“Language is a city to the building of which every human being brought a stone” – Ralph Waldo Emerson. (Ngôn ngữ như là một thành phố mà mỗi người đều góp công xây dựng nên). Thật vậy, bất kì một ngôn ngữ nào cũng được nảy sinh từ những nhu cầu, công việc, mối ràng buộc, niềm vui, tình cảm, thị hiếu,… của nhiều thế hệ nhân loại chứ không phải do riêng một ai, một tổ chức nào sáng tạo ra hoàn toàn. Do vậy, trong quá trình hình thành và phát triển, ngôn ngữ không tránh khỏi việc trải qua những biến thể. Bài viết sẽ làm rõ nguyên nhân của những biến thể (variations trong Tiếng Anh), phân loại và kết luận về mối quan hệ giữa biến thể của ngôn ngữ với việc học Tiếng Anh của người học.
Biến thể ngôn ngữ là gì?
Theo từ điển Oxford, variation có nghĩa là “a change, especially in the amount or level of something” – một sự thay đổi, nhất là về số lượng hoặc mức độ của một điều gì đó. Trong thực tế, Language variation (biến thể ngôn ngữ) là một chủ đề đã được rất nhiều nhà ngôn ngữ học nghiên cứu và đưa ra những định nghĩa khác nhau:
Theo như học thuyết của Larsen Freeman và Cameron (2007), ngôn ngữ là một hệ thống phức tạp, luôn tiến hóa để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp của con người. Khi người nói phát sinh nhu cầu mới về ngôn ngữ (như từ vựng, cách diễn đạt…) nhằm đạt được hiệu quả giao tiếp, ngôn ngữ có thể trải qua một số thay đổi hoặc quá trình biến đổi (variation) theo thời gian. Tuy nhiên, sự thay đổi này thường diễn ra từ từ và không làm thay đổi về cấu trúc, cốt lõi hay bản sắc của ngôn ngữ.
Warren Maguire (2011) cũng chỉ ra rằng variation – biến thể là một đặc điểm của ngôn ngữ, khi mà con người có nhiều hơn một cách để diễn tả một nội dung. Những biến thể này có thế đến từ cách phát âm, từ vựng hoặc cấu trúc diễn đạt, tùy vào sự khác biệt về khu vực, xã hội hoặc ngữ cảnh mà một ngôn ngữ cụ thể được sử dụng.
Tựu chung lại, người học có thể hiểu Language Variation là sự thay đổi, biến thể của ngôn ngữ ở những yếu tố như phát âm, ngữ điệu, từ vựng và ngữ pháp do sự khác biệt về địa lý, chủng tộc, giới tính và các yếu tố thuộc về xã hội khác. Khái niệm Language Variation có thể được mở rộng ra nghiên cứu trên phạm vi toàn bộ các ngôn ngữ, tuy nhiên bài viết sẽ chỉ đề cập đến biến thể trong Tiếng Anh cũng như một số ảnh hưởng của nó đến việc học ngôn ngữ.
Nguyên nhân của Biến thể Ngôn ngữ trong Tiếng Anh
Yếu tố về Địa lý
Nếu như sự đa dạng của Tiếng Việt trải dài theo dọc đất nước từ Bắc vào Nam, mỗi vùng miền lại có những đặc tính riêng khi sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp thì Tiếng Anh cũng vậy. Một ngôn ngữ đã có thể biến đổi chỉ trong nội bộ các vùng thuộc cùng một lãnh thổ, vậy đối với Tiếng Anh – ngôn ngữ được phổ cập rộng rãi trên toàn thế giới thì sẽ có biết bao nhiêu dạng biến thể? Sáu quốc gia với phần lớn cư dân sử dụng Tiếng Anh như ngôn ngữ thứ nhất lần lượt là Mỹ, Anh, Canada, Australia, Ireland và New Zealand. Người học có thể tưởng tượng ra việc Tiếng Anh thay đổi như thế nào giữa những quốc gia, hay thậm chí là từng vùng miền của những quốc gia này khi chưa xét đến các nước cũng sử dụng Tiếng Anh khác.
Khi nói về Language Variation dựa vào yếu tố địa lý, các nhà nghiên cứu thường nhắc đến khái niệm dialect (thổ ngữ), “a form of a language that people speak in a particular part of a country, containing some different words and grammar” – Theo Cambridge là dạng của một ngôn ngữ được sử dụng ở một vùng cụ thể của một nước, bao gồm những ngữ điệu, từ vựng hoặc ngữ pháp khác. Ví dụ để chỉ một sự vật là chiếc ghế sô pha, Tiếng Anh có rất nhiều từ khác nhau tùy vào từng vùng như: sofa, couch, divan, davenport, chesterfeild. Không chỉ vậy, những người ở các vùng khác nhau cũng sẽ có các cách khác nhau để phát âm những từ này.
Nguyên nhân của hiện tượng này có rất nhiều cách để giải thích, tuy nhiên phổ biến nhất là quan niệm sau: Từ thời xa xưa, khi con người không có những phương tiện truyền thông đại chúng như radio, TV, Internet, các phương thức để phổ cập ngôn ngữ là rất hạn chế, hầu hết thông qua truyền miệng. Vì vậy, theo thời gian, ngôn ngữ khó tránh khỏi việc trải qua những biến thể, nhất là ở phương diện ngữ điệu. Hơn nữa, khi cư dân của các vùng miền sống tách biệt, độc lập với nhau thì dialect – thổ ngữ lại càng phát triển. Và những người này thường có xu hướng giữ gìn văn hóa, phong tục tập quán của quê hương, nên dù có học được những ngữ điệu khác thì họ vẫn tiếp tục duy trì cả thổ ngữ để bảo tồn bản sắc văn hóa của mình.
Yếu tố về Tuổi tác
Theo Holmes (2001), có một mối quan hệ nhất định giữa sự đa dạng ngôn ngữ và tuổi tác:
Thanh thiếu niên nói chung sẽ sử dụng nhiều non – standard varieties (những ngôn ngữ không chuẩn) hơn so với người lớn. Ví dụ các bạn trẻ trong độ tuổi teen ở Việt Nam lẫn các nước trên thế giới thường có xu hướng sáng tạo thêm những cách nói, từ lóng đối với các sự vật hiện tượng xung quanh và phổ biến chúng rộng rãi, tạo nên những biến thể trong tiếng Anh. Điều này có thể xuất phát từ việc muốn nâng cao bản sắc văn hóa riêng của thế hệ, để đồng nhất với nhau và phân biệt với các thế hệ khác hoặc do xuất hiện nhu cầu về giao tiếp mới. Ví dụ, từ “swag” trong Tiếng Anh vốn để chỉ đồ vật bị trộm hoặc một vòng hoa hay một dải lụa dùng để trang trí bây giờ được lan truyền rộng rãi với ý nghĩa hoàn toàn khác, nghĩa là “cool” – ngầu.
Hiện tượng này sẽ giảm dần khi con người đạt đến độ tuổi trưởng thành. Tuy nhiên sẽ vẫn còn một số dấu hiệu sót lại, thậm chí một số biến thể về ngôn ngữ được tiếp tục sử dụng đến cuối đời. Vì vậy, người học có thể thấy tình huống những người lớn tuổi không hiểu được ngôn ngữ của giới trẻ và ngược lại.
Yếu tố về phái đẹp
Biến thể trong tiếng Anh dựa vào giới tính chủ yếu thể hiện ở phong cách giao tiếp hơn là bản chất của ngôn ngữ. Thật vậy, phụ nữ và đàn ông nhìn chung có những phong cách ngôn ngữ khác nhau. Deborah Tannen (1991) đã so sánh sự khác biệt về giới tính trong ngôn ngữ giống với sự khác biệt về ‘văn hóa’. Khi so sánh các mục tiêu giao tiếp, bà cho rằng nam giới có phong cách ‘report’ – báo cáo, nhằm mục đích truyền đạt thông tin thực tế, trong khi phụ nữ có phong cách ‘rapport’ – quan tâm hơn đến việc xây dựng và duy trì các mối quan hệ. Ví dụ trong cùng một tình huống là người bạn đang tâm sự những vấn đề khó khăn gặp phải: nam giới thường có xu hướng hỏi cặn kẽ vấn đề và đưa ra lời khuyên một cách cụ thể, trong khi phụ nữ sẽ có xu hướng lắng nghe và thể hiện sự đồng cảm nhiều hơn. Không chỉ vậy, trong thực tế còn tồn tại một khái niệm là “women’s language” – ngôn ngữ của phụ nữ, bao gồm cách lựa chọn và tần suất xuất hiện của một số từ ngữ đặc biệt mà thường chỉ có phụ nữ mới sử dụng. Ví dụ: phụ nữ thường có sự phân biệt chính xác về màu sắc hơn so với nam giới; những từ như beige, ecru, aquamarine, lavender,… để chỉ những sắc thái cụ thể của một màu thường được phụ nữ sử dụng. Trong khi đàn ông thường bất lực khi phân biệt các màu sắc cụ thể như màu tím “hoa oải hương” hay “hoa cà” (lavender or mauve).
Nguyên nhân của biến thể này không đến từ yếu tố về sinh học mà đến từ vị trí, vai trò của các giới tính trong xã hội, từ cách một đứa trẻ được nuôi dạy theo vị trí và vai trò này từ khi còn nhỏ.
Yếu tố về sắc tộc
Khi nhắc đến biến thể của ngôn ngữ dựa vào chủng tộc, các nhà nghiên cứu thường nhắc tới hai khái niệm về Tiếng Anh gốc Phi (African American English) và Tiếng Anh của người da trắng. Sự khác biệt này là do nguồn gốc cũng như sự phát triển của từng chủng tộc. Tiếng Anh của người Mỹ gốc Phi và người Mỹ da trắng đều có nguồn gốc từ phương ngữ của người định cư Anh du nhập vào miền Nam trong thời kỳ thuộc địa (1607 và 1776). Theo thời gian, hai dạng Language Variation này tiếp tục phát triển và ảnh hưởng lẫn nhau. Một ví dụ về khác biệt của African American English là việc lược bỏ động từ to be là “is” hoặc “are” trong câu: “You crazy” (“Bạn điên rồi”) hoặc “She my sister” (“Cô ấy là chị của tôi”). Hiện tượng này cũng xuất hiện trong các câu hỏi như “Who you?” (“Bạn là ai?”) và “Where you at?” (“Bạn đang ở đâu?”).
Ngoài ra, còn có một biến thể khác của Tiếng Anh theo chủng tộc là Asian English, bắt nguồn từ xu hướng di cư của những người Mỹ gốc Á. Tuy nhiên, nhóm này vẫn được coi là thiểu số nên sự chú ý dành cho biến thể trong tiếng Anh này là rất ít.
Các dạng Biến thể Ngôn ngữ trong Tiếng Anh
Cấp độ từ vựng (Lexicon level)
Để hiểu về khái niệm này, người học có thể hình dung trong Tiếng Việt, “dứa” và “thơm” là tên gọi của cùng một loại quả nhưng ở hai miền khác nhau. Đây là hiện tượng biến thể về mặt từ vựng, nghĩa là có nhiều từ vựng được tạo ra để chỉ cùng một sự vật, hiện tượng hay một nội dung giống nhau. Ví dụ, để chỉ kẹo, người Mỹ có cách gọi là “candy” trong khi đối với người Anh là “sweets” và người Úc là “lollies”.
Trong trường hợp khác, biến thể từ vựng cũng có thể là một từ vựng nhưng lại có những ý nghĩa khác nhau ở các vùng khác nhau. Điều này có thể gây nên khó khăn trong giao tiếp nếu người của một vùng di chuyển tới một vùng khác có những biến thể về từ vựng. Người học có thể ngạc nhiên khi đi du lịch đến những nơi khác nhau ở Mỹ và gọi một lon “soda” nhưng lại nhận được những thức uống khác nhau: như ở Philadelphia nó sẽ đơn thuần là một loại đồ uống có ga, tuy nhiên ở Chicago thì đây lại là thức uống có ga với kem.
Lóng ngôn (Tiếng lóng)
“Slang is vocabulary with attitude” (Connie Eble, 2004) – Slang là từ vựng đi kèm với thái độ, quan điểm. Thật vậy, Cambridge đình nghĩa Slang là từ vựng (có thể bao gồm cả những idioms và cách diễn đạt dài hơn) được sử dụng giữa những người thuộc cùng một cộng đồng trong xã hội. Những biến thể về ngôn ngữ này thường không mang ý nghĩa trực tiếp, nghĩa đen của từ mà mang ý nghĩa tượng trưng, nghĩa bóng; ban đầu xuất hiện nhằm mục đích che giấu ý nghĩa diễn đạt, chỉ những người nhất định trong nhóm mới hiểu. Ví dụ, các thuật ngữ như “cool, sick, ill, swag, wicked, tight” thường được giới trẻ biến đổi và sử dụng với ý nghĩa là “exceptionally good” – rất tốt, tuyệt vời, ngầu.
Tiếng lóng là một dạng ngôn ngữ informal – không chính thức vì vậy nó thường được sử dụng trong văn nói hơn là văn viết. Hơn nữa, tiếng lóng thường thay đổi nhanh chóng, các từ và cách diễn đạt bằng tiếng lóng có thể biến mất khỏi ngôn ngữ theo thời gian. Không chỉ vậy, nếu sử dụng không cẩn thận, tiếng lóng có thể xúc phạm người bên ngoài những người thuộc một nhóm nhất định trong xã hội. Vì các lý do này, người học tiếng Anh nên cân nhắc khi học hoặc tránh sử dụng tiếng lóng, nhất là trong các bài kiểm tra.
Âm điệu (Phonological level)
Một biến thể vô cùng phổ biến của Tiếng Anh đó chính là accent – ngữ điệu, hay đi sâu hơn vào bản chất của vấn đề, biến thể này bắt nguồn từ cách những người sử dụng Tiếng Anh phát âm từng âm vị. Ví dụ về sự khác biệt này là người Mỹ có xu hướng bật hết những âm /r/ khi phát âm các từ có chứa âm vị này, còn người Anh lại thường bỏ đi nếu chúng nằm cuối từ. Cách phiên âm của “car” trong Anh-Mỹ và Anh-Anh lần lượt là /kɑːr/ và /kɑː/.
Biến thể trong tiếng Anh này xảy ra do sự khác biệt về vùng miền cũng như khác biệt về văn hóa xã hội. Cũng giống như việc người Việt có thể phán đoán quê quán của một người dựa trên giọng nói, người học cũng có thể dựa vào accent của một người nói Tiếng Anh để phán đoán về xuất thân của họ.
Mức Ngữ pháp (Grammatical level)
Theo Jonnie Robinson (2019): “Grammar is the structure of a language or dialect. It describes the way individual words change their form” – ngữ pháp là cấu trúc của một ngôn ngữ hoặc thổ ngữ, mô tả cách các từ thay đổi hình thức của chúng, chẳng hạn như khi “play” chuyển thành “played”, để biểu thị một hành động trong quá khứ. Ngữ pháp cũng bao gồm cách các từ được kết hợp với nhau để tạo thành cụm từ hoặc câu. Tuy nhiên, ngữ pháp cũng là một trong những yếu tố được biến đổi tùy theo vùng miền, văn hóa xã hội. Ví dụ: người học vẫn thường sử dụng Tiếng Anh theo ngữ pháp của standard – grammar (ngữ pháp chính thức) là khi các chủ ngữ số ít he/ she/ it sẽ được chia động từ ở dạng số ít như “was” thay vì “were”. Tuy nhiên, tại một số nơi trên thế giới như ở một vùng thuộc miền bắc nước Anh, cư dân không chia động từ to be theo chủ ngữ mà tất cả các chủ ngữ “I, you, we, they, he, she, it” đều được chia động từ “were”.
Các nhà ngôn ngữ đã chia ngữ pháp ra hai loại: standard và non-standard grammar (ngữ pháp chính thức và không chính thức). Ngữ pháp mà người học sử dụng chính là ngữ pháp chính thức. Standard grammar thường được coi là hình thức ngữ pháp chuẩn mực hơn, được sử dụng rộng rãi bởi chính phủ hay các phương tiện truyền thông đại chúng và nhất là trong văn viết.
Khía cạnh Thực tế (Pragmatic level)
Pragmatics là một khía cạnh của ngôn ngữ, nghiên cứu sự ảnh hưởng của ngữ cảnh tới ý nghĩa của ngôn ngữ – một cách diễn đạt có thể mang một ý nghĩa nhất định nhưng nếu đặt nó ở trong bối cảnh khác, cách diễn đạt này có thể mang ý nghĩa hoàn toàn khác. Đây cũng là một dạng biến thể trong tiếng Anh khi người nói phát sinh một nhu cầu giao tiếp mới. Ví dụ cách nói “what are you doing?” trong tình huống thông thường có thể được hiểu đơn giản là người nói đang hỏi về một hành động đang diễn ra. Tuy nhiên nếu đặt câu hỏi này vào bối cảnh khác, như khi một giáo viên vào lớp và thấy học sinh đang đùa nghịch với nhau thì “What are you doing?” không phải là câu hỏi để nhận được thông tin nữa mà gián tiếp yêu cầu học sinh dừng đùa nghịch và ngồi ngay ngắn vào lớp.
Sự Quan trọng của Biến thể Ngôn ngữ trong quá trình học Tiếng Anh
Khía cạnh dễ nhận thấy nhất đó là việc lựa chọn accent để học. Việc chọn một chất giọng để học theo là cực kì quan trọng, vì chọn học theo giọng nào sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ Tiếng Anh của người đó sau này. Accent phổ biến nhất mà người Việt Nam thường hay nghe được là accent của Anh – Mỹ. Nếu chỉ học Tiếng Anh để phục vụ mục đích học tập và làm việc trong nước, đây có thể là sự lựa chọn tối ưu cho người Việt bởi giọng Anh – Mỹ thường dễ nghe hơn, nhất là đối với những người học Tiếng Anh là ngôn ngữ thứ hai, có thể giúp người học đạt được hiệu quả giao tiếp cao. Tuy nhiên, trong một số bài thi kiểm tra năng lực Tiếng Anh như IELTS, ở phần thi Listening người học có thể sẽ phải nghe các accent khác nhau như Anh – Anh, Anh – Úc. Người học cần luyện nghe thêm các giọng này để có được phản xạ nghe hiểu tốt nhất trong bài thi. Tuy nhiên, người học cũng cần chú ý ở bài thi Speaking của IELTS thì accent của thí sinh sẽ không ảnh hưởng đến số điểm, thí sinh chỉ cần tập trung vào yếu tố phát âm nói chung bởi đây là kỳ thi kiểm tra năng lực sử dụng tiếng Anh áp dụng toàn cầu.
Đối với những người có ý định đi du học hoặc định cư ở nước ngoài thì việc học theo accent của vùng đó sẽ mang lại cho người học nhiều lợi ích – từ việc dễ dàng hơn trong việc nghe hiểu khi giao tiếp cho đến việc hòa nhập với cộng đồng xung quanh.
Không chỉ dừng lại ở accent, các yếu tố về từ vựng, ngữ pháp và tính thực tế của ngôn ngữ ở từng vùng cũng có những khác nhau cơ bản. Người học có thể đã nghe về khái niệm “standard English” – Tiếng Anh chuẩn hóa tuy nhiên trong thực tế thì đây vẫn là một thuật ngữ gây tranh cãi bởi hiện nay chưa có một loại Tiếng Anh nào được thật sự coi là chuẩn mực. Vì vậy, trong quá trình học, tùy theo mục đích sử dụng mà người học nên cân nhắc về yếu tố Language Variation để việc học Tiếng Anh đạt được tính hiệu quả nhất.
Phân biệt hai dạng Language Variation phổ biến nhất là Anh – Anh và Anh – Mỹ
Phần này sẽ khái quát một số khác biệt cơ bản trong hai dạng Language Variation này để người học có thể phân biệt được chúng và lựa chọn được dạng phù hợp cho bản thân trong quá trình học tập.
Phát âm
Khác biệt dễ nhận thấy nhất là ở trong giọng nói của người Anh và Mỹ, mỗi nước sẽ có một đặc trưng cơ bản trong phát âm:
Âm vị | Anh – Anh | Anh – Mỹ |
Phụ âm R ở cuối từ | Âm /r/ bị lược bỏ hoàn toàn Ví dụ: Car /kɑː/ Floor /flɔː/ | Phát âm rất nặng và rõ Car /kɑːr/ Floor /flɔːr/ |
Phụ âm /t/ ở giữa 2 nguyên âm | Vẫn phát âm là “t” rõ ràng và chính xác Ví dụ: Item /ˈaɪtəm/ Bottle /ˈbɒtl/ | Phát âm nhẹ hơn, có xu hướng thay thế “t” bằng “d” Item /ˈaɪdəm/ Bottle /’ba:dl/ |
Nguyên âm /æ/ | Đọc hẳn thành âm /a/ Ví dụ: Fast /fast/ Staff /staf/ | Đọc thành âm nửa a nửa e. Fast /fæst/ Staff /stæf/ |
Nguyên âm o | Được phát âm tròn miệng là /ɒ/ Ví dụ: Document /dɒkjʊmənt/ Occupied /ɒkjʊpaɪd/ | Được phát âm trệch đi một chút giống âm /a/ Document /dɑːkjʊmənt/ Occupied /ɑːkjʊpaɪd/ |
Một số từ được phát âm khác nhau | Either [ˈaɪðər] | Either [ˈiːðər] Via [viː.ə] |
Từ ngữ
Một số khác nhau về từ vựng dễ nhận thấy của Anh – Anh và Anh – Mỹ là:
Anh – Mỹ | Anh – Anh |
Vacation | Holiday |
Chips | Crisps |
The movies | The cinema |
Truck | Lorry |
Sweater | Jumper |
Mailbox | Postbox |
Pants | Trousers |
Airplane | Aeroplane |
Cookie; cracker | Biscuit |
Soccer | Football |
Elevator | Lift |
Chính tả
Các từ kết thúc bằng “-or” trong Anh – Mỹ thì thường kết thúc bằng “-our” trong tiếng Anh – Anh. Ví dụ như:
color (American) — colour (British)
honor (American) — honour (British)
Các từ kết thúc với “-ize” trong Anh-Mỹ sẽ được thay bằng “-ise” trong Anh-Anh
organize (American) — organise (British)
recognize (American) — recognise (British)
Một số từ trong Anh-Anh kết thúc với “-re” sẽ được dùng “-er” trong Anh-Mỹ. Ví dụ: theatre – theater, centre – center, metre – meter.
Ngữ pháp
Anh – Anh | Anh – Mỹ |
Đối với Anh –Anh, thì hiện tại hoàn thành là một thì rất phổ biến khi chỉ một hành động, sự kiện vừa xảy ra. Ví dụ:
| Tuy nhiên, đối với Anh – Mỹ, cả thì hiện tại hoàn thành và quá khứ đơn đều có thể được sử dụng trong trường hợp này.
|
Người Anh thường dùng cụm “have got” để chỉ một sự sở hữu. Ví dụ:
| Trong khi người Mỹ chỉ đơn thuần sử dụng từ “have”.
|
Cách sử dụng các giới từ
| Cách sử dụng các giới từ
|