện đại. Nếu xưa kia, dân tộc ta đánh giá con người qua đạo đức và nhân cách chứ không phải qua của cải, thì hiện nay, người trẻ coi thường người lớn tuổi “mặc đồ như vậy, đi xe đạp”. Sự thanh lịch và tinh tế của người Hà Thành bây giờ được thay thế bởi hình ảnh một cô gái đang cho con bú tham gia vào cuộc trò chuyện của người cao niên! Những giá trị vật chất trở nên quan trọng hơn, chi phối hành vi và lối sống. Rõ ràng, nhà văn đang thức tỉnh chúng ta, yêu cầu ta nhìn nhận cuộc sống, để tỉnh giấc và lo lắng, để suy ngẫm và hành động.
Ở cấp độ thứ hai, văn học thúc đẩy tình yêu và niềm tin vào bản sắc văn hóa dân tộc. So sánh với sự hỗn loạn của quá trình toàn cầu hóa, nhà văn đã khắc sâu vào vẻ đẹp thiêng liêng của những giá trị văn hóa truyền thống, đại diện cho tinh thần của dân tộc. Đó là hình ảnh của một cụ bà Hà Nội, đã bước qua tuổi bảy mươi, vẫn là “người Hà Nội nguyên sơ, không pha trộn” trong việc lau rửa bát đĩa men đỏ giữa những ngày mà “người Hà Nội cứ bán bèo đi Lạng Sơn không buôn được vài ngàn đồng men đỏ” (Một người Hà Nội – Nguyễn Khải). Đó là tình cảm thiêng liêng không thể bị làm mờ, như tình yêu quê hương, tình cha mẹ, tình con cái – những sợi dây kết nối con người với nguồn gốc:
Cây xoài nhà tôi treo võng
Chờ trông hai phía sáng chiều
Con ở thành phố nắng cháy da
Cây xoài mát có con biết không?
(Trong Bản tình ca quê hương - Thu Nguyệt)
Đôi khi, giữa sự nhộn nhịp của đô thị hiện đại, văn học đưa ta trở về với một phần của văn hóa cổ xưa, yên bình, trong trẻo, thanh khiết:
Có thể là vào mùa xuân sau này, thậm chí còn mùa xuân sau nữa
Lá chuối, lá dong, bánh đúc, bánh đa
Rượu mận, rượu đào, trà lài, trà quế
Hạt bí, hạt bầu, quả chuối, quả na…
Em đi chợ mù sương mua cá chép
Để dòng nước trôi tự do, giấu mất lo âu và muộn phiền
Mẹ vẫn chờ mong áo hoa con mới mặc
Mang theo xa xôi, vẫn lưu luyến chuyến đò ngang!
(Có thể mùa xuân tới sau - Phan Trung Thành)
Sự so sánh đó trong văn học, qua cảm nhận của người nghệ sĩ, khích lệ ta trân trọng những giá trị văn hóa truyền thống giữa bối cảnh thời hiện đại. Điều này khơi dậy tình yêu và ý thức bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc.
Bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc không có nghĩa là đóng cửa, từ chối tất cả những ảnh hưởng của văn hóa thế giới. Trong quá trình phát triển của văn hóa dân tộc, đặc biệt là trong thời kỳ toàn cầu hóa hiện nay, chúng ta phải chấp nhận sự tiếp xúc, giao lưu, và ảnh hưởng của văn hóa thế giới, biến nó thành điều kiện thuận lợi để phát triển, làm giàu thêm văn hóa của dân tộc mình.
Ở phương diện đó, văn học đã thể hiện vai trò quan trọng của mình. Bằng tính chất không giới hạn về không gian và thời gian, văn học đã tạo ra một môi trường giao lưu rộng lớn với các nền văn hóa nghệ thuật và các ý thức văn hóa trên toàn thế giới. Qua tác phẩm văn học (đặc biệt là văn học dịch), chúng ta tiếp cận và học hỏi được tinh hoa của nhiều nền văn hóa, từ đó làm phong phú thêm văn hóa của dân tộc mình. Ví dụ, tinh thần dân chủ và nhân văn của phương Tây đã ảnh hưởng đến văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX thông qua hai trào lưu văn học lớn: Lãng mạn và Hiện thực. Chính tinh thần dân chủ và nhân văn này đã làm mới, phong phú hơn các truyền thống yêu nước và nhân đạo của dân tộc ta. Nếu trước kia, tinh thần yêu nước và dân tộc chỉ dừng lại ở lý tưởng “trung quân ái quốc” (do ảnh hưởng của đạo Nho), thì nay đã mở rộng đến tình cảm với nhân dân, với lý tưởng cứu nước. Chủ nghĩa nhân đạo cũng đã vượt lên giới hạn của tình thương con người để đạt đến một tư tưởng cao hơn, rộng lớn hơn: nhân đạo đồng nghĩa với sự tôn trọng mọi giá trị con người.
Cùng với việc tiếp nhận những tinh hoa văn hóa toàn cầu, văn học cũng có vai trò quan trọng trong việc giới thiệu văn hóa Việt Nam đến với các quốc gia khác trên thế giới, khẳng định vị thế của một quốc gia sở hữu một di sản văn hóa phong phú. Truyện Kiều không phải là ngẫu nhiên khi nổi tiếng trên trường quốc tế, một phần là do nó đã mang lại cái nhìn về văn hóa và tư tưởng của người Việt Nam cho cộng đồng quốc tế. Triết lý của nó:
Sen héo lại nở cúc
Buồn vui thăng trầm, tháng ngày dần trôi từ mùa đông tới mùa xuân.
thể hiện một tinh thần lạc quan, tự do của người Việt mà người phương Tây phải ngưỡng mộ. Tương tự, sự bao dung và lòng từ bi cao quý, có nguồn gốc từ tình thân thiết con người đã giúp người Việt vượt qua giới hạn của một quốc gia nông nghiệp, để đạt được những giá trị nhân văn sâu sắc, như được thể hiện trong một câu nói của Kim Trọng về Kiều:
Trăng tan mà vẫn sáng hơn cả rằm ngày xưa
Và:
Nhưng nàng đặt lòng hiếu khách trên hết
Có bụi nào vẫn chiếm lòng ta như vậy
Việc đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới là một cách tôn vinh và bảo tồn bản sắc dân tộc, cũng như giữ cho nó không bị mất đi trong quá trình hội nhập quốc tế.
Có thể nói rằng, trong văn học, không có lĩnh vực nào thể hiện bản sắc văn hóa Việt Nam phong phú và đầy đủ như vậy. Từ phong tục tập quán đến nội tâm con người, từ giá trị tinh thần đến vật chất, văn học là nơi phản ánh rõ nét nhất bản sắc dân tộc.
Nhà văn có nhiệm vụ quan trọng là giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và để thực hiện điều đó, họ cần có tâm thế và quan điểm đúng đắn.
Văn học không chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc mà còn chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn hóa. Trong bối cảnh văn hóa đọc đang bị xem nhẹ, cần có chiến lược phát triển văn hóa đọc và văn học trong thời đại mới.