I. Cấu trúc bài viết
II. Bài mẫu
1. Mẫu số 1
2. Mẫu số 2
Mẫu văn Bi kịch của phụ nữ dưới thời phong kiến qua Độc Tiểu Thanh kí, Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc
I. Tổng quan:
1. Khám phá
- Nguyễn Du đã tóm tắt về số phận chung của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, nơi mà giá trị nam áp đảo nữ, bằng những câu thơ như:
Đau đớn phận đàn bà!
Lời nói rằng bạc mệnh cũng là điều chung.
- Định mệnh hiển lộ rõ qua ba sáng tác: Độc Tiểu Thanh kí của Nguyễn Du. Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều.
2. Phần chính
* Bi kịch đau đớn và cái chết không công bằng của Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh kí:
- Với hoàn cảnh khó khăn, Tiểu Thanh, người tài năng, phải thành thương gia giàu có.
- Bị vợ cả ghen tuông, bị nhốt trong ngôi nhà trên núi Côn Sơn.
- Đau khổ và tủi thân, Tiểu Thanh thể hiện tâm trạng qua những bài thơ của mình. Cô qua đời khi mới 18 tuổi.
- Bị vợ cả đốt cháy tập thơ của mình.
- Bi kịch của Tiểu Thanh là bị mất đi tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc lứa đôi.
* Định mệnh cô đơn, nỗi đau khổ của người chinh phụ:
- Khi chồng đi trận, người chinh phụ sống trong tâm trạng lo lắng, chờ đợi và tuyệt vọng.
- Nàng tự hỏi tại sao hạnh phúc lứa đôi lại bị chia lìa. Đằng sau nỗi lo sợ là thái độ oán trách, lên án chiến tranh vì đẫm máu và mang lại nỗi đau đớn: Những đôi tình nhân đang yêu bị đẩy vào cảnh mất mát.
- Nỗi cô đơn áp đảo tâm hồn người chinh phụ qua những đêm dài thức trắng, nhớ mong và lo sợ cho người thân đang ở chiến trận. Niềm đau không thể chia sẻ, chỉ biết gửi theo cơn gió.
* Định mệnh bị lãng quên, bị tước đoạt hạnh phúc của người cung nữ:
- Khi mới nhập cung, xinh đẹp như bông hoa mới nở.
- Chưa đến một khoảng thời gian ngắn, đã bị vua quên lãng.
- Luôn sống trong tâm trạng chờ đợi mệt mỏi, cảm giác như bông hoa đã phai tàn.
- Bức bối, tủi hờn, cảm giác không công bằng, mong muốn thoát khỏi cung đi để trở về cuộc sống bình thường, nơi được yêu thương và tự do.
3. Kết luận
- Các nhà thơ đã đưa số phận đau khổ của người phụ nữ vào văn chương với lòng cảm thông và thương xót. Bi kịch của phụ nữ trong xã hội phong kiến luôn làm xao lạc trái tim độc giả.
- Chế độ phong kiến đã tước đoạt quyền tự do sống, cướp đi hạnh phúc của người phụ nữ. Xã hội vô nhân đạo đó xứng đáng bị lên án và phải bị loại bỏ.
II. Mẫu văn Bi kịch của người phụ nữ dưới thời phong kiến qua Độc Tiểu Thanh kí, Chinh phụ ngâm khúc và Cung oán ngâm khúc
1. Bi kịch của người phụ nữ dưới thời phong kiến qua Độc Tiểu Thanh kí, Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc, mẫu số 1:
Trong tác phẩm Truyện Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã sử dụng lời của Thuý Kiều - người phụ nữ tài năng và bất hạnh, để tóm tắt về số phận bi thảm của phụ nữ trong thời kỳ phong kiến, nơi mà giá trị nam được ưu ái hơn nữ:
Đau đớn phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là điều chung.
Câu thơ tràn đầy nỗi xót xa, thương cảm, như là lời than van phản ánh trước số phận không công bằng. Tiếc thay, trong xã hội như vậy, bạc mệnh trở thành số phận chung của nhiều phụ nữ. Các tác phẩm nổi tiếng như Độc Tiểu Thanh kí (Nguyễn Du), Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn) và Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều) đã làm rõ điều này.
Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán xuất sắc của Nguyễn Du, được in trong tập Thanh Hiên thi. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài thơ này trước hoặc sau khi được triều đình nhà Nguyễn cử đi sứ Trung Quốc. Hình ảnh Tây Hổ kết hợp với câu chuyện về Tiểu Thanh, cô gái tài sắc sống đầu đời Minh, làm nổi bật. Với số phận bi đau, Tiểu Thanh phải làm thương gia giàu có ở Hàng Châu. Bị vợ cả ghen tỵ, nàng bị nhốt trong ngôi nhà trên núi Cô Sơn. Tuổi thanh xuân của nàng bị giam giữ trong bốn bức tường hoang vu. Trong tâm trạng đau khổ và nuối tiếc, Tiểu Thanh sáng tác tập thơ thể hiện cảm xúc. Không lâu sau, cô qua đời vì buồn bã, khi mới 18 tuổi. Ngay cả sau cái chết, vợ cả vẫn ghen tỵ, đốt cháy tập thơ của Tiểu Thanh. May mắn, một số bài vẫn được sao chép và gọi là Phần Dư (đốt còn sót lại), kể về câu chuyện bi thảm của nàng.
Khi Nguyễn Du lạc quan vào những bài thơ ấy, tâm hồn bùng cháy ý thức về tình yêu và lòng trắc ẩn trước nghịch cảnh của cô gái tài năng nhưng đen đủi. Ông bày tỏ sự lo lắng và hồi hộp trước số phận bi thảm của những phụ nữ tài năng khác, cảm xúc ấy được tác giả thể hiện rõ trong bài thơ nổi tiếng:
Tây Hồ hiên ngang biến thành vùng đất hoang sơ,
Đau đớn bên bờ sông lá thư cuối cùng.
Mỹ phẩm mang theo phép màu nhưng vẫn giữ niềm hận,
Văn chương vẫn còn sót lại như một ngọn lửa cuối cùng.
Nỗi oan trái trên cổ kim đã chôn sâu vào trời,
Lối sống thảnh thơi của những du khách tự do,
Chẳng còn gì sau ba trăm năm nữa,
Người ta đang khóc thương cho Tố Như ở đâu?
Khi đến với Tiểu Thanh, ba trăm năm sau cái chết của nàng, nhà thơ bàng hoàng trước hình ảnh bi thảm của cuộc sống, nơi cảnh đẹp tuyệt vời của Tây Hồ đã biến thành nơi hoang vu và bị thời gian làm mờ hết. Trên vùng đất hoang này, giữa những cảnh đẹp tàn phá, nằm chôn sâu những xác xơ của Tiểu Thanh, người phụ nữ đen đủi. Khi nhắc đến vẻ đẹp của Tây Hồ, tác giả chắc chắn muốn nói về những con người đã từng sống ở đây, đặc biệt là nàng Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài năng này giờ đây chỉ còn lại trong những truyền thuyết, khiến cho tình cảm của thi sĩ trở nên gấp bội. Trái tim của ông rơi vào những cảm xúc khi đọc tập thơ đặc biệt về cuộc sống đầy bi thảm của một người phụ nữ xấu số:
Tây Hồ vẻ đẹp hoá thành cảnh đồng hoang,
Thổn thức bên bờ sông giấy tàn.
Phân tích Bi kịch của người phụ nữ trong thời kỳ phong kiến qua những bản kí của Độc Tiểu Thanh, Chinh phụ ngâm, và Cung oán ngâm khúc
Tiểu Thanh đã truyền đạt tâm hồn của mình như thế nào qua tập thơ? Chắc chắn đó là nỗi buồn sâu sắc về thân phận, nỗi đau lòng về duyên kiếp gặp nhiều đau khổ, và hơn cả là nỗi đau tột cùng khi tình yêu không có đối tác. Nhà thơ đau đáu vì Tiểu Thanh, người phụ nữ tài năng nhưng đen đủi, và ông cảm nhận như linh hồn của nàng vẫn còn tồn tại ở mọi nơi. Nàng đã qua đời trong sự cô đơn và nỗi đau tột cùng. Tuổi thanh xuân của nàng đã bị bóp méo, và làm thế nào nàng có thể thoát khỏi số phận thê thảm đó?
Mỹ phẩm có ma thuật chôn sâu nhưng vẫn mang theo nỗi hận,
Văn chương không mệnh nhưng lưu truyền mãi mãi.
Mỹ phẩm đại diện cho vẻ đẹp của phụ nữ, một vẻ đẹp mà có ma thuật. Dù người đẹp có thể trải qua những khó khăn, bị lạc lõng và qua đời, tên tuổi của họ vẫn được kính trọng và truyền bá mãi mãi như Tây Thi, Dương Quý Phi... Văn chương là tài năng của Tiểu Thanh và cũng là vẻ đẹp tinh thần của giới văn nhân tài tử. Mục tiêu vô mệnh vì nó không biết đến sự sống và chết. Nhưng ở đây, mục tiêu như có linh hồn, cũng biết giữ lại những cảm xúc của giận dữ và cố gắng chống lại sự tàn phá để tồn tại, để gửi đi những thông điệp tâm huyết đến thế hệ sau.
Dù tập thơ của Tiểu Thanh đã bị đốt cháy một phần lớn, chỉ ít nhất còn lại nhưng đủ để làm người đọc cảm thấy thương cảm và đau lòng cho nàng. Trong xã hội phong kiến xưa, bấy nhiêu Tiểu Thanh khác nhau đã trải qua những đau khổ như thế? Cùng với sự đồng cảm và thương cảm của Nguyễn Du, Đặng Trần Côn đã sáng tác Chinh phụ ngâm để phản ánh nỗi đau của phụ nữ có chồng tham gia chiến trận, lên án chiến tranh và hậu quả của việc tách biệt gia đình. Tác phẩm này chứa đựng tư tưởng về quyền sống và quyền hạnh phúc của con người. Nữ sĩ Đoàn Thị Điểm đã dịch từ chữ Hán sang chữ Nôm, truyền đạt nội dung và nghệ thuật của nguyên tác một cách tinh tế.
Trích đoạn Tinh cảnh lẻ loi của người chinh phụ từ câu 193 đến câu 228, mô tả về cảnh chinh phụ trở về sau buổi tiễn đưa, tưởng tượng về chiến trường nguy hiểm mà chồng đang phải đối mặt, khiến nàng đau đớn và lo lắng. Nàng tự hỏi một lần nữa, tại sao đôi trai gái phải chia lìa? Tại sao nàng phải đối mặt với cuộc sống cô đơn, nuôi mẹ già và con cái dại dột? Tại sao nàng có chồng nhưng lại phải sống trong cảnh đau đớn của sự cô đơn? Đoạn thơ này là biểu hiện rõ nhất về tài năng miêu tả tâm trạng nhân vật của tác giả.
Người chồng đã bắt đầu hành trình ra trận, người vợ trẻ cảm thấy lòng trống vắng. Nàng đi lang thang trong sự yên tĩnh, gieo bước chân nhẹ nhàng, trong nỗi cô đơn nặng trĩu. Tâm trạng nàng bối rối, không yên, mong chờ tin tức mà chẳng thấy đâu. Một mình, với đèn hồng bên cạnh, nàng trải qua năm tháng buồn bã không có ai để chia sẻ:
Đèn có lẽ cũng không hiểu,
Lòng em một mình biết thôi.
Buồn thảm mà chẳng nói nên lời,
Hoa đèn và bóng người đều đáng thương!
Gà gáy trong mơ mộng trống cỏ,
Cánh cò phất phơ, bóng bốn phía.
Khắc giờ chờ đợi như nỗi niềm,
Nỗi sầu chồng chất tựa biển xa xôi.
Nỗi oán trái lòng hiện lên rõ trong từng chữ, từng câu, mặc dù tác giả không nói ra hai từ chiến tranh:
Hương thơm đốt cháy hồn say mê,
Gương soi phản ánh lộ châu báu.
Sắt cầm gượng đàn vang vọng,
Dây uyển kinh chia đôi, tiếng hòa âm thấu lòng.
Sắt cầm, uyên ương, dây đàn là những hình ảnh mơ mộng, biểu tượng cho tình yêu nam nữ và tình nghĩa vợ chồng. Nhưng giờ đây, sự xa cách khiến cho tất cả trở nên vô nghĩa. Người chinh phụ dường như tránh xa mọi thứ vì sợ rơi vào sự chia lìa, tan vỡ hạnh phúc của cuộc sống đôi lứa. Tâm hồn nàng trở nên bất an, chán chường, làm cuộc sống trở nên đau khổ. Trong sự hoang mang và tuyệt vọng, nàng chỉ còn biết truyền đạt những nỗi nhớ và tình cảm theo làn gió:
Lòng này có gửi đến gió đông?
Nghìn vàng truyền đến nơi êm đềm.
Chốn êm đềm xa lạ, đường lên trời không rõ,
Nàng nhớ chàng thăm thẳm trong tâm hồn mênh mông.
Trời bao la, vô tận khó lường,
Nỗi đau của chàng không hề dễ chấp nhận.
Canh cảnh buồn làm nàng run rẩy lòng,
Cành cây đọng sương, tiếng trùng vang lên gió mưa.
Tình hình đó, tâm lự ấy đã thổ lộ bi kịch của người phụ nữ không có niềm vui sống trong xã hội cổ đại, đồng thời phản ánh tư tưởng chống chiến tranh của tác giả. Bài Cung oản ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều là câu chuyện bi đát của người cung nữ tài sắc, ban đầu được vua yêu quý, nhưng không mấy lâu sau đó bị bỏ rơi, lãng quên, sống trong cung cấm. Nàng thương xót cho thân phận của mình và oán trách nhà vua phụ bạc.
Trích đoạn Nỗi oán trách của người cung nữ gồm 36 câu, từ câu 209 đến câu 244 trong tác phẩm. Nhà thơ mô tả tâm trạng đắng cay, chua chát của người cung nữ:
Bóng trời cung điệu âm thầm nắng chiều,
Đêm năm canh trông chờ từng giờ.
Làm gì có nghĩa là chờ chực
Hoa nở trắng nhường nhịp hương rơi.
Trong cảnh cô đơn và tuyệt vọng, nàng hồi tưởng về thời điểm mới nhập cung, vẻ đẹp tươi tắn, như bông hoa mới nở, thơm ngát hương sắc. Nhưng bây giờ, số phận của nàng chẳng khác gì bông hoa tàn nhạt, không ai quan tâm hay để ý. Càng suy ngẫm, càng đau đớn. Nỗi đau và sự cay đắng dâng lên cùng với thời gian, làm nàng giằng xé tâm hồn và cơ thể. Người cung nữ trở nên chua chát và không hài lòng trước một thực tế phi lý: Bỗng chốc trở thành người bị ruồng bỏ, có nghĩa là nàng không khác gì một người phụ nữ lẻ loi, và trớ trêu hơn là một người phụ nữ lẻ loi giữa tuổi xuân tươi trẻ. Tâm trạng của người cung nữ chìm đắm trong cảm giác chán chường, tuyệt vọng. Không thể thoát khỏi cảnh đơn độc, nàng lẻ loi vào cuộc sống tâm linh đầy giằng xé và đau đớn. Nàng chán chường đến mức khắc khoải, thất vọng đến mức mơ hồ và đau đớn đến nỗi làm tan nát trái tim khi đối mặt trực tiếp với tình hình đau buồn của số phận:
Đứng lẻ bóng đêm, ngồi khóc than,
Đã than với trăng dưới đám cỏ hoa!
Buồn đau lòng khắc sâu tận tâm hồn,
Chán chường ngàn chiều, bước đi mơ mộng.
Hoa kia, bướm cũng tỏ ra lạnh lùng,
Để bông héo phai, nhụy vàng rụt rè!
Nỗi buồn uất hẳn đã kéo dài quá mức có thể chịu đựng, người cung nữ trút giận lên nhà vua một cách gián tiếp nhưng không kém phần mãnh liệt:
Đêm đen canh bạch lần mặt tường cung,
Nỗi buồn này đủ khiến ai muốn tự sát.
Tự sát không giải quyết được vấn đề,
Thậm chí còn là cách tự làm đau lòng đơn độc!
Cuối cùng, nàng tỏ ra không bằng lòng trước số phận đầy đau khổ và muốn phá hủy toàn bộ cung điện lộng lẫy để trở về với cuộc sống giản dị, hạnh phúc như mọi người bình thường:
Tay cầm nguyệt già không xe đụng đâu!
Xe như thế này có dở dang không?
Dứt tơ hồng muốn chẳng bằng dang tay,
Đạp tiêu phòng muốn giải toả bực mình!
Các bậc thơ sĩ tâm huyết đã đưa hình ảnh người phụ nữ và bi kịch của họ vào văn chương, là di sản muôn đời. Những số phận bi thảm như của Tiểu Thanh, Thuý Kiều, người chinh phụ, cung nữ trẻ chỉ là một phần nhỏ trong hàng triệu câu chuyện đau khổ dưới xã hội phong kiến, nơi có những ràng buộc khắt khe và định kiến nghiêm trọng đối với phụ nữ. Đọc những bài thơ này, ta thấu hiểu vì sao cần phải phá bỏ những giới hạn xã hội cổ hủ, không công bằng để bảo vệ quyền tự do và hạnh phúc cho phụ nữ và toàn bộ nhân loại.
2. Bi kịch của người phụ nữ dưới thời phong kiến qua Độc Tiểu Thanh kí, Chinh phụ ngâm và Cung oán ngâm khúc, mẫu số 2:
Khi nói về số phận của Kiều, Nguyễn Du cảm thấy đau lòng và viết rằng:
'Khổ đau cho phận người con gái
Lời nói rằng bạc mệnh chung nhất'
Tư duy có vẻ tiêu cực, nhưng thực tế đúng như vậy. Dưới chế độ phong kiến, phụ nữ phải chịu đựng nhiều thiệt thòi, trở thành nạn nhân của những tư tưởng lạc hậu. Tư tưởng 'ưu tiên nam giới, khinh nữ giới' là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến bi kịch của phụ nữ. Phụ nữ không có quyền quyết định số phận, bị hạn chế về học vấn, và sống dựa vào sự phụ thuộc. Thấu hiểu nỗi đau của phụ nữ trong xã hội cũ, các nhà văn xưa đã ghi lại những bi kịch qua số phận của phụ nữ. Mỗi người có một nỗi đau riêng, nhưng nỗi đau chung nhất là bất hạnh trong tình duyên.
Phụ nữ, vốn là những người nhạy cảm. Điều này đã làm cho họ phải đối mặt với nhiều khó khăn hơn so với nam giới. Sự nhạy cảm, đa cảm và đa đoan đã làm cho phụ nữ luôn phải đối diện với bất hạnh dù sống trong bối cảnh nào. Trong xã hội cổ, khi đàn ông có quyền lấy nhiều vợ, những bất hạnh mà phụ nữ phải trải qua càng lớn. Họ sống trong hoàn cảnh 'Chồng chung đâu dễ ai như mơ', phải đối mặt với nỗi đau đắng và đau lòng. Nguyên tác của nữ sĩ Hồ Xuân Hương - người phụ nữ mạnh mẽ - thể hiện sự phẫn nộ khi phải sống trong nỗi đau ấy:
'Người đan chăn, kẻ lạnh lùng
Kéo cái kiếp lấy chồng chung'
Chuyện lấy chồng chung, lòng ghen tuông quý tộc trong Hoạn Thư đã đẩy Thuý Kiều - Thúc Sinh vào cảnh nguy cơ:
'Trong một bức tranh tơ đồng
Ngoài kia cười nụ, trong này khóc thầm'
Nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh Kí của Nguyễn Du và người cung nữ trong Cung oán ngâm đều trải qua nỗi đau tương tự. Tuy nhiên, bi kịch của họ đau đớn hơn nhiều. Tiểu Thanh, tài sắc vẹn toàn, lại phải đối mặt với việc phải làm vợ phụ của họ Phùng, bị người vợ cả của chồng hành hạ đến chết trong cảnh cô đơn. Còn những người cung nữ, dù là trang quốc sắc thiên hương, nhưng sống mệt mỏi trong cảnh cô đơn buồn tủi vì bị vua chúa bỏ quên giữa chốn thâm cung. Họ đều là nạn nhân của chế độ đa thê.
Cảm nhận Bi kịch của người phụ nữ dưới thời phong kiến qua Độc Tiểu Thanh Kí, Chinh Phụ Ngâm và Cung Oán Ngâm Khúc
Phận đời mỉm cười với nàng Tiểu Thanh và người cung nữ, người chinh phụ, ban phát cho họ những tháng ngày hạnh phúc lứa đôi ngọt ngào. Nhưng bi kịch của nàng bắt đầu từ chiến tranh. Nàng tiễn chồng ra đi với hy vọng anh lập công, được ấn phong hầu. Phong hầu chưa thấy đâu, nàng chờ đợi mệt mỏi trong cô đơn, nhìn tuổi xuân trôi qua vô vọng. Niềm khao khát hạnh phúc và sự cô đơn đã làm người chinh phụ nhận ra rằng công danh, ấn phong hầu chỉ là những điều hư vô và không ý nghĩa. Trong cô đơn, người chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn trở nên giống người chinh phụ trong Khuê Oán của Vương Xương Linh:
'Đầu dương liễu sắc nổi lên như một mảng tranh
Phong hầu đã bỏ mặc phu thê để tìm kiếm'
(Bỗng thấy màu sắc của dương liễu đầu đường Tấn bi kịch chung nhất của nàng Tiểu Thanh, người cung nữ, và người chinh phụ cũng là bi kịch của đa số phụ nữ trong xã hội cũ. Đó là bi kịch hạnh phúc lứa đôi không trọn vẹn. Khi người phụ nữ không có quyền quyết định về hạnh phúc, họ khó mà đạt được hạnh phúc, và nếu có, thì nó rất mong manh. Hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội cũ phụ thuộc vào sự may mắn: Hồn em rơi như giọt mưa Bi kịch của Tiểu Thanh là bi kịch của số phận mộc mạc. Trong chế độ đa thê, người vợ cả thường có quyền lực cao, nếu chồng yếu đuối, quyền lực sinh sát rơi vào tay bà hoặc người phụ nữ độc ác nhất. Các vợ khác phải chịu đựng nỗi đau và ghen tuông. Tiểu Thanh, tài sắc nhưng chết yếu dưới gót của người vợ cả. Bi kịch của nàng làm rơi nước mắt như câu chuyện của Tố Như: 'Lễ phục hầu bàn, linh tâm trường tồn Những người phụ nữ như Tiểu Thanh thường nhạy cảm và đau đớn. Bị hành hạ khi sống, thậm chí cả khi chết, tâm sự tủi hờn trong những bài thơ cũng bị đốt cháy. Bi kịch của Tiểu Thanh là biểu tượng của nhiều phụ nữ trong xã hội cũ, sống trong cô đơn và nhục nhã. Bi kịch của người cung nữ trong chốn thâm cung cũng tương tự. Được chọn vào cung khi còn trẻ trung, xinh đẹp để phục vụ vua. Trong chốn thâm cung, hàng ngàn mỹ nhân chỉ để được vua chú ý. Họ sống trong hy vọng và chờ đợi, nhưng mọi thứ đều mong manh. Nhiều cung nữ chỉ biết về chốn thâm cung, cuộc đời không một lần nhìn thấy mặt vua. Có người sống cả đời trong bóng tối, mặt vua chẳng bao giờ quay về. Khi tóc đã bạc, khi trở về quê nhà, họ chỉ là cô gái bình thường. May mắn có người được vua nhớ đến, nhưng cũng chỉ là thoáng qua. Sau đó, họ sống trong cô đơn và đau khổ, vùng vẫy giữa những khát khao hạnh phúc vụt tắt. Trong cuộc sống của cung nữ, không chỉ có cô đơn và đau khổ, mà còn là sự tranh giành, ghen tuông, với tiền và quyền lực để được gần vua. Khi thất sủng, trong chốn thâm cung, họ chỉ biết sống trong tuyệt vọng, đau khổ và cô đơn. Nàng cung nữ trẻ tuổi, đẹp đẽ, tràn đầy sức sống và hy vọng, giờ đây trở thành người phụ nữ cô đơn, thổn thức trong lời than uất của mình: 'Đêm năm canh lần nương vách quế, Bi kịch của người cung nữ chỉ ra rõ bản chất vô nhân đạo của chế độ phong kiến. Chốn thâm cung trở thành nơi chôn sống nhiều người con gái tài sắc. Đây là chiến trường của những người phụ nữ, họ đấu tranh, ganh đua để giành một chút hạnh phúc, một chút quan tâm từ vua. Cuộc sống của cung nữ không chỉ cô đơn và buồn tủi, mà còn là cuộc đua với số phận và sự thống trị. Người cung nữ đau đớn trong cô đơn, người chinh phụ mệt mỏi trong trông đợi chồng đi chiến trận. Chờ đợi chồng mang ấn phong hầu trở về để vang danh dòng họ, nhưng sự đợi chờ của họ là vô vọng. Người chinh phụ sống trong sự cô đơn và mệt mỏi. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi đã giày vò họ. Bi kịch của họ là biểu tượng cho nỗi cô đơn. Người chinh phụ không biết khi nào chồng trở về. Chiến tranh phong kiến cướp đi hạnh phúc và tuổi trẻ của họ.
Rơi trên đỉnh đài, rơi trên ruộng cày
Văn chương vô tận, lụy số dư'
Chất buồn này ai để giết nhau.
Giết nhau chẳng phải vì lợi lạc,
Giết nhau vì u sầu độc chưa.'