Bệnh sốt là một dấu hiệu thông thường trong y học, xuất hiện khi nhiệt độ cơ thể cao hơn mức bình thường khoảng 36.5–37.5 °C (98–100 °F).
Sốt thường là phản ứng của cơ thể với nhiễm trùng, thường kéo dài từ 2 đến 3 ngày. Ngoài ra, sốt cũng có thể do các nguyên nhân khác như tiếp xúc với nước nóng, tập thể dục, chích ngừa hoặc căng thẳng.
Các giai đoạn của bệnh sốt
Bệnh sốt có ba giai đoạn:
- Sốt tăng: sản xuất nhiệt cao, khả năng thải nhiệt giảm khiến nhiệt độ trong cơ thể cao hơn nhiệt độ môi trường. Khi đó, bệnh nhân có cảm giác rét run, ớn lạnh, da khô nóng, không đổ mồ hôi...
- Sốt đứng: tỷ lệ sản nhiệt/thải nhiệt = 1, cơ thể vẫn còn nóng nhưng đã giảm đi, thân nhiệt cao, da khô, không đổ mồ hôi và ít đi tiểu
- Sốt lui: sản xuất nhiệt giảm, thải nhiệt tăng, lúc này cơ thể bệnh nhân đổ mồ hôi nhiều, tiểu nhiều, nhiệt độ cơ thể giảm, cảm thấy rét lạnh
Nguyên nhân
Sốt là triệu chứng thông thường của nhiều bệnh:
- Những bệnh truyền nhiễm như cúm, HIV, sốt rét, hoặc Covid19- SARS-CoV2
- Các loại viêm khác nhau như nhọt, mụn, trứng cá, hoặc áp xe
- Những bệnh tự miễn như lupus đỏ, Sarcoidosisban, sarcoidosis
- Cơ thể phản ứng với sự bất đồng nhóm máu
- Ung thư
- Các bệnh rối loạn tiêu hóa như gút hoặc bệnh ma cà rồng (porphyria)
- Truyền protein lạ vào cơ thể để gây sốt nhầm mục đích điều trị
- Tiêm muối dưới da hoặc tiêm bắp gây ưu trương dẫn đến hủy hoại cấu trúc và gây sốt.
- Mỡ dư thừa chèn vào trung khu thần kinh não bộ gây sốt.
Sốt kéo dài mà hiện nay y học vẫn chưa tìm ra nguyên nhân gọi là sốt không rõ nguồn gốc.
Cơ chế gây sốt
Nguyên nhân trực tiếp gây ra cơn sốt trong cơ thể là các chất gây sốt nội sinh - là một loại protein được hình thành bên trong cơ thể. Hiện nay đã xác định được 11 chất gây sốt nội sinh, trong đó phổ biến nhất là các loại interleukin.
Quá trình sốt bắt đầu khi tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể và tiết ra các chất độc gây sốt ngoại sinh (độc tố của vi sinh vật, tác nhân lạ,...). Những chất này kích thích các đại thực bào và bạch cầu trung tính tiết ra các chất gây sốt nội sinh. Chúng tác động lên trung tâm điều nhiệt của cơ thể, kích hoạt acid arachidonic, làm sản sinh monoamin gây thay đổi setpoint (điểm đặt nhiệt), dẫn tới tăng sản nhiệt và giảm thải nhiệt toàn cơ thể, gây ra cơn sốt.
Một cơ chế khác bắt đầu khi các lympho T kết hợp với kháng nguyên, dẫn đến tiết ra lymphokin kích hoạt bạch cầu đa nhân và đại thực bào tiết ra các chất gây sốt nội sinh. Các diễn tiến sau đó tương tự.
Các biến chứng của sốt
Biến chứng chuyển hóa
- Thoái hóa glucid xảy ra mạnh mẽ, tăng phân giải glycogen để tăng đường huyết, nếu sốt kéo dài sẽ tích nhiều axit lactic gây toan hóa máu
- Thoái hóa lipid, protid cũng được cường độ để đáp ứng nhu cầu cơ thể, tạo ra nhiều sản phẩm trung gian gây hại cho nội môi
- Ngoài ra, cơ thể còn cần các vitamin B và C, hormon aldosterol và ADH,...
Biến chứng của các cơ quan
- Tăng nhịp tim, tần số nhịp tim tăng
- Tăng lưu lượng khí, hô hấp nhanh và sâu
- Ăn uống không ngon miệng do giảm tiết men và giảm co bóp ống tiêu hóa
- Đái niệu trong giai đoạn sốt tăng và sốt lui, tiểu niệu trong giai đoạn sốt đứng.
- Tăng ACTH, tăng chức năng gan, tăng hệ miễn dịch
Các loại bệnh sốt
- Sốt liên tục: sốt cao kéo dài qua các ngày, thường gặp trong sốt thương hàn, viêm phổi
- Sốt lần lượt: sốt một ngày sau đó giảm trong vài ngày rồi lại sốt trở lại, thường có chu kỳ gặp trong sốt rét
- Sốt hồi phục: sốt cao rồi dần giảm, sau đó lại sốt trở lại, gặp trong nhiễm trùng bởi vi khuẩn Leptospira
- Sốt dao động: sốt kéo dài trong một khoảng thời gian nhất định trong ngày, sau đó giảm sốt, gặp trong lao phổi hoặc viêm đường hô hấp trên
Phương pháp điều trị
Để điều trị sốt hiệu quả, cần phải xác định nguyên nhân gây ra sốt.
Trong hầu hết các trường hợp, ngoài việc giảm sốt, acetaminophen hoặc ibuprofen cũng có thể được sử dụng để làm giảm nhiệt. Cung cấp thêm lượng dịch cho cơ thể qua đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch để ngăn ngừa mất nước nếu cần thiết.
Sốt do nhiễm siêu vi (sốt siêu vi) có thể tự khỏi. Bệnh nhân có thể được chỉ định sử dụng thuốc giảm sốt, giảm nghẹt mũi, giảm đau họng hoặc điều trị sổ mũi. Virus có thể gây nôn ói và tiêu chảy, cần truyền dịch qua tĩnh mạch để giảm tốc độ tiêu chảy và nôn ói. Một số loại nhiễm siêu vi ít có thể được điều trị bằng thuốc kháng siêu vi như Herpes và virus cúm. Nếu triệu chứng nhẹ và có thể uống nước, bệnh nhân có thể về nhà mà không cần nhập viện.
Những bệnh nhiễm vi khuẩn cần sử dụng kháng sinh đặc hiệu để điều trị, phụ thuộc vào loại vi khuẩn và vị trí nhiễm trùng trong cơ thể. Quyết định nhập viện hay về nhà sẽ được đưa ra dựa trên tình trạng bệnh hiện tại và các yếu tố bệnh kèm theo khác của bệnh nhân.
Hầu hết các trường hợp nhiễm nấm đều có thể điều trị bằng thuốc kháng nấm.
Sốt do thuốc có thể giảm sau khi ngừng sử dụng thuốc.
Nếu bị tắc máu do huyết khối, nên đi khám bệnh và sử dụng thuốc tán huyết.
Với bệnh nhân bị sốt do tiếp xúc nhiệt độ cao từ môi trường, cần làm mát ngay lập tức bằng cách cởi bỏ quần áo, sử dụng quạt phun sương và theo dõi chặt chẽ các dấu hiệu sinh tồn.