1. Bệnh Quai bị gây sưng đau ở vùng nào?
Sau khi nhiễm virus paramyxovirus, thường cần khoảng 18 đến 25 ngày để bệnh phát hiện, trong thời gian này không có triệu chứng đặc biệt.
Sau giai đoạn ủ bệnh, bệnh nhân thường phát hiện mệt mỏi, chán ăn, buồn nôn và sốt, kèm theo đau đầu và nhức mắt.
Khi bước vào giai đoạn toàn phát, bệnh nhân thường cảm nhận đau ở góc hàm, và tuyến mang tai bắt đầu sưng to dần. Sưng thường xảy ra ở cả hai bên, tuy nhiên độ sưng có thể không đồng đều. Khi quan sát, vùng sưng thường căng tròn và không có dấu hiệu đỏ. Khi ấn vào vùng sưng, bệnh nhân có thể cảm nhận đau nhưng không gây lõm.
Trẻ Mắc Quai bị Có Thể Bị Sốt
Câu Trả Lời cho Câu Hỏi “Bệnh quai bị gây sưng đau những vùng nào”
Thường thì sau 3 đến 4 ngày, bệnh nhân sẽ hết sốt và sau đó, tuyến nước bọt cũng sẽ giảm sưng dần. Bệnh sẽ tự khỏi trong khoảng 10 ngày. Hầu hết những người từng mắc quai bị sẽ không bị tái phát.
Bệnh quai bị có thể truyền nhiễm qua đường hô hấp
Hầu hết bệnh nhân mắc bệnh quai bị đều có các triệu chứng rõ ràng, tuy nhiên cũng có những trường hợp nhiễm virus mà không có triệu chứng, dễ bị nhầm lẫn với các bệnh khác. Những người nhiễm virus này có thể lây lan cho những người khỏe mạnh mà họ có thể không nhận ra.
2. Các Biến Chứng Nguy Hiểm Của Bệnh Quai bị
2.1. Phương Pháp Điều Trị Bệnh Quai bị
Hiện nay, cách tiếp cận bệnh quai bị chủ yếu là giảm nhẹ các triệu chứng vì chưa có loại thuốc cụ thể để điều trị bệnh này. Các biện pháp điều trị thường bao gồm sử dụng thuốc giảm đau, corticoid chống viêm hoặc áp dụng nhiệt để giảm đau cho bệnh nhân, súc miệng bằng nước muối sau khi ăn, ưu tiên lựa chọn thực phẩm dạng lỏng,...
Trong quá trình bệnh, bệnh nhân cần có thời gian nghỉ ngơi, tốt nhất là nằm nghỉ và hạn chế vận động, điều này càng quan trọng đối với trẻ em và thanh thiếu niên, đặc biệt là trong giai đoạn có sốt và sưng tuyến nước bọt.
Lưu ý rằng, bệnh quai bị có thể lây nhiễm cho người khác qua đường hô hấp, chủ yếu qua tiếp xúc với các giọt nước bắn khi giao tiếp hoặc ăn chung với người bệnh, tiếp xúc với các vật dụng chứa dịch tiết từ đường hô hấp của người bị bệnh,... Do đó, người bệnh cần phải tự cách ly ít nhất 2 tuần để ngăn ngừa sự lây lan cho người khác.
2.2. Nguy Cơ Biến Chứng Của Bệnh Quai bị
Ngoài việc quan tâm đến câu hỏi “Bệnh quai bị gây sưng đau ở những vùng nào”, thì nguy cơ biến chứng của bệnh quai bị cũng là một vấn đề đáng quan tâm, lo lắng. Dưới đây là một số biến chứng nguy hiểm thường gặp:
Tăng rủi ro vô sinh
Nếu không chăm sóc bệnh nhân đúng cách, những biến chứng của bệnh có thể xảy ra, trong đó nguy cơ vô sinh là một điều đáng lo ngại nhất khi mắc bệnh quai bị.
Bệnh quai bị có thể gây tăng rủi ro vô sinh
Cụ thể, những người mắc bệnh quai bị khi đã ở tuổi vị thành niên, ngoài triệu chứng sưng tuyến mang tai, còn có thể gặp phải sưng đau ở 1 hoặc 2 bên tinh hoàn. Khoảng 2 tháng sau mới có thể nhận biết được tình trạng teo tinh hoàn. Trong trường hợp tinh hoàn bị teo, có thể tăng nguy cơ vô sinh. Thường khoảng 30 đến 40% trường hợp teo tinh hoàn là do bệnh quai bị gây ra.
Sinh non hoặc thai chết lưu
Nếu phụ nữ mang thai mắc bệnh quai bị trong 3 tháng đầu thai kỳ, có thể gặp sảy thai hoặc sinh con mang dị tật bẩm sinh. Phụ nữ mắc bệnh ở giai đoạn cuối thai kỳ có thể phải đối mặt với sinh non hoặc thai chết lưu.
Nhồi máu phổi
Sau viêm tinh hoàn, có thể gặp biến chứng nhồi máu phổi do huyết khối từ tĩnh mạch tiền liệt tuyến. Tình trạng này có thể gây hoại tử mô phổi, vô cùng nguy hiểm.
Viêm buồng trứng
Các bé gái mắc quai bị khi đã qua tuổi dậy thì có thể phải đối mặt với nguy cơ viêm buồng trứng, gây ra vấn đề vô sinh.
Viêm tụy
Đây là một biến chứng nguy hiểm của quai bị với tỷ lệ từ 3 đến 7%.
Tổn thương thần kinh
Một số bệnh nhân mắc quai bị không được chăm sóc đúng cách có thể gây ra tổn thương cho thần kinh, như viêm não, viêm màng não. Điều này khiến họ gặp đau đầu, co giật, rối loạn thị giác, viêm đa rễ thần kinh hoặc viêm tủy sống cắt ngang.
Tiêm vaccine để ngăn ngừa bệnh quai bị
Ngoài những biến chứng đã đề cập, người bệnh cũng có nguy cơ phát triển một số biến chứng khác như viêm màng cơ tim, viêm tuyến giáp, viêm phổi, viêm phế quản, xuất huyết do giảm tiểu cầu,…
Hiện nay, phương pháp phòng ngừa tốt nhất vẫn là tiêm vaccine ngừa bệnh quai bị. Đây là cách rất hiệu quả để tạo ra kháng thể, duy trì miễn dịch ít nhất trong khoảng 17 năm. Trẻ em dưới 1 tuổi, trẻ em trong độ tuổi dậy thì, phụ nữ mang thai, người phải tiếp xúc với bệnh nhân mắc quai bị,… được khuyến khích tiêm phòng để bảo vệ sức khỏe.