Câu chuyện Em Bé Thông Minh đóng vai trò quan trọng trong văn hóa dân gian, giúp con người hiểu biết và phát triển phẩm chất tốt đẹp. Sau khi đọc, các em có thể tự kể lại theo cách cá nhân của mình
Tổng hợp những bài văn mẫu Kể chuyện về Em Bé Thông Minh bằng lời văn riêng của các em
I. Dàn Ý Kể Chuyện Về Em Bé Thông Minh Bằng Lời Văn Riêng
1. Mở Đầu
Giới thiệu cốt truyện
2. Nội Dung
- Sự phát triển của câu chuyện:
+ Nhà vua đi khắp nơi tìm người tài
+ Cậu bé thông minh xuất hiện trong một ngôi làng
+ Câu chuyện giao tiếp giữa viên quan và cậu bé
+ Viên quan xác nhận tài năng của cậu bé
+ Trở về cung điện với nhà vua
+ Bài kiểm tra của nhà vua: làm sao để ba con trâu đực sinh ra chín con nghé
+ Hai cha con thách thức nhà vua và chiến thắng mọi khó khăn
+ Cậu bé vượt qua thử thách của nhà vua và giải quyết câu đố của sứ giả nước bên
3. Kết Luận
Nhà vua biết ơn tài năng của cậu bé và thăng cậu lên làm trạng nguyên
II. Mẫu Bài Kể Chuyện Về Em Bé Thông Minh Bằng Lời Văn Riêng
Bài 1
Trong một thời xa xưa, vị vua tài giỏi quyết định tìm người thông minh để giúp đỡ vương quốc. Một viên quan được giao nhiệm vụ đi khắp nơi tìm kiếm, nhưng không gặp được ai phù hợp.
Một ngày, viên quan đi qua một cánh đồng, thấy hai cha con nông dân đang làm việc. Người cha đang cày ruộng, còn đứa con thì đập đất. Dù cảm thấy mệt mỏi, viên quan quyết định thử sức lần cuối.
Viên quan dừng ngựa và hỏi lớn:
- Ông kia! Mỗi ngày, trâu của ông làm được bao nhiêu công việc?
Ngạc nhiên, cha người đứng im lặng, không biết phản ứng ra sao. Trong lúc bối rối, đứa con trai, khoảng bảy, tám tuổi, tóc dài đỏ, mặc áo khói, bước tới và mạnh mẽ đặt câu hỏi lại cho viên quan:
- Xin lỗi ông, câu hỏi này đã được đặt: Nếu ông trả lời được rằng ngựa của ông mỗi ngày đi bao nhiêu bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi mỗi ngày cày được bao nhiêu đoạn đường.
Khi nghe câu hỏi này, viên quan ngạc nhiên và không biết phản ứng thế nào. Ông nghĩ trong lòng: 'Chắc chắn đây là nhân tài', và quyết định không cần phải tìm kiếm nữa. Sau khi biết tên và nơi ở của hai cha con, ông ta vội vàng rời đi trở về cung điện của vua.
Nghe viên quan kể lại, vua rất hạnh phúc nhưng vẫn cảm thấy ngần ngại. Để xác minh hơn, vua quyết định tiến hành một cuộc thử thách. Ông ra lệnh trao ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực cho người dân trong làng, và yêu cầu phải nuôi chúng sao cho ba con trâu sinh ra chín con nghé trong vòng một năm. Nếu không thực hiện được, cả làng sẽ bị trừng phạt.
Nhận được lệnh vua và quà biếu, cả làng rơi vào tình trạng bối rối và lo lắng, không biết làm thế nào. Các ông già trong làng đã mở mấy cuộc họp, nhưng vẫn không tìm ra giải pháp. Chuyện này đã đến tai của cậu bé, và cậu đã nói với cha mình:
- Một lần được nhận lộc từ vua, cha chỉ cần lấy thịt của hai con trâu và gạo của hai thúng nếp để chế biến thành một bữa ăn cho toàn làng. Còn lại một con trâu và một thúng gạo, cha con ta sẽ dùng làm chi phí để lên kinh doanh, và lo liệu việc đó.
Nghe lời con, cha hoảng sợ cố gắng ngăn chặn:
- Khi đã giết trâu để ăn, việc gì phải lo lắng nữa? Đừng có làm điều ngu ngốc và hấp tấp như vậy con ạ!
Nhưng chú bé vẫn kiên quyết không chịu từ bỏ:
- Cha hãy để cho con lo, bất kể chuyện gì con cũng sẽ giải quyết được!
Vội vã mặc áo, cha đi đến làng để kể chuyện với các cụ. Mọi người hoang mang và yêu cầu hai cha con phải viết cam kết trước khi họ dám đánh chén.
Sau vài ngày, hai cha con bắt đầu hành trình vào kinh. Khi đến cung điện, chú bé bảo cha đứng ngoài, còn mình thì lẻn vào sân rồng, chờ đợi cơ hội và khóc lên.
Kinh ngạc, vua sai lính đưa cậu bé vào và hỏi:
- Con trẻ ơi, con đến đây có việc gì? Tại sao lại khóc?
Chú bé nhìn chằm chằm, trả lời mạnh mẽ:
- Vua ơi! Mẹ con sớm qua đời, và cha con không muốn tái hôn để con có bạn chơi, nên con buồn. Mong vua tha thứ và giúp con.
Nghe chú bé nói, vua và cả triều đình đều cười lớn. Vua nói:
- Ê thằng bé kia! Muốn có em bé thì phải kiếm vợ mới cho cha mày, cha mày là đực thì làm sao có em bé được?
Chờ đợi cơ hội, cậu bé tỏ ra tỉnh táo hơn:
- Vậy lệnh đó làm sao mà làng chúng con có thể nuôi ba con trâu đực, rồi phải đẻ chín con sau một năm để nộp cho vua? Đàn trâu đực thì không thể đẻ con được ạ!
Nhà vua mỉm cười, vuốt nhẹ đầu của cậu bé:
- Hãy thử đi! Nhưng mà, dân làng mày không biết cách giết trâu để ăn à?
Chú bé đáp lại ngay lập tức:
- Vua ơi! Khi làng nhận được ba thúng gạo nếp và ba con trâu, vì biết đức vua đã ban phước nên làng chúng con đã cùng nhau tổ chức bữa ăn mừng rồi ạ!
Vua và các quan nhìn nhau, thừa nhận sự thông minh của cậu bé. Tuy nhiên, vua muốn thử thách cậu một lần nữa.
Ngày hôm sau, hai cha con cậu bé đang ăn trưa ở ngoài công quán thì sứ giả của vua đến mang một con chim sẻ, yêu cầu họ phải nấu thành ba mâm cỗ. Cậu bé bảo cha mình cho mượn một cái kim may nhỏ và nói với sứ giả:
- Ông cầm cái kim này về tặng vua, nhờ ông rèn thành một cây dao sắc để tôi xẻ thịt con chim.
Nghe sứ giả kể, vua rất hài lòng. Ngay lập tức, vua mời hai cha con cậu bé vào cung và ban thưởng rất lớn.
Một lúc trước, đất nước láng giềng muốn xâm lược nước ta. Để kiểm tra xem nước ta có người tài không, sứ giả của họ mang theo một chiếc vỏ ốc dài và rỗng hai đầu, thách thức làm sao có thể xâu sợi chỉ qua đường ruột của ốc.
Nhà vua liền triệu các đại thần đến cung để thảo luận. Mỗi người đề xuất một cách giải. Các quan trọng và thông thái đều suy nghĩ kỹ lưỡng nhưng vẫn không tìm ra lời giải. Với việc không giải được câu đố khó khăn đó, quốc gia mất đi sự kiêu hãnh. Cuối cùng, nhà vua quyết định mời sứ thần đến ở tại cung để có thời gian tìm kiếm cách giải quyết từ cậu bé.
Từ khi trở về từ kinh đô, cậu bé vẫn tươi vui, hồn nhiên, chơi đùa, vui vẻ cùng bạn bè trong làng. Khi nghe viên quan mang lời yêu cầu của nhà vua và kể câu chuyện, cậu bé hát:
Tang tình tang! Tính tình tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ, kiến mừng kiến sang
Tang tình tang ...
Rồi cậu nói với viên quan:
Viên quan vui mừng, vội về báo tin cho vua. Nhà vua và triều đình hân hoan, sung sướng khi thấy con kiến đã kéo được sợi chỉ qua đường ruột của ốc trước sự ngạc nhiên và thán phục của sứ thần nước láng giềng.
Sau đó, vua phong chức Trạng Nguyên cho cậu bé và xây dựng một dinh thự nguy nga trong cung để khi cần, vua có thể gặp cậu dễ dàng. Với trí tuệ phi thường, cậu bé đã giúp vua nhiều công việc hữu ích cho đất nước.
Bài số 2
Những người thông minh thường làm việc một cách dễ dàng bởi vì họ tìm ra các phương pháp tốt nhất để giải quyết các vấn đề. Nếu nhân cách và đạo đức của họ được nuôi dưỡng, họ sẽ trở thành những nhân tố quan trọng giúp đất nước phát triển. Truyền thống dân gian lưu truyền nhiều câu chuyện về những người thông minh, và câu chuyện 'Em bé thông minh' là một trong những câu chuyện ấn tượng nhất tôi từng nghe.
Trong thời kỳ đất nước đang đối mặt nguy cơ bị xâm lược, nhà vua lo lắng và cử viên quan đi khắp nơi để tìm người tài. Viên quan này đã tìm kiếm qua nhiều nơi, gặp nhiều người, nhưng vẫn chưa tìm được ai đáp ứng được yêu cầu.
Một ngày nọ, viên quan gặp hai cha con đang làm ruộng. Viên quan hỏi cha con đó về việc trâu của họ cày được bao nhiêu đường một ngày. Khi cha không biết trả lời, cậu bé đã hỏi lại viên quan về con ngựa của ông và đề xuất một cách giải quyết thông minh. Viên quan ngạc nhiên với tài năng của cậu bé và vội về tâu với nhà vua.
Khi kể lại câu chuyện với nhà vua, viên quan khẳng định cậu bé là người tài của đất nước. Nhưng vua muốn thử tài năng của cậu bé bằng một thử thách khác. Vua ra lệnh ban cho làng ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực. Dân làng phải nuôi trâu sao cho ba con đó đẻ thành chín con sau một năm. Câu hỏi làm dân làng lo lắng, nhưng cậu bé đã đề xuất một cách giải quyết thông minh.
Hôm sau, khi hai cha con bắt đầu hành trình vào kinh, cậu bé ở lại ngoài cung để khóc. Nghe tiếng khóc của cậu bé, nhà vua sai lính đưa cậu bé vào hỏi về lí do. Cậu bé kể về sự nhớ nhà và mong muốn có một em bé mới. Nhưng vua nhận ra rằng người đàn ông không thể sinh em bé, dẫn đến câu hỏi của cậu bé về trâu đực. Thái độ thông minh của cậu bé khiến vua và thần dân đều bất ngờ.
Vua quyết định thử cậu bé một lần nữa bằng một thử thách mới. Sứ giả mang đến một con chim sẻ và yêu cầu cậu bé làm ba mâm cỗ đầy. Cậu bé đã đề xuất một giải pháp sáng tạo và thông minh để giải quyết vấn đề.
Sau khi nghe câu chuyện của sứ giả, nhà vua rất vui mừng và ban thưởng cho cậu bé và hai cha con của anh ta.
Nước láng giềng đang âm mưu xâm lược nước ta, nhưng họ chần chừ vì sợ nước ta có người tài. Họ đã gửi sứ giả sang để thám thính và đặt một câu hỏi khó. Triều đình của chúng ta đã thử mọi cách nhưng vẫn không tìm ra lời giải. Nhà vua quyết định gửi sứ giả về quê cậu bé để xin ý kiến. Khi nghe câu chuyện, cậu bé đã nhanh chóng tìm ra lời giải và hát lên:
Tang tình tang, tình tính tang
Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng
Bên thời lấy giấy mà bưng
Bên thời bôi mỡ kiến mừng kiến sang
Tang, tình tang...
Và cậu bé nói rằng chỉ cần làm như vậy là xong. Sứ giả vội về cung và nhà vua cùng triều đình rất hạnh phúc và ngưỡng mộ. Sứ giả của nước láng giềng cũng thán phục. Nhà vua đã phong cậu bé làm Trạng Nguyên và mời vào cung để tiện thỉnh giáo.
Nước ta từ xưa đến nay đã có nhiều nhân tài xuất chúng, họ không chỉ thông minh mà còn chăm chỉ học hỏi. Nhưng người trẻ của đất nước chúng ta cần phải rèn luyện chăm chỉ, nỗ lực để trở thành những người có ích cho đất nước.
Bài số 3
Xưa kia, có một vị vua muốn tìm người tài giỏi giúp đất nước. Ông đã sai một viên quan đi khắp nơi để tìm người. Nhưng viên quan này đi suốt mà không gặp được ai thực sự tài năng.
Mỗi lần đến một nơi, quan đều đặt ra những câu hỏi khó nhằn để kiểm tra tài năng mọi người, nhưng không ai có thể trả lời được.
Một ngày, quan thấy hai cha con nhà nông đang làm ruộng, cha đang cày, con đang gặp đất. Quan dừng lại và hỏi:
* Lão ơi! Mỗi ngày trâu của lão cày được bao nhiêu dặm đường?
Người cha ngơ ngác, còn đứa con khoảng 7 tuổi, liền vội nói:
Xin hỏi ông, nếu ông nói được bao nhiêu bước ngựa đi trong một ngày, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày được bao nhiêu dặm đường.
Viên quan nghe cậu bé hỏi lại như vậy, không khỏi ngạc nhiên, không biết phải trả lời sao cho phù hợp. Quan mừng thầm rằng đây chính là người tài, không cần phải tìm kiếm nữa. Quan hỏi tên và địa chỉ của cậu bé, rồi quay về báo cáo với vua. Nghe tin, vua rất vui mừng. Nhưng vẫn muốn thử nghiệm lại.
Vua ra lệnh ban cho làng của cậu bé ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, yêu cầu họ phải nuôi và đợi năm sau cho chín con trâu. Cả làng lo lắng không biết phải làm sao. Sau nhiều cuộc họp, cả làng đành phải chấp nhận và coi đây là một tai họa. Khi đến lượt cậu bé, con của người thợ cày, cậu bé nói với cha: Cha chỉ cần thưa với làng để lại một thúng gạo và một con trâu để cha con ta làm lộc đi lên kinh thành. Còn lại thì làng cứ tiếp tục ăn xôi, và đánh mạnh trâu làm thức ăn.
Mọi việc con sẽ lo. Người cha trình bày với làng. Mọi người vẫn còn nghi ngờ, nhưng cuối cùng, họ đồng lòng và yêu cầu cha con phải ký cam kết trước khi mổ trâu và chuẩn bị cho bữa ăn.
Sau đó, cậu bé cùng cha mang theo túi vải vào cung điện. Khi đến nơi, cậu bé bảo cha đợi ở ngoài, mình thì nhanh chóng trườn vào sân rồng và rống lên. Hoàng đế sai quan lính đưa cậu bé vào hỏi:
Này cậu nhóc, có chuyện gì vậy?
Tại sao lại khóc ư?
Cậu bé trả lời quyết liệt:
Thưa vua đại nhân, mẹ tôi qua đời sớm, cha tôi không dám tái hôn nên tôi cảm thấy cô đơn.
Nghe tin vua cùng các quan thần đều bật cười. Vua nói tiếp:
Muốn có em, phải tìm vợ mới cho cha mày, cha mày là đực thì sao có thể sinh con được!
Đứa bé bỗng tỉnh giấc.
Nhưng làng ta lại có lệnh rằng mỗi gia đình phải nhận nuôi ba con trâu để tạo thành một bầy, để nộp cho vua.
Làm sao đực có thể sinh con được!
Vua chỉ cười:
Đây chỉ là một thử thách! Thế mà có lẽ làng mày đã quên rằng, con trâu kia đã được nuôi để làm thịt rồi mà!
Thằng bé đáp ngay:
Sau khi nhận được trâu và gạo nếp, làng ta biết rõ đó là sự ưu ái từ vị vua, nên đã tổ chức bữa tiệc ăn mừng cùng nhau.
Vua và các quan thần đều khâm phục sự thông minh của thằng bé. Tuy vậy, vua muốn thử thách thêm lần nữa.
Khi hai cha con đang ăn cơm, vua sai đưa cho họ một con chim sẻ, yêu cầu làm ba mâm cỗ. Thằng bé nhờ cha mình tìm cho một chiếc kim khâu, sau đó đưa cho quan và nói:
Ông mang cái này đến tìm vua và xin ông rèn cho tôi một con dao để tôi chặt thịt con chim này. Vua nghe được điều này, từ đó mới hoàn toàn phục thẳng.
Một nước láng giềng đã chiếm bờ cõi nước ta. Để kiểm tra sự thông minh của dân ta, họ gửi một sứ giả đến với một cái vỏ ốc vặn dài và rỗng hai đầu, hỏi liệu có ai có thể xâu chỉ qua ruột con ốc này không.
Khi nghe sứ thần đặt ra câu đố, các đại thần bắt đầu suy luận, với nhiều phương pháp khác nhau. Có người thử hút chỉ, có người thoa sáp vào chỉ để làm cứng để dễ thao tác. Nhưng cuối cùng, mọi cố gắng đều vô ích. Cả các quan trạng và các nhà thông thái mà triệu vào cung cũng không thể giải quyết được. Vì thế, triều đình buộc phải gửi sứ thần ra công quán để tìm cậu bé.
Khi viên quan mang theo chỉ dụ của vua đến, thì cậu bé đang vui đùa ở phía sau nhà.
Khi nghe về việc xâu chỉ vào vỏ ốc, em bé tự nhiên hát lên:
Tang tình tang, Tính tình tang
Buộc con kiến, chỉ ngang lưng
Khi buổi tối, lấy tờ giấy bên thời mà bưng
Khi tối về, kiến đã bôi mỡ, mừng mừng di chuyển qua lại.
Tang tình tang, tính tình tang.
Sau đó, thằng bé nói:
Chỉ cần làm theo cách đó là xong.
Viên quan trở về cung vua mừng rơn. Vua và các quan thần nghe tin như thấy ánh sáng trong bóng tối. Thật vậy, con kiến đã xâu được sợi chỉ qua ruột của con ốc, khiến sứ giả của nước láng giềng phải hoảng sợ.
Vua quyết định phong thằng bé làm Trạng Nguyên và giao cho người khác xây một lâu đài cho thằng bé, ngay gần cung điện để thuận tiện trong việc hỏi han công việc.
Chuyện số 4
Một ngày kia, khi cha tôi đang cày ruộng và tôi đang làm việc trên cánh đồng, một viên quan ngừng ngựa lại gần chúng tôi.
Viên quan hỏi cha tôi: 'Ông ơi, trâu của ông mỗi ngày cày được bao nhiêu đoạn đường?'
Lúc đó, tôi chỉ mới bảy, tám tuổi nhưng nghe viên quan hỏi cha tôi nên tôi đã liều mình hỏi lại viên quan rằng: 'Nếu ông trả lời đúng, thì tôi sẽ nói cho ông biết trâu của cha tôi mỗi ngày cày được bao nhiêu đoạn đường'
Tôi thấy viên quan ngạc nhiên và không biết phải trả lời thế nào. Ông quan hỏi tôi về tên, ngôi làng và quê hương của cha tôi rồi sau đó đưa ngựa đi phía trước.
Một hôm, vua phát cho làng tôi ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi ba con trâu đó đến khi chúng sinh ra chín con, nếu không làng sẽ bị trừng phạt.
Cả làng lo sợ. Tôi nói với cha rằng chúng ta nên giết hai con trâu và hai thúng gạo nếp để cả làng có một bữa no say. Còn lại một con trâu và một thúng gạo nếp, chúng ta bán để thu tiền giúp đỡ làng.
Dân làng nghi ngờ và yêu cầu tôi viết cam kết trước khi cắt thịt trâu. Một vài ngày sau, cha và tôi lên đường. Khi đến cung điện, tôi bảo cha đợi ngoài, còn tôi liều mình lẻn vào sân rồng và khóc lớn. Vua sai lính đưa tôi vào và hỏi: 'Thằng bé này, có việc gì sao lại khóc?'.
Tôi đáp: 'Xin đức vua, mẹ tôi mất sớm và cha tôi không muốn tái hôn để có em bé chơi với tôi, vì thế tôi buồn. Mong đức vua phán bảo cho cha tôi cho tôi có bạn.'
Nghe tôi nói, vua và các thần lại bật cười. Vua nói: 'Nếu muốn có em bé, cha mày phải tìm vợ khác, chứ cha mày là đực, làm sao mà có em được!'
Tôi tiếp tục: 'Nhưng đức vua, làng chúng tôi được sai nuôi ba con trâu để sinh chín con, giống đực thì sao mà sinh con được ạ!'
Vua cười và nói: 'Chỉ là thử thách mà thôi! Thế mà làng mày không biết đem trâu ra thịt để ăn à?'
Tôi nói với vua rằng dân làng đã tổ chức bữa tiệc ăn mừng nhân dịp vua ban phước cho làng. Nghe tôi nói như vậy, vua chỉ cười.
Một ngày nọ, khi cha và tôi đang ăn cơm ở quán công, có một sứ giả của vua đến mang theo một con chim sẻ và yêu cầu tôi chuẩn bị ba bữa ăn. Tôi yêu cầu cha lấy một cây kim và tôi đưa cho sứ giả cái kim đó, sau đó nói: 'Ông mang cái kim này về tới vua xin rèn thành một con dao để xẻ thịt con chim'. Sau sự kiện đó, vua triệu cha và tôi vào và thưởng cho chúng tôi rất hào hứng.
Trước đó, một nước láng giềng muốn xâm chiếm nước ta. Để kiểm tra xem có người giỏi giang trong nước ta không, họ sai sứ giả sang với một cái vỏ ốc dài, rỗng hai đầu, thách thức làm sao xâu sợi chỉ qua ruột ốc.
Các quan lớn trong nước đều đau đầu suy nghĩ. Mọi người thử nhiều phương pháp nhưng không thành công. Cuối cùng, triều đình quyết định mời sứ giả sang quán để tiếp tục tìm người giải câu đố.
Một ngày, khi tôi đùa đẩy phía sau nhà, có một lời chỉ dẫn từ vua. Nghe viên quan kể câu chuyện, tôi hiểu và chỉ cho viên quan cách xâu sợi chỉ qua mây câu bằng bài hát:
'Tang tình tang! Tính tình tang'
Buộc con kiến, chỉ ngang lưng
Bên thời, bưng giấy mà lấy
Bên thời, kiến mừng đến sang
Tang tình tang...'
Viên quan vui mừng quay về triều đình và thực hiện như lời tôi đã nói. Nhờ vậy, sợi chỉ dễ dàng xuyên qua ruột con ốc. Nghe tin, sứ giả của nước láng giềng thán phục không ngớt. Sau này, vua còn phong tôi làm trạng nguyên và mời vào cung vua để học hỏi.
Chuyện số 5
Cha và tôi sống yên bình trong một ngôi làng. Một ngày, khi chúng tôi đang làm ruộng, một viên quan đến và hỏi:
- Ông ơi, trâu của ông cày một ngày được bao nhiêu đoạn đường?
Cha tôi không biết phải trả lời thế nào, tôi liền hỏi quan:
- Xin hỏi ông đã biết câu này chưa. Nếu ông trả lời được ngựa ông đi một ngày được bao nhiêu bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được bao nhiêu đoạn đường.
Viên quan nghe tôi hỏi lại thế nào, ông ta lộ ra vẻ ngạc nhiên. Sau đó, ông hỏi về tên và địa chỉ của cha con tôi rồi cưỡi ngựa đi mất.
Một thời gian sau, vua ban cho làng tôi ba thúng gạo nếp và ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi cho ba con trâu sinh chín con. Năm sau phải nộp đủ, nếu không làng sẽ bị trừng phạt.
Nghe lệnh vua, cả làng hoảng sợ và lo lắng không biết phải làm sao. Tôi nghe thấy ngọn ngành câu chuyện, cha tôi thở dài suốt ngày. Tôi nói với cha:
- Hiếm khi có lộc vua ban, cha nên nói với làng là giết thịt hai con trâu và hai thúng gạo nếp để mọi người thưởng thức một bữa no say. Còn lại một con trâu và một thúng gạo, chúng ta sẽ xin làm lễ phí cho cha con tôi trải qua khó khăn này.
Cha tôi ngạc nhiên nhưng tôi quyết đoán nói:
- Cha hãy để con lo, mọi thứ sẽ được giải quyết.
Ngày hôm sau, cha tôi đến đình kể câu chuyện. Cả làng ban đầu hoang mang và ngạc nhiên, buộc cha con tôi phải cam kết bằng giấy mới dám làm thịt trâu và đốt gạo.
Sau đó vài ngày, hai cha con tôi sẵn sàng lên đường. Khi đến hoàng cung, tôi bảo cha đợi ở ngoài, còn tôi thì tiếp tục lẻn vào sân rồng và khóc to. Vua sai lính mang tôi vào và hỏi nguyên nhân.
- Cha tôi tôi nói rằng mẹ con đã qua đời sớm và cha tôi không muốn sinh em bé để con có bạn chơi, vì vậy con đã khóc. Con hy vọng đức vua sẽ phán cho cha con cho con được bạn.
Nghe tin, vua và các quan lại đều cười vui. Vua nói:
- Để có em, cha mày phải kiếm vợ khác cho bố mày, vì bố mày là đực, không thể sinh em bé được!
Thấy mọi việc diễn ra như dự đoán, tôi hồ hởi đáp:
- Vậy làm sao làng chúng ta lại nhận lệnh phải nuôi ba con trâu đực để sinh chín con để nộp vua? Đâu thể đực sinh con được!
Vua cười và nói:
- Thử một lần thôi mà! Sao làng không biết đem trâu ra thịt và cùng nhau ăn à?
- Trâu của vua, sau khi nhận được, làng biết đó là lộc của vua, nên đã tổ chức cỗ ăn mừng với nhau.
Vua và các quan đồng ý và sai người đưa hai cha con tôi đi sắp xếp chỗ ăn. Ngày sau, có sứ từ vua mang đến một con chim sẻ, yêu cầu dọn ba cỗ thức ăn. Tôi nhanh chóng nghĩ ra và bảo cha lấy một cái kim may, sau đó đưa cho sứ giả, nói:
- Mong ông mang cái này về cho vua rèn thành một con dao để xẻ thịt chim.
Ngay lập tức, vua gọi cả hai cha con tôi vào và ban thưởng rất hậu.
Một hôm, triều đình mời sứ thần đến nơi tôi và cha ăn ở. Khi nghe về việc xâu chỉ vào vỏ ốc, tôi hướng dẫn cách dùng con kiến càng để giải câu đố. Phương pháp đó được sứ giả nước láng giềng thán phục. Về sau, vua phong tôi làm Trạng nguyên và sai xây dựng dinh thự ở gần hoàng cung để tiện gặp gỡ.
https://Mytour.vn/ke-lai-truyen-em-be-thong-minh-bang-loi-van-cua-em-29143n.aspx
Bên cạnh truyện kể, câu ca dao và tục ngữ cũng là những tài liệu được nhiều người yêu thích. Bài ca dao 'Thân em như tấm lụa đào' đã phản ánh sâu sắc về thân phận của phụ nữ trong xã hội xưa. Đây là một điểm thú vị để tham khảo trong việc phân tích tác phẩm.