Bánh chưng vuông | |
Bữa | Ăn vào dịp Tết |
---|---|
Xuất xứ | Việt Nam |
Sáng tạo bởi | Người dân tộc Việt |
Năm sáng chế | Vào năm mới, dịp Tết |
|
Bánh chưng ('chưng' trong 'chưng cất', nghĩa là hấp nước, nhưng thực tế bánh được nấu bằng cách luộc) là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông với đất trời. Nguyên liệu làm bánh chưng gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá dong. Bánh thường được làm vào các dịp Mùng 1 Tết Nguyên Đán của dân tộc Việt, cũng như ngày giỗ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch)
Câu chuyện
Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam vẫn được sử sách nhắc đến, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó liên quan đến truyền thuyết về hoàng tử Lang Liêu trong thời vua Hùng thứ 6. Câu chuyện này nhắc nhở con cháu về truyền thống dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa và nguồn gốc của Bánh Chưng, Bánh giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong văn hoá lúa nước.
Theo tài liệu Lĩnh Nam Chích Quái, phần 'Truyện bánh chưng' (Chưng bính truyện-蒸餅傳):
Sau khi Vua Hùng chiến thắng kẻ thù Ân, đất nước yên bình, ngài quyết định truyền ngôi cho con trai, tụ họp hai mươi hai quan lại để nói rằng: 'Ai mang đến lễ vật phù hợp với ý của ta để cúng Tiên Vương theo tinh thần hiếu khách, ta sẽ truyền ngôi cho'
Các quan lang tranh nhau đi tìm vật phẩm quý giá, hoặc đi săn bắn, đánh cá, hoặc trao đổi chăn nuôi, trồng trọt, đều là những điều tốt lành, nhiều đến mức không thể đếm hết. Nhưng chỉ có quan lang thứ mười tám, tên là Lang Liêu, mẹ đã mất, trong nhà lại ít người, khó khăn trong cuộc sống, ngày đêm lo lắng, không yên. Một lần ngủ mơ thấy thần tiên nói rằng: 'Trên đời không có vật gì quý giá bằng gạo, bởi vì gạo là thực phẩm nuôi sống con người và có thể ăn mãi không chán, không có vật gì có giá trị hơn. Nếu lấy gạo nếp bọc thành hình tròn để tượng trưng cho Trời và dùng lá bọc thành hình vuông để tượng trưng cho Đất, bên trong là nhân ngon, bắt chước hình dáng của Trời Đất bao gồm tất cả mọi vật, ý nghĩa là lòng hiếu khách dưỡng dục của cha mẹ, như vậy thì lòng cha mẹ sẽ vui vẻ, nhà ngươi chắc chắn sẽ có phúc'. Lang Liêu tỉnh giấc, hân hoan. Anh chọn những hạt gạo trắng ngần, không có vết sứt, rửa sạch, sau đó dùng lá xanh bọc thành hình vuông, đặt nhân ngon vào giữa, đem luộc chín tượng trưng cho Đất, gọi là bánh chưng. Sau đó dùng gạo nấu thành xôi, nhào thành hình tròn tượng trưng cho Trời, gọi là bánh giầy. Đúng ngày hẹn, Vua tụ họp các con để mang lễ vật đến cúng tổ tiên. Các quan mang đến đều là những món quà sơn hào hải vị, chỉ có Lang Liêu mang bánh hình tròn, bánh hình vuông đến cúng. Hùng Vương thấy lạ hỏi Lang Liêu, Lang Liêu giải thích như lời thần tiên đã nói. Vua nếm thử và thấy vị ngon, thích thú. Những món quà của các quan khác không thể sánh bằng. Vua khen ngợi và sau đó dùng lễ vật của Lang Liêu để cúng tổ tiên. Vua sử dụng loại bánh này để cúng phụng cha mẹ trong các ngày lễ cuối năm. Tục lệ này vẫn được duy trì đến ngày nay, được gọi là Tết Liêu, theo tên của Lang Liêu. Hùng Vương truyền ngôi cho Lang Liêu; hai mươi mốt anh em kia chia nhau các vùng đất, lập các phương tiện để bảo vệ những nơi núi non hiểm trở. Sau này, họ xây dựng rào gỗ để bảo vệ, từ đó mà gọi là Sách, hay là Trại, là Trang, là Phường. Sách, hay Trại, Trang, Phường bắt đầu từ đó.
Quan niệm truyền thống
Theo quan điểm phổ biến ngày nay, bánh chưng hình vuông biểu tượng cho đất, còn bánh giầy hình tròn hơi dẹp biểu tượng cho trời. Tuy nhiên, theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, bánh chưng ban đầu có hình tròn và dài giống như bánh tày (Xứ Đoài, Kinh Bắc, Hưng Hóa) và bánh tét (miền Nam).
Việc gói và nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên lửa đã trở thành một phong tục văn hóa trong các gia đình Việt vào mỗi dịp tết đến xuân về.
Nguyên liệu làm bánh chưng
- Lá để gói: thường là lá dong tươi. Lá dong thường chọn từ lá dong rừng bánh tẻ, lá to bản, đều và không rách, màu xanh mướt. Tuy nhiên, tùy thuộc vào địa phương, dân tộc, điều kiện và hoàn cảnh, lá để gói bánh có thể là lá chít, lá chuối hoặc thậm chí là lá bàng.
- Lạt buộc: bánh chưng thường sử dụng lạt giang làm từ ống cây giang. Lạt có thể được ngâm nước muối hoặc hấp trước khi gói.
- Gạo nếp: Thường dùng gạo nếp thu hoạch vào mùa. Gạo vụ này có hạt to, tròn, dẻo đều và mới thu hoạch sẽ thơm ngon hơn so với các vụ khác. Nhiều người chọn loại gạo nếp cái hoa vàng hoặc gạo nương.
- Đỗ xanh: Đỗ thường được lựa chọn kỹ càng, tốt nhất là loại đỗ trồng ở vùng đồi trung du Việt Nam (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Phú Thọ...) sẽ thơm và béo hơn. Sau khi thu hoạch, đỗ cần được phơi nắng đều, sàng sẩy hết rác, bụi, hạt lép, phân loại hạt rồi đóng vào hũ, lọ bằng sành sẽ tốt nhất.
- Thịt: Thường là thịt lợn, chọn lợn nuôi hoàn toàn bằng phương pháp thủ công (nuôi chuồng hoặc thả, thức ăn bằng cám rau tự nhiên không dùng thuốc kích thích tăng trưởng hay thức ăn gia súc). Thịt ba chỉ (ba rọi) với sự kết hợp của mỡ và nạc cho nhân bánh có vị béo ngậy, không bị khô như các loại thịt mông, thịt nạc thăn.
- Gia vị: Hạt tiêu dùng để ướp thịt làm nhân. Muối dùng để trộn vào gạo, đỗ xanh và ướp thịt. Đặc biệt, thịt ướp không nên dùng nước mắm vì bánh sẽ dễ bị ôi, thiu. Ngoài ra, một số loại gia vị khác ít phổ biến hơn cũng được sử dụng như thảo quả, tinh dầu cà cuống thường được sử dụng để tẩm ướp nhân bánh ở Hà Nội xưa, tuy nay ít nơi còn chấp nhận sự phức tạp của loại gia vị này.
- Phụ gia tạo màu: Bánh chưng có màu xanh của nếp được tạo thành bằng cách đặt mặt lá dong, lá chuối (mặt có màu xanh thẫm) vào bên trong, áp lên bề mặt của gạo nếp. Một số nơi còn sử dụng các phụ gia khác như lá dứa hoặc lá riềng xay nhuyễn vắt lấy nước trộn với gạo, tạo màu xanh ngọc và thêm hương vị. Một số nhà hàng, mặc dù không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm, vẫn sản xuất bánh chưng thương mại sử dụng pin đèn khi nấu bánh. Một số nội trợ cho biết rằng, kinh nghiệm nấu bánh chưng bằng nồi làm từ tôn (chứ không phải nhôm) giúp bánh có màu xanh mướt mà vẫn đảm bảo an toàn cho sức khỏe.
Chuẩn bị nguyên liệu
- Lá dong: rửa sạch từng lá hai mặt và lau khô kỹ. Làm sạch lá giúp bánh không bị mốc sau này. Trước khi gói, người làm bánh sử dụng dao sắc để bớt cuống lá, làm lá mềm dễ gói. Một số vùng có thể dùng lá chuối, nhúng nước sôi để làm mềm lá. Lau khô lá sau khi nhúng nước sôi để dễ gói bánh.
- Gạo nếp: chọn gạo sạch, ngâm trong nước có muối khoảng 10-12 giờ, sau đó để ráo. Có thể xóc gạo với muối sau khi ngâm để gạo dễ dàng hấp thụ muối.
- Đỗ xanh: giã nhuyễn, ngâm nước ấm 40° trong 2 giờ cho đỗ mềm và nở, sau đó để ráo. Có nơi dùng đỗ hạt đã được đãi vỏ. Nhồi đỗ vào giữa các chiếc bánh chưng.
- Thịt lợn: rửa thịt và ướp với hành tím, muối tiêu hoặc bột ngọt trong khoảng hai giờ để thịt thấm gia vị.
Quá trình chuẩn bị nguyên liệu và vật liệu cho bánh chưng rất quan trọng để bánh có thể được bảo quản lâu dài mà không bị ôi thiu hay mốc. Việc ướp thịt bằng nước mắm, chọn gạo nếp không sạch, đỗ xanh chưa được đãi kỹ, hoặc lá còn bẩn, không lau khô trước khi gói bánh có thể làm giảm chất lượng bánh.
Quy trình gói bánh chưng
Gói bánh chưng
Có hai cách gói bánh chưng phổ biến: gói bằng tay không hoặc dùng khuôn gỗ hình vuông kích thước khoảng 20 cm x 20 cm x 7 cm.
Cách gói bằng tay không thực hiện như sau:
- Đặt lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập.
- Đặt 2 lá dong lên trên lạt, chồng 1/2 chiều dài lá lên nhau, chú ý mặt xanh của lá quay ra ngoài, mặt dưới kém xanh quay vào trong. Lượt sau, đặt lá vuông góc với lượt đầu, mặt xanh lên trên, mặt kém xanh úp xuống dưới.
- Đổ 1 bát gạo nếp vào tâm hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cạnh 20 cm.
- Rải một nắm đỗ xanh vào giữa vuông gạo.
- Đặt 1-2 miếng thịt lợn đã thái đều vào giữa bánh.
- Rải tiếp 1 nắm đỗ xanh lên trên thịt.
- Đổ 1 bát gạo nếp lên trên, phủ kín thịt và đỗ.
- Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình vuông.
- Gấp tiếp 2 lá dong lớp dưới như lớp trên, vừa gấp vừa lèn chặt.
- Dùng lạt buộc lại thành hình chữ thập.
- Buộc 2 bánh chưng lại thành một cặp.
Với phương pháp gói có khuôn, các giai đoạn được thực hiện tương tự như vậy. Tuy nhiên, lá dong được cắt tỉa gọn lại phù hợp với kích thước của khuôn và được xếp xen kẽ vào khuôn (3 hoặc 4 lá, nếu gói 4 lá thì bánh sẽ có hình vuông đẹp hơn). Thông thường, 2 lá xanh quay ra ngoài sẽ được xếp tại 2 góc đối xứng nhau của khuôn, và 2 lá xanh quay vào trong để tạo màu sắc cho bánh. Sau khi nhân đã được đặt vào, các lớp lá sẽ được gấp lại lần lượt và sau đó buộc chặt bằng lạt.
Cách gói bánh có khuôn sẽ mang lại bánh đều hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo và nén chặt. Ngược lại, gói không khuôn sẽ nhanh hơn vì không cần mất công cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh gói không khuôn thường có mặt trên lá quay ra ngoài, trong khi đó bánh gói có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài.
Bước luộc bánh
Dùng nồi to, dày có dung tích trên 100 lít (tùy theo số lượng bánh), rải cuống lá dong thừa xuống đáy để tránh bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh vào nồi đến khi đầy, xen kẽ các cuống lá thừa để đảm bảo nồi đầy đủ. Đổ nước đầy nồi và đậy nắp, đun sôi. Người luộc bánh thường canh giờ tính từ khi nước sôi và duy trì nước sôi liên tục trong khoảng 8 đến 12 giờ. Trong quá trình đun, thường phải bổ sung nước nóng thỉnh thoảng để đảm bảo bánh luôn ngập nước (người thực hiện thường để sẵn nước ấm gần bếp để tiết kiệm năng lượng). Bánh có thể được lật giở để chín đều hơn và tránh bị dính gạo sau này. Trong khi luộc từ 4 đến 5 tiếng, có thể lấy bánh ra, ngâm vào nước lạnh, thay nước mới và tiếp tục đun, bánh sẽ rền và ngon hơn.
Bước ép bánh và cách bảo quản
Sau khi luộc xong, vớt bánh ra rửa sạch lá trong nước lạnh để loại bỏ hết nhựa, sau đó để ráo. Xếp bánh thành nhiều lớp, dùng vật nặng đặt lên để ép bánh cho ráo, chắc mịn (cũng gọi là để bánh rền) và phẳng đều trong vài giờ. Khi công đoạn ép bánh hoàn tất, bánh được treo lên để khô trong nhà để bảo quản.
Bánh thường được treo ở nơi thoáng mát, không có bụi bặm, độ ẩm thấp để tránh bị mốc và ôi thiu. Theo truyền thống, tùy theo thời tiết, bánh có thể treo được mấy tháng mà không hỏng. Ở nhiều vùng miền xưa, người ta thường đưa bánh xuống ngâm dưới ao hoặc giếng nước để bảo quản. Lá bánh với nhựa từ gạo khi nấu là lớp màng giúp ngăn nước lọt vào làm hỏng bánh. Phương pháp ngâm nước để bảo quản bánh chưng liên quan đến sự kiện lịch sử khi vua Quang Trung tiến quân ra Bắc Hà vào dịp tết nguyên đán năm Kỷ Dậu (1789), nhân dân bỏ bánh chưng xuống ao để dành, ngừng ăn tết để tập trung vào chiến dịch đánh giặc Thanh, và sau đó ăn tết muộn.
Sử dụng bánh chưng
Trên bàn thờ ngày tết, bánh chưng và bánh giầy thường được bày cặp. Nhiều người còn có thể bóc bỏ lớp lá ngoài của bánh và gói lại bằng lá tươi, sau đó buộc lạt màu đỏ trước khi đặt lên bàn thờ.
Bánh chưng vuông thường được cắt chéo để đảm bảo mỗi miếng bánh có nhân đều nhau. Ngoài ra, cách cắt vuông cũng thường được thực hiện theo chiều ngang, khi đó nhân bánh ở giữa sẽ nhiều hơn. Bánh chưng dài thường được cắt lát ngang, được gọi là 'đồng bánh'.
Bánh chưng thường được ăn kèm với dưa hành, nước mắm và xì dầu, rắc thêm chút bột tiêu. Sau tết, khi bánh có thể bị lại gạo và cứng, người ta thường thích rán vàng bánh trong chảo mỡ và ăn kèm với dưa góp.
Bánh chưng cũng có thể được chấm với mật mía, đặc biệt là ở một số tỉnh Bắc Trung Bộ như Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh.
Câu đồng dao Việt Nam nói:
- '...Lấy đôi đũa đỏ
- Cho thầy gãi lưng.
- Bóc đồng bánh chưng
- Cho thầy chấm mật...'
Bánh chưng dài
Các vùng trung du và miền núi phía Bắc, bao gồm Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang và Hà Tây, không phổ biến gói bánh chưng hình vuông, thay vào đó, họ thường gói và ăn bánh dạng tròn dài, gọi là 'bánh chưng dài' hay 'bánh tày', chủ yếu trong các nghi lễ và phong tục địa phương. Bánh tày cũng là loại bánh Tết phổ biến ở các vùng trung du và một số vùng dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam. (Xem bài bánh tét)
Bánh chưng dài thường được gói với ít đậu xanh và rất ít hoặc không có thịt, nhằm mục đích dành để ăn dần trong những ngày sau tết. Khi ăn, bánh thường được xắt thành từng lát và rán giòn để thưởng thức ngon hơn. Bánh chưng dài có thể dùng lá chít thay cho lá dong, được xếp 2 đến 4 lá theo chiều dọc, rồi rải gạo và đỗ xanh theo chiều của lá, sau đó quấn chặt bằng lạt giang kết nối đặc biệt để dễ bóc và bảo quản, có thể lưu trữ lên đến 3 tháng.
Cũng thường thấy một loại bánh chưng khác, là bánh chưng ngọt, không có thịt trong nhân bánh, mà thay vào đó là đường trắng được trộn đều vào gạo và đỗ. Ở một số vùng, khi làm bánh chưng ngọt, họ còn trộn gạo với gấc để tạo màu đỏ đẹp. Khi gói bánh chưng ngọt, thường không quay mặt xanh của lá dong vào bên trong.
Bánh tét ở miền Nam cũng được gói thành dạng đòn dài, sử dụng nguyên liệu tương tự như bánh chưng nhưng được gói bằng lá chuối.
Một số dạng bánh chưng
Bánh chưng Nghệ An
Tại Nghệ An, bánh chưng Vĩnh Hòa được gói thành từng cặp hai chiếc, mỗi chiếc có hình dạng giống như kim tự tháp cụt, không phải là hình vuông như bánh chưng thông thường.
Bánh chưng Nhật Lệ
Bánh chưng gù
Bánh chưng ngũ sắc
Là loại bánh chưng có 5 màu biểu trưng cho ngũ hành: Kim - Thủy - Mộc - Hỏa - Thổ. Gạo màu xanh được làm từ nước của lá riềng xay, màu vàng từ nghệ tươi, màu đỏ từ gấc, màu tím từ nếp cẩm hoặc từ nước lá cẩm. Khi gói bánh, người làm bánh sử dụng lá ngắn từng loại gạo để đặt ở 5 góc của bánh. Sau khi đổ gạo vào và ép chặt, họ rút các lá ngăn tạm ra và gói kín lại. Ngoài màu sắc hấp dẫn, bánh chưng ngũ sắc còn có hương vị thơm ngon. 5 màu sắc khác nhau hòa quyện vào nhau tạo nên một hương vị dễ chịu, không bị ngấy.
Bánh chưng gấc
Bánh chưng gấc có màu đỏ của ruột gấc, thơm ngậy vị gấc. Gạo được trộn với ruột gấc tương tự như khi làm gạo nếp xôi gấc. Cách gói bánh giống như bánh chưng thông thường nhưng không quay mặt lá dong màu xanh vào trong để tránh bánh bị lẫn màu. Làng Tranh Khúc, Thanh Trì, Hà Nội có truyền thống làm loại bánh chưng này.
Bánh chưng cốm
Nguyên liệu để làm bánh chưng cốm là cốm khô kết hợp với gạo nếp ngâm cùng lá thơm để tạo màu xanh và hương thơm đặc trưng. Nhân bánh chưng cốm thường là nhân ngọt, đậu xanh được nấu giống như chè kho, kèm thêm thịt nạc bên trong. Khi cắt ra, bánh chưng cốm có 5 màu sắc: Màu vàng nhạt của nhân đậu xanh, màu hồng của thịt lợn ninh nhừ, màu trắng của nếp dẻo, màu xanh vàng của lá dong hay lá chuối, và màu xanh ngọc của cốm. Bánh rất ngon, bùi và thơm hương cốm.
Bánh chưng cẩm
Bánh chưng cẩm (hay còn gọi là bánh chưng đen) là món bánh chưng truyền thống của một số dân tộc ở vùng núi phía Bắc Việt Nam như người Tày, người Thái, người Dao. Nguyên liệu làm bánh mang hương vị đặc trưng từ vùng cao: những cọng rơm nếp to, mọng, vàng được gặt về rửa sạch, sau đó phơi khô và đốt thành tro, vò mịn, dùng miếng vải xô rây lấy phần mịn nhất của tro. Gạo nếp sau khi được vo sạch sẽ được trộn cùng với tro mịn từ gốc rơm, dạ sao cho những hạt nếp tròn mây mẩy được bao bọc bởi màu đen của tro. Nhân của món bánh này được người Tày trộn thêm cả hành vào nhân thịt mỡ cùng với hạt tiêu vỡ bọc ngoài là đậu xanh. Lá để gói bánh chưng cẩm là những chiếc lá dong rừng bánh tẻ khổ nhỏ có màu xanh đậm.
Bánh chưng nhân thịt gà, cá
Ngoài việc bánh chưng được gói với nhân thịt lợn, người ta cũng thay thế bằng thịt gà hoặc cá hồi. Cá hồi được làm nhân bánh và cắt miếng bằng tay, được ướp qua gia vị và hạt tiêu. Bánh được luộc trong 12 tiếng theo tiêu chuẩn bánh chưng truyền thống. Mỗi chiếc bánh có trọng lượng khoảng 800 gram.
Bánh chưng nhân thập cẩm
Đây là dạng bánh chưng phổ biến ở miền Nam. Nhân bánh gồm đậu xanh, thịt dồi, tôm khô, hạt điều, mỡ phần và trứng muối.
Một số loại bánh chưng khác
Một số địa phương nổi tiếng với bánh chưng gồm: bánh chưng Tranh Khúc (Hà Nội), bánh chưng Bờ Đậu (Thái Nguyên), bánh chưng Bà Thìn (Nam Định), bánh chưng làng Đầm (Hà Nam), bánh chưng Chợ Đầu (Hưng Yên), bánh chưng Thủy Đường (Hải Phòng), bánh chưng Đại An Khê (Quảng Trị), bánh chưng Cầu Báng (Thái Bình), bánh chưng Lỗ Khê (Hà Nội)... Ngoài ra còn nhiều loại khác như bánh chưng đen Bắc Sơn (Lạng Sơn), bánh chưng đường ở vùng Kiến Xương, Tiền Hải (Thái Bình)...
Kỷ lục về bánh chưng
Chiếc bánh chưng được làm tại làng nghề bánh chưng truyền thống Làng Ước Lễ, huyện Thanh Oai, Hà Nội trong dịp Tết Nguyên đán Nhâm Ngọ (2002) đã được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là chiếc bánh chưng lớn nhất thế giới. Bánh nặng 1,4 tấn được làm từ 330 kg gạo nếp, 100 kg đậu xanh, 100 kg thịt lợn, gói bằng 1.500 chiếc lá dong và nấu trong một nồi thép cao trên 2 m trong hơn 72 giờ.
Bánh chưng trong thơ văn
Trong câu đối phổ biến về sản vật ngày Tết, bánh chưng xuất hiện như một biểu tượng vật chất và tinh thần không thể thiếu của dân tộc Việt Nam:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏCây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. - Tranh Thịnh, nhà thơ đã viết bài thơ 'Tấm bánh thần kỳ' để tôn vinh loại bánh này. Bài thơ kể về Sự tích của bánh chưng và bánh giầy. Hai loại bánh này được Lang Liêu, con trai thứ 6 của Vua Hùng, sáng tạo ra sau khi nhận được sự chỉ dạy của một vị thần trong giấc mơ. Từ đó, bánh chưng và bánh giầy (bây giờ là bánh tét) đã trở thành những sản vật truyền thống không thể thiếu mỗi khi Tết đến Xuân về.
- Nội dung của bài thơ như sau:
- Lang Liêu gói bánh gọn gàng
- Lá dong xanh buộc lạt giang nhuộm hồng
- Vua Hùng vì dân mà lòng
- Tròn vuông đất trời càng mong càng vui
- Bóc bánh mùi thơm lạ lùng
- Nếp dẻo đỗ mịn hòa chung vị thịt hành
- Cả thần dân cũng nếm vị ngon lành
- Ngày xưa đến nay dễ thành công thế đâu
- Vua truyền lại dáng vẻ sau
- Cháu con tiếp nối nhịp cầu ông cha
- Khắp nhà người hưởng lộc xuân lành
- Thơm ngon đậm đà muôn đời
- Cánh đồng lúa xanh trổn màu rồi
- Bánh chưng, bánh tét vẫn còn đến nay
- Lang Liêu hằng còn về đây
- Bàn tay ân ái, bàn tay thần kỳ.