Không biết ai đã đọc và tự hỏi về tác giả của bốn câu trên là ai và họ viết với mục đích gì. Không biết ai đã khiến cho một ai đó phải thốt lên như thế. Không biết và không biết. Có lẽ Nam Cao cũng thế. Có thể ông cũng không biết gì về lời than với thân, than với trời của Từ, vì khi kết thúc truyện ngắn “Đời thừa”, ông bỏ qua câu hát ru của Từ. Có vẻ như câu hát này là một câu hỏi mà Nam Cao vô tình hoặc cố ý đặt vào cuộc đời của Từ. Nhưng không, cái câu hỏi mà Nam Cao đặt vô tình hoặc cố ý lại là một dấu chấm mà ông đã đặt trước, vào cuộc đời của chồng Từ – văn sĩ Hộ. Ông kết thúc cuộc đời của Hộ bằng một dấu chấm. Hộ đầy rẻo rà, bế tắc và cuộc sống của nhà văn này bắt đầu trở nên “tàn khốc”, với nhiều nỗi đau.
Dưới bàn tay của Nam Cao, con người Hộ là một người có tài trong việc “viết thơ”. Thật vậy, Hộ là “một nhà văn”. Và anh ấy muốn thông qua việc viết để truyền đạt tình thương, tình yêu của một con người cho mọi người. Không biết có bao nhiêu người như Hộ trên thế giới này, đặc biệt là trong thời kỳ phong kiến, thực dân này? Quá to lớn, quá cao cả, quá con người! Nhưng Nam Cao đã đặt anh ấy vào một tình huống khó khăn, mà thậm chí trời cũng có thể không giải quyết được. Cuộc sống của “chàng trai trẻ tuổi mê mẩn lý tưởng” “nguyên nghèo” đã gặp được Từ. Hoàn cảnh đã khiến Hộ và Từ trở thành vợ chồng. Hộ lấy Từ vì anh ấy thương xót hoàn cảnh của Từ và muốn sống để nuôi Từ. Nhưng có vẻ như sự thương xót của Hộ đã đưa anh ta vào cuộc sống “nghèo nàn”. Đó là lỗi của sự thương xót. Sự thương xót đã khiến Hộ phải căm tức, căm ghét. Hộ nghèo, và bây giờ còn khốn khổ hơn. Khi anh ấy chỉ còn một mình, việc viết là nguồn thu nhập chính của Hộ và có thể chỉ đủ để nuôi anh. Nhưng bây giờ, việc viết kia phải gánh thêm trách nhiệm của vợ con trên vai. Nhà văn này phải viết những tác phẩm “nhanh chóng”, “không có gì nổi bật”, “một vài ý rất thông thường được rải rác trong văn chương phổ biến và quá dễ dãi”. Anh là một nhà văn đạo đức, đúng lương tâm nghề nghiệp mà bây giờ lại phải “giả dối”, “vô lương như một kẻ hèn hạ”, “một tên nhỏ bé, kiêu ngạo”. Vậy nên, Hộ tin rằng “sự lôi thôi trong văn chương thực sự là đê tiện”. Không chỉ riêng Hộ, mà mỗi người trên thế giới này, nếu là con người, họ đều sống theo quan điểm của mình. Nhưng số phận “nghèo khó” này đã làm cho Hộ không còn là người nữa, và nếu không nói sẽ trở thành một con vật, khi Hộ không thể sống theo quan điểm của mình. Đó là một số phận cay đắng và khốn nạn! Không biết ai sẽ hiểu được nỗi đau tinh thần này? Không biết và không biết.
Vì Hộ là một nhà văn có đạo đức và anh ấy muốn thông qua những tác phẩm của mình, tình thương dành cho mọi người sẽ được lan truyền khắp nơi, nên Hộ muốn có “một tác phẩm sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng thời kỳ”. Ai có thể nói rằng điều này là kiêu căng của Hộ, của một người “nguyên nghèo”, “đê tiện” như thế? Có thể mọi người có thể nghĩ như vậy, nhưng thực sự, Hộ đáng thương hơn là đáng ghét. Bởi vì với Hộ, một nhà văn luôn biết “đọc, suy nghĩ, tìm kiếm, đánh giá và suy luận mà không bao giờ chán nản”, ước mơ ấy không phải là kiêu ngạo. Và anh ấy muốn chỉ có một cuốn sách, một tác phẩm do chính mình viết “sẽ giành được giải Nobel và được dịch ra tất cả các ngôn ngữ trên thế giới”.
Dường như cuộc đời của Hộ là một chuỗi bi kịch không ngừng, đầy những thử thách mà xã hội đặt ra. Nhưng dù cho anh phải đối mặt với những khó khăn đến đâu, lòng thương người vẫn là nguồn động viên mạnh mẽ nhất cho anh vượt qua mọi khó khăn.
Nam Cao đã khắc họa một cách chân thực những bi kịch của những người trí thức qua những nhân vật như Hộ. Sự giả dối, lòng tham và những mâu thuẫn tâm hồn được tái hiện một cách sống động trong từng dòng văn của ông.
Không chỉ riêng Nam Cao, Nguyễn Khuyến cũng đã lên tiếng vạch trần sự thật về bộ mặt đê hèn của một phần xã hội. Những người trí thức đích thực đang lẻn vào vũng sâu của thời đại, chìm trong bi kịch của bản thân và xã hội.
“Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi”
Trong bức tranh của Nguyễn Khuyến, hình ảnh những người trí thức bị xã hội đè nén, bị coi thường là những con rối của thời đại đang hiện rõ. Dù có tài năng và phẩm hạnh đến đâu, họ vẫn phải đối diện với những bi kịch và mâu thuẫn không ngừng.
Khi đọc lại tác phẩm “Đời thừa” của Nam Cao, con người đương thời không khỏi ngạc nhiên trước sự sắc sảo trong việc miêu tả nhân vật. Nam Cao đã thể hiện một cách rất tinh tế những tâm trạng, suy nghĩ của nhân vật văn sĩ Hộ, khiến cho Hộ trở thành biểu tượng của giới tri thức trong xã hội Việt Nam thời trước Cách mạng tháng Tám.
Trong quá trình tạo dựng nhân vật Hộ, Nam Cao đã không chỉ làm cho Hộ trở nên sống động mà còn đưa người đọc suy ngẫm về quá khứ và hiện tại. Tài năng và lương tâm của Hộ đã dẫn anh đến bi kịch, nhưng cũng chính những điều đó làm nổi bật hình tượng của anh trong lòng độc giả.
Mytour