Biên soạn bài Huyện đường trang 132, 133, 134, 135, 136 một cách ngắn nhất nhưng vẫn đảm bảo đủ ý theo sách Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức với thực tế giúp học sinh soạn văn 10 dễ dàng hơn.
Biên soạn bài Huyện đường - ngắn nhất trong Kết nối tri thức
* Trước khi đọc
Câu 1 (trang 132 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Em đã từng tham dự buổi diễn tuồng trên sân khấu. Loại hình nghệ thuật này đang gặp khó khăn trong việc thu hút khán giả hiện đại bởi tính cổ điển và nội dung cũ kỹ, không phản ánh đúng với sở thích của đa số khán giả ngày nay. Trái ngược lại, có nhiều loại hình giải trí khác đã ra đời như phim ảnh, âm nhạc Kpop thu hút, hiện đại và dễ tiếp cận hơn.
Câu 2 (trang 132 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
Học sinh sử dụng internet để tìm kiếm thông tin.

* Đọc văn bản
Gợi ý trả lời câu hỏi trong đoạn văn:
1. Cách bài trí không gian huyện đường - hướng dẫn về cách bố trí sân khấu.
- Trên bức tường treo một bức hoành phi viết hai chữ “Huyện đường”. Hai bên có hai câu đối. Bên cạnh câu đối phía trái là cửa vào nhà trong
- Trên chiếc bàn lớn ở giữa, có ống bút, nghiên mực, và một cái hộp bút
- Phía bên trái, có một bàn nhỏ để đặt giấy và các tài liệu cần cho việc xây dựng sân khấu, trên bàn cũng có bút mực và một đống giấy
2. Lưu ý cách nhân vật tự giới thiệu trong tuồng.
- Nhân vật tự giới thiệu bản thân
3. Chú ý đến sự hễ hả, trắng trợn của tri huyện khi tự “thưởng thức” mưu mô của mình
Các lời thoại tiết lộ mưu mô của tri huyện:
- Thằng Sò này giàu lắm, chúng ta có thể “ấy” được
- Phải biết ai có tóc thì nắm, ai không thì nắm đầu (cười khoái trá). Xử Ốc bị tù năm năm, Nghêu bị phạt đòn năm chục trượng, lí trưởng đòi ăn hối lộ cần phải phạt nghiêm năm mươi quan tiền.
4. Hoạt động hợp tác giữa tri huyện và đề lại
- Phần đoạn hội thoại giữa kẻ tung người và người hứng của tri huyện và đề lại từ “vụ ấy à?” đến “thầy hiểu chứ?”
5. Điều gì sẽ xảy ra sau câu nói này của lính lệ A?
- Trên sân khấu sẽ diễn ra vụ xử án của tri huyện với Nghêu, Sò, Ốc, Hến
* Sau khi đọc
Nội dung chính:
Văn bản mô tả thời điểm trước khi xử án vụ trộm, tri huyện và đề lại thảo luận cách xử lí sao cho có lợi, có thể lấy tiền.

Gợi ý trả lời sau khi đọc:
Câu 1 (trang 136 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Tri huyện tự tiết lộ
- Đề lại và tri huyện lập kế hoạch, smút để có thể thu được tiền từ vụ xét xử
- Tri huyện triệu bên nguyên, bên bị, nhân chứng vụ Nguyễn Sò vào
- Lính lệ cố gắng tìm kiếm lợi ích từ những người tham dự xét xử
Câu 2 (trang 136 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
Tri huyện |
Đề lại |
Lính lệ |
- Thằng Sò này giàu lắm, chúng mình có thể “ấy” được - Phải nắm đứa có tóc ai nắm kẻ troc đầu. (cười khoái trá). Xử Ốc năm năm tù, Nghêu phạt đòn năm chục trượng, lí trưởng đòi ăn lót cần phạt trừn giới năm mươi quan tiền. - Ăn thua là những chỗ khó đấy đấy, lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, nói thế nào lại chả được. Thị Hến thì cũng có thể cho về nhưng chưa nên xử vội, vì xử Hến thì phải xử Sò. |
- Ta cứ để tra cứu đã. Thưa còn thằng Ốc, thằng Ngheei, lí trưởng, thị Hến thì liệu xử cho xong, bọn này toàn đầu trọc cả. - Bẩm quan xử thật sâu sắc, nhưng đã xử Nghêu và Ốc rồi thì lấy gì mà không xử Sò với Hến được. |
- Nhắc lại ông Trùm, anh xã và chị Hến biết rằng hôm nay quan bận lắm, tôi lẩm bẩm mãi quan mưới chịu xử vụ này đấy. |
Câu 3 (trang 136 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Bởi vì tri huyện và đề lại có cùng ý đồ và mục tiêu, họ thảo luận với nhau để tìm cách lợi dụng tình hình mà không cần quan tâm đến đúng hay sai
- Khi đề lại hỏi về việc xét xử vụ trộm, tri huyện ngay lập tức nghĩ đến việc lợi dụng người kêu kiện, đặc biệt là Sò giàu có nên quyết định sẽ lấy tiền từ Sò và giả vờ tra cứu. Đề lại và tri huyện giải quyết vụ trộm bằng cách phạt tiền người có tiền và phạt tù hoặc đánh người 'đầu trọc'. Hơn nữa, tri huyện quyết định xử Sò và Hến sau để dễ thu lợi.
Câu 4 (trang 136 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Người Việt xưa không coi chốn công đường là nơi tìm công bằng, mà là nơi của bọn quan lại nhằm nhục, lấy của dân
- Ở chốn công đường, có sự phản ánh hài hước châm biếm khi người giàu được miễn trách nhiệm còn người nghèo sẽ bị trừng phạt
- Đoạn trích này đồng thời lên án sự thực trạng tham nhũng của quan lại và là lời châm biếm đối với chế độ thời phong kiến.
Câu 5 (trang 136 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Trong lời giới thiệu của tri huyện, anh ta nhấn mạnh đến chức vụ, quyền lực, và thậm chí cả những thói hư tật xấu, cũng như việc áp đặt phân xử không công bằng dựa trên tiền bạc để định đoạt. Điều này cho thấy sự yếu đuối, tham nhũng, và đạo đức suy đồi của tri huyện, người thường xuyên lợi dụng dân.
- Trong lời giới thiệu hàng ngày, thường người ta tập trung vào việc nhấn mạnh các điểm mạnh, những đặc điểm nổi bật để tạo ấn tượng với người nghe. Trong tuồng, mỗi nhân vật đều được giới thiệu với toàn bộ thông tin về chức vụ, tính cách, và phẩm chất tốt hoặc xấu.
Câu 6 (trang 136 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức):
- Nếu có cơ hội tham gia tái hiện lại cảnh Huyện đường trên sân khấu, ngoài việc chú ý đến lời thoại, động tác, diễn viên cũng nên lưu ý đến cách diễn đạt. Mỗi nhân vật sẽ có cách diễn đạt riêng, qua đó có thể nhận biết được nhân vật nào thẳng thắn, nhân vật nào không trung thực. Cách diễn đạt cũng đóng góp vào việc truyền đạt nội dung của lời thoại.
* Kết nối đọc – viết
Bài tập (trang 20 sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Tập 1 - Kết nối tri thức): Viết một đoạn văn (khoảng 150 từ) thể hiện suy nghĩ về tiếng cười châm biếm của tác giả dân gian được thể hiện qua đoạn trích.
Đoạn văn tham khảo:
Trích đoạn văn Huyện đường từ tác phẩm Nghêu, Sò, Ốc, Hến mô tả cảnh tri huyện và đề lại thảo luận về việc nhũng nhiễu người kêu kiện. Qua lời của tri huyện, thấy sự gian xảo và dối trá khi nghĩ ngay tới việc kiếm tiền từ trùm Sò, đề lại bàn bạc ý đồ mà không giữ ý. Tên đề lại bên cạnh tri huyện cũng mưu mô khi “kẻ tung người hứng” cùng với tri huyện để đạt mục đích, thậm chí khen cách phân xử của tri huyện là “quan xử hay lắm” dù cả hai đều chỉ nhìn vào lợi ích. Không dừng lại ở tri huyện, đề lại còn có nhân vật lính lẻ ngang nhiên nói dối để kiếm tiền từ dân. Tiếng cười châm biếm đả kích ngay trong không gian trang nghiêm của chốn cửa quan. Sự đối nghịch giữa hành động và lời nói của các nhân vật tạo nên sự châm biếm trong đoạn văn.