Bảo Hộ hay Thần Tăng (chữ Nho: 護法, sa. dharmapāla, pi. dhammapāla) theo đạo Phật, đặc biệt là phái Kim Cương Thừa (sa. vajrayāna) hoặc Thiên Thần là những vị thần bảo vệ Phật pháp và Phật Tử. Những ai tâm nguyện thực hành (sa. sādhana) và nguyện tụng Kinh Chân Ngôn sẽ được các vị thần này bảo hộ. Ngoài ra, các vị Thần Thế (chữ Nho: 護世, sa. lokapāla), tức các vị thần (Thiện Thần) tâm nguyện theo đạo Phật cũng có chức năng như Bảo Hộ. Phật giáo Việt Nam liệt kê nhiều vị thần như Phạm Thiên, Đế Thích, Kiên Lao, Địa Kỳ, Thiên Lý Nhãn, Thiên Lý Nhĩ trong danh sách bảo hộ, nhưng trong các chùa thường gồm hai dạng chính.
Khuyến Thiện, Trừng Ác
Dạng Bảo Hộ phổ biến là hai vị thần thờ trong chùa có tên Khuyến Thiện và Trừng Ác. Hai vị thần này thường được điêu khắc rất cao, đầu cao chót vót, được đặt ở hai bên lối vào của đền thờ. Hình tượng của họ như các vị tướng quân, đội mũ trụ, mặc giáp sừng sững, thân hình mạnh mẽ, ngồi trên sư tử xanh, có các vũ khí để bảo vệ đạo lý (một vị cầm đại đao, một vị cầm sợi lụa hoặc cầm một chiếc tháp nhỏ). Tượng vị thần Khuyến Thiện, hay còn gọi là 'ông Thiện', thường được tô mặt trắng, vẻ mặt bình an, đặt ở phía tay trái của bàn thờ Phật (nhìn từ trong ra ngoài), tay cầm viên ngọc Mani, là vật bảo của Phật tử, khích lệ mọi người theo đạo. Tượng vị thần Trừng Ác thì được tô mặt đỏ, đặt ở phía tay phải của bàn thờ Phật; vẻ mặt thần thù hận, có vũ khí để trừng phạt kẻ ác như lời răn đe mọi người hướng tới đạo lý. Trong truyền thuyết Phật giáo, hai vị thần này còn được biết đến với các tên gọi khác như Thiện Hữu, Ác Hữu, hay La Đắc, Ma Pha La. Kim Dung cũng đã dựng lên hai nhân vật giang hồ là Thưởng Thiện và Phạt Ác.
Truyện kể như sau, ở nước Ba Na Lại xưa, có hai Hoàng Tử là Thiện Hữu và Ác Hữu, tính cách trái ngược nhau. Thiện Hữu yêu thương mọi người và ưa thiện hạnh, còn Ác Hữu thì ngược lại. Thiện Hữu nhận thấy rằng con người sống khổ cực vì tạo ra các tội ác như giết người, lừa gạt,... và sau này phải chịu khổ báo, vì vậy chàng quyết định cống hiến tài sản của Vua cha cho mọi người làm nghiệp lành. Chàng đến Biển lớn, xuống Long Cung để tìm Ngọc Mani - một viên ngọc quý có khả năng cầu nguyện thành hiện thực.
Với lòng từ bi, Thiện Hữu đã vượt qua mọi gian khổ để lấy Ngọc Mani mang về. Sau đó, Ác Hữu đến và lấy đi Ngọc Mani, đồng thời đâm mù Thiện Hữu. Thiện Hữu trở thành mù mắt và phải trải qua nhiều khó khăn, lạc lối đến một vương quốc nọ. Chàng trở thành người ăn xin nhưng lại có khả năng chơi đàn rất tài ba, làm cho Công chúa thương yêu. Công chúa không biết rằng chàng là Hoàng tử đã từng hứa hôn với mình, và vẫn rất muốn chung sống với chàng. Vua cha Công chúa cho phép hai người ở chung nhưng phải rời xa Hoàng cung. Một ngày nọ, Công chúa đi đâu đó mà không báo trước cho chồng, Thiện Hữu nghĩ rằng vợ có điều gì giấu diếm, Công chúa buồn lòng nên thề rằng 'nếu em có điều gì dối trá, xin cho mắt anh mù mãi mãi, còn nếu em nói thật, xin cho mắt anh sáng lại như cũ'. Ngay khi nói xong, mắt Thiện Hữu lập tức hồi phục. Cả hai hạnh phúc, Thiện Hữu tiết lộ cho Công chúa biết rằng chàng là Hoàng tử đã từng hứa hôn với nàng, nhưng Công chúa không tin rằng chồng mình có lòng chung thủy.
Thiện Hữu nói rằng từ khi sinh ra chưa bao giờ nói dối, và hứa nếu nói dối thì cho mắt lại mù như cũ, nếu nói thật thì mắt sẽ sáng lại, và lập tức mắt còn lại của chàng đã hồi phục. Sau đó, cả hai trở về cung điện và báo với vua cha rằng chàng là Thiện Hữu. Chàng trở về với Ba La Nại, và cha mẹ vua cũng thương cho chàng bị mù cả hai mắt, và chàng đi tìm Ác Hữu để lấy lại Ngọc Mani giúp cha mẹ chàng hồi phục thị lực. Cuối cùng, chàng lập ra một đàn trang lớn trước đền thờ Ngọc Báu, sau khi vượt qua nhiều khó khăn để giúp đỡ chúng sinh, chàng cầu nguyện để mọi người được lợi lạc, và ngay lập tức trời mưa thóc gạo vàng bạc, quần áo, và các vật dụng quý giá khác,... làm cho mọi người vui mừng, không bị lòng tham áp lực để làm việc xấu. Thiện Hữu chính là tiền thân của Phật Thích Ca Mâu Ni.
Bát Bộ Kim Cương
Dạng thứ hai là Bát bộ Kim Cương (còn gọi là Kim Cang hộ pháp) gồm tám vị thần cũng mặc võ phục (hoặc chỉ cởi trần đóng khố) nhưng không bài trí ở gần lối vào mà gần bàn thờ Phật vì đây là các vị thần linh có trách nhiệm bảo vệ Phật. Tám vị kim cương đó lần lượt là:
- Thanh Trừ Tai
- Tích Độc Thần
- Hoàng Tùy Cầu
- Bạch Tịnh Thủy
- Xích Thanh Hỏa
- Định Trừ Tai
- Tử Hiền Thần
- Đại Lực Thần (Đại lực Kim Cang hay Kim Cang lực sĩ) thường được điêu khắc với hình thù của một người đàn ông cơ bắp lực lưỡng, cởi trần đóng khố, cầm chùy
Các truyền thống khác
Hộ pháp theo Kim cương thừa còn liệt danh Ma-ha-ca-la (sa. mahākāla, nghĩa là Đại Hắc 大黑) – được xem là một hoá thân của bồ tát Quán Thế Âm – là đấng bảo vệ người tu hành trước những hiểm nguy và ảnh hưởng xấu liên quan đến chuyện tu học. Tuy nhiên các hành giả đó phải được chân truyền sự hỗ trợ từ vị Bổn Tôn, Thần thể (bo. yidam) của mình. Vị Đại Hắc (sa. mahākāla), Hộ pháp của tông Kagyu và Đạt-lại Lạt-ma thường được trình bày như một vị thần cao lớn, da đen. Vị này có bốn trách nhiệm lớn đối với trở ngại khó khăn của người tu hành: điều phục, giúp đỡ, thu hút, huỷ diệt. Các vị Hộ Thế trong Phật giáo Tây Tạng được chinh phục – theo truyền thuyết – là nhờ công của Đại sư Liên Hoa Sinh. Đó là các vị thần của đạo Bôn (bo. bön བོན་) đã được điều phục thành các vị phục vụ Phật pháp. Các vị đó thường là hiện thân của các lực lượng thiên nhiên. Người ta còn nhắc đến các vị Hộ Thế Tứ thiên vương. Các vị này xuất hiện từ lâu trong tranh tượng Ấn Độ và cũng được tôn thành Hộ pháp.
Hộ pháp, Luận sư của Duy thức tông (sa. vijñānavādin), sống trong thế kỷ 6-7, môn đệ của Trần-na (sa. dignāga) và về sau trở thành viện trưởng của viện Na-lan-đà (sa. nālandā). Sau đó Nhà Sư đến Giác Thành (bodhgayā) và trở thành viện trưởng viện Đại Bồ-đề (sa. mahābodhi). Nhà Sư mất năm 32 tuổi. Hầu như mọi tác phẩm của Sư đều thất lạc cả.
Sư viết luận giải về Bách luận (sa. śataśāstra) của Thánh Thiên (sa. āryadeva), về Duy thức nhị thập tụng (sa. viṃśatikā vijñaptimātratākārikā) của Thế Thân. Tư tưởng luận giải của Sư còn được tìm thấy trong tác phẩm Thành duy thức luận của Huyền Trang. Hộ pháp và các môn đệ nhấn mạnh tính 'duy tâm' (sa. cittamātra) tuyệt đối của Duy thức học, cho rằng thế giới 'không gì khác hơn là sự tưởng tượng.'
Hộ pháp, Cao tăng Tích Lan (1865-1933), sáng lập hội Đại Bồ-đề (Mahābodhi Society) năm 1891 nhằm phục hưng viện Đại Bồ-đề tại Giác Thành. Sư là tăng sĩ đầu tiên của thời cận đại tự nhận mình là một người Vô gia cư (sa. anāgārika, xem Khất sĩ). Năm 1925, Sư sáng lập hội Đại Bồ-đề ở London.
- Hung thần
- Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-guang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.)
- Das Lexikon der Östlichen Weisheitslehren, Bern 1986.