Với mục đích hỗ trợ việc hệ thống hóa kiến thức và nội dung của các tác phẩm trong chương trình Ngữ văn 9, chúng tôi đã biên soạn một bài viết Sơ đồ tư duy cho bài thơ Mùa xuân nhỏ nhắn dễ nhớ, ngắn gọn, bao gồm tìm hiểu chung về tác phẩm, tác giả, cấu trúc, dàn ý phân tích, và bài văn mẫu phân tích. Hy vọng rằng thông qua Sơ đồ tư duy này, học sinh sẽ có thể hiểu được nội dung cơ bản của bài thơ Mùa xuân nhỏ nhắn.
Biểu đồ tư duy cho bài thơ Mùa xuân nhỏ nhắn (dễ nhớ, ngắn gọn)
Biểu đồ tư duy cho bài thơ Mùa xuân nhỏ nhắn - mẫu 1
A. Biểu đồ tư duy cho bài thơ Mùa xuân nhỏ nhắn
B. Tìm hiểu về bài thơ Mùa xuân nhỏ nhắn
I. Tác giả
- Thanh Hải (1930 – 1980), tên thật là Phạm Bá Ngoãn, quê gốc tại Huế.
- Ông bắt đầu hoạt động văn nghệ từ cuối thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước, Thanh Hải ở lại quê nhà để hoạt động và được biết đến như một trong những người viết văn có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng nền văn học cách mạng ở miền Nam từ những ngày đầu.
- Thơ của ông mang phong cách giản dị, đậm chất dân dã, và chân thành.
II. Các tác phẩm
1. Thể loại và cách thức biểu đạt chính
- Thể loại: Thơ ngắn 5 chữ.
- Cách thức biểu đạt chính: Sự thể hiện cảm xúc.
2. Nguồn gốc, hoàn cảnh sáng tác
- Nguồn gốc: Bài thơ được xuất bản trong tập
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào tháng 11/1980, trong bối cảnh đất nước đang hướng tới cuộc sống mới nhưng vẫn đầy khó khăn và thách thức. Chỉ một tháng sau đó, nhà thơ đã ra đi. Bài thơ như một tâm niệm chân thành, là lời trao gửi cuối cùng của nhà thơ với thế giới.
3. Dòng cảm xúc
- Bài thơ chứa đựng sự sống, vẻ đẹp của mùa xuân tự nhiên, mở rộng ra với mùa xuân của đất nước và của cách mạng. Cảm xúc từ từ chuyển dần thành suy tư và ước nguyện: nhà thơ muốn trở thành một phần của bản hòa ca lớn lao của cuộc đời, góp phần vào mùa xuân chung to lớn 'một mùa xuân nhỏ nhắn'. Bài thơ kết thúc với những cảm xúc sâu lắng, lòng tự hào về quê hương, đất nước thông qua giai điệu dân ca Huế.
4. Sắp đặt: 2 phần
- Phần 1, 2, 3: Cảm xúc trước mùa xuân của thiên nhiên và của đất trời.
- Phần 4,5,6: Lòng nguyện cầu của nhà thơ
5. Ý nghĩa nội dung
- Bài thơ là sự thể hiện chân thành của lòng yêu nước và tình cam đối với cuộc sống, thể hiện mong muốn của nhà thơ được dành trọn cuộc đời cho đất nước, góp phần vào sự phồn thịnh của dân tộc bằng một 'mùa xuân nhỏ' riêng của mình.
6. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ tuân thủ thể loại thơ 5 tiếng, có một giai điệu tươi sáng, chân thành và gần gũi với truyền thống dân ca, với nhiều hình ảnh tươi đẹp, đầy cảm xúc, so sánh và sáng tạo.
III. Phân tích cấu trúc tác phẩm
1. Bắt đầu
- Giới thiệu các thông tin cơ bản về tác giả (tên, phong cách sáng tác/cuộc đời), tác phẩm (chủ đề/ hoàn cảnh sáng tác/ nội dung/ nghệ thuật).
+ Thanh Hải là một nhà thơ cách mạng, lớn lên trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ là một tác phẩm nổi bật cuối đời của Thanh Hải, thể hiện tâm hồn của nhà thơ.
2. Nội dung bài thơ
a. Tiêu đề: Mùa xuân nho nhỏ
- Biểu tượng cho những điều tinh tế, tuyệt vời nhất của cuộc sống và trải nghiệm cá nhân.
- Quan điểm về sự hòa quyện giữa cá nhân và cộng đồng.
- Mong ước chân thành của nhà thơ: được hiến dâng.
b. Tình cảm trước mùa xuân của tự nhiên, quê hương và con người
* Tâm trạng của tác giả trước mùa xuân tự nhiên
- Không gian: trời xanh rộng lớn
- Sắc màu: màu tím của hoa, biểu tượng của thành phố Huế
- Âm thanh: tiếng chim hót chào mừng xuân về
- Hành động: “được hứng” -> trải lòng, trân trọng sự sống
+ Giọt sương lung linh: được hiểu theo ý nghĩa ẩn dụ về sự thay đổi cảm xúc
⇒ Tác giả rơi vào cảm giác say mê trong mùa xuân của tự nhiên và đất trời, với tâm trạng tràn đầy sự trân trọng và hoan hỉ.
* Tâm trạng của tác giả trước mùa xuân của quê hương
- Từ “lộc” có nhiều ý nghĩa
+ Hình ảnh của lộc xuân trên “ngực” -> những cành lá tạo ra một bức tranh tự nhiên, biểu tượng cho niềm tin vào tương lai rạng rỡ, sự đóng góp vào nỗ lực bảo vệ đất nước
+ Hình ảnh của lộc xuân trên “nương mạ” -> cuộc sống lao động tích cực đóng góp vào xây dựng đất nước của những người lao động.
+ Sử dụng từ ngữ “hối hả” và “xôn xao” để mô tả nhịp sống lao động hối hả nhưng vẫn tràn đầy năng lượng, hạnh phúc và hài hòa.
+ So sánh: Đất nước được ví như một vì sao -> hình ảnh tươi đẹp, vững chắc và tồn tại mãi mãi.
+ Từ ngữ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm kiên định, dũng cảm vượt qua khó khăn, thách thức
⇒ Niềm tin lạc quan của nhà thơ ca ngợi sức mạnh sống và sự tiến bộ mạnh mẽ của đất nước, của dân tộc
c. Mong ước của nhà thơ
* Tư duy và ước nguyện của nhà thơ trước mùa xuân đất nước
- Tác giả thể hiện lòng mong ước mãnh liệt về việc đóng góp:
+ Sử dụng từ ngữ “ta” : sự tâm niệm chân thành, khát vọng dành hết cho cuộc đời.
+ Các từ ngữ “lặng lẽ”, “nho nhỏ” biểu hiện sự khiêm nhường, chân thành của một tinh thần cao đẹp, hướng tới việc đóng góp cho lợi ích chung của cộng đồng.
+ Mùa xuân nho nhỏ được hiểu như một biểu tượng -> thể hiện lòng say mê, xúc động mong muốn dành cuộc sống cho ý nghĩa lớn lao.
+ Sử dụng từ ngữ “dù là” tạo nên âm điệu tinh tế, sâu lắng cho câu thơ
⇒ Ước ao sâu sắc là được sống một cuộc sống đầy ý nghĩa, hữu ích bằng toàn bộ nghị lực trẻ trung của mình.
* Lời ca tỏ lòng kính trọng đối với quê hương, với đất nước qua giai điệu dân ca của Huế
- Bài thơ kết thúc với giai điệu trữ tình, thanh bình của Huế để tôn vinh vẻ đẹp và tinh thần của người con Huế
- Khúc ca vẫn vang mãi trong lòng của những người lạc quan, yêu đời, khao khát sống có ích
3. Kết luận
- Bài thơ khẳng định việc phác họa vẻ đẹp của thiên nhiên khiến lòng người say mê
- Đây là tiếng lòng chân thành của một người con yêu nước, thể hiện lòng say mê và niềm tin mãnh liệt vào sức sống bền vững của dân tộc ta.
IV. Phân Tích Bài Thơ
Con người được ban cho cuộc sống để sống và tận hưởng, nhưng đồng thời cũng cần biết tận hiến. Sống một cuộc đời ý nghĩa chính là nguồn cảm hứng mạnh mẽ nhất thúc đẩy nhà thơ Thanh Hải sáng tác bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ”. Bài thơ này được viết vào tháng 11 năm 1980, là một điều đặc biệt, vì đó là lúc thi nhân nằm trên giường bệnh. Thi phẩm này không chỉ là tiếng lòng của thi sĩ mà còn là thông điệp nhân sinh sâu sắc mà Thanh Hải truyền đạt cho người đọc ngày hôm nay và cho thế hệ sau này.
Thanh Hải là một trong những nhà văn nổi tiếng trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông giản dị, đôn hậu và chân thành. Với tinh thần giản dị và mộc mạc đậm tính Huế, nhà thơ đã mang lại vẻ đẹp cho cuộc sống. Trước khi ra đi, Thanh Hải vẫn dành tất cả thời gian và năng lượng cho văn chương nghệ thuật, cho cuộc sống và cho con người. Bài thơ: “Mùa xuân nho nhỏ” được sáng tác trong tình cảnh đó, vì thế tên bài thơ cũng có ý nghĩa đặc biệt. Bài thơ này là một tác phẩm độc đáo, một khám phá mới của nhà thơ. Hình ảnh của “Mùa xuân nho nhỏ” là biểu tượng cho những gì tinh túy và đẹp đẽ nhất của cuộc sống và của mỗi con người. Nó thể hiện quan điểm về sự thống nhất giữa cá nhân và cộng đồng. Đồng thời, thông qua tên bài thơ, cũng thể hiện ước mong cao đẹp của nhà thơ. Nhà thơ muốn sống một cuộc sống đẹp, sống với tất cả nghị lực trẻ trung của mình nhưng rất khiêm tốn, như một mùa xuân nhỏ góp phần vào mùa xuân lớn của thiên nhiên, đất nước và cuộc sống chung, cũng như khát vọng sống chân thành, cao đẹp của nhà thơ. Đó cũng là chủ đề của bài thơ mà nhà thơ muốn truyền đạt.
Trước hết, nhà thơ diễn đạt cảm xúc của mình trước mùa xuân của thiên nhiên. Bức tranh về mùa xuân thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu tiên được vẽ bằng vài nét phác họa nhưng rất đặc sắc:
“Nảy giữa dòng sông xanh”
Một bông hoa màu tím
Con chim chiền chiện ơi
Miệng chim vang lên trời
Mỗi giọt nước lấp lánh rơi
Tay tôi vươn ra để hứng
Ngay từ dòng đầu tiên, với sự đảo ngữ pháp, động từ “mọc” được đặt trước hình ảnh “dòng sông xanh” và “bông hoa màu tím”, tác giả đã khơi gợi sức sống của tất cả vật thể trước mùa xuân. Những câu thơ mở ra không gian rộng lớn của bầu trời, dòng sông uốn lượn, và màu sắc tươi đẹp của bông hoa tím và dòng sông xanh - biểu tượng của Huế. Bức tranh thiên nhiên rực rỡ, sống động với tiếng chim chiền chiện vang vọng trên bầu trời, tiếng chim hòa mình vào ánh sáng xuân lan tỏa khắp nơi như làn thanh âm: “mỗi giọt nước lấp lánh rơi”. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất trời hiện lên trong những dòng lời trực tiếp, như là một cuộc trò chuyện với thiên nhiên: “ơi, chim hót vang lên, hót mãi…”. Đặc biệt, cảm xúc của nhà thơ được thể hiện thông qua một hành động trữ tình, trân trọng, và đầy yêu thương với mùa xuân: vươn tay để hứng từng giọt nước long lanh từ tiếng chim chiền chiện.
Mỗi giọt nước lấp lánh rơi
Tay tôi vươn ra để hứng
Cụm từ “giọt long lanh” có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Trước tiên, “giọt long lanh” là những giọt mưa mùa xuân, giọt sương mùa xuân, trong sáng, rơi xuống từng nhành cây, kẽ lá như những giọt ngọc. Đồng thời, “giọt long lanh” cũng có thể hiểu theo nghĩa ẩn dụ, biểu hiện sự chuyển đổi cảm giác. Tiếng chim ban đầu là âm thanh (cảm nhận qua thính giác), nhưng sau đó trở thành từng giọt (hình ảnh và khối, cảm nhận qua thị giác), từng giọt ấy long lanh ánh sáng và màu sắc, có thể cảm nhận được qua xúc giác: “Tay tôi vươn ra để hứng”. Dù hiểu theo cách nào, hai câu thơ vẫn thể hiện cảm xúc say đắm và ngây ngất của tác giả trước cảnh đất trời xứ Huế vào mùa xuân, thể hiện mong muốn hòa mình vào thiên nhiên đất trời trong tâm trạng giữa mùa đông giá lạnh, khiến chúng ta không khỏi kinh ngạc.
Nếu ở khổ thứ nhất, chúng ta được chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên đầy sắc xuân, thì ở khổ thứ hai, ta không thể không bị cuốn hút trước bức tranh lao động phấn khởi, nhiệt huyết của con người:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc rủ đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài trên cánh đồng
Tất cả như vội vã
Tất cả như nao nức
Hình ảnh lộc xuân theo người cầm súng, tràn theo người ra đồng làm đẹp ý thơ với cuộc sống lao động và chiến đấu, xây dựng và bảo vệ, hai nhiệm vụ không thể tách rời. Những người chiến sĩ, người nông dân đã mang mùa xuân đến khắp nơi trên đất nước. Hình ảnh “người cầm súng” khiến ta liên tưởng đến những người chiến sĩ ra trận mang trên vai, trên lưng những cành lá ngụy trang. Những cành lá ấy mang lộc biếc, chồi non, mang theo mùa xuân của thiên nhiên, cây cỏ. Từ “lộc” trong “lộc giắt đầy trên lưng” khiến ta nghĩ đến người lính khi ra trận, mang theo sức sống của cả dân tộc. Chính màu xanh sức sống đó đã tăng thêm sức mạnh, ý chí để họ tiến lên phía trước tiêu diệt kẻ thù. Đất nước có được mùa xuân tươi đẹp chẳng phải nhờ những chiến sĩ dũng cảm đó sao? Bên cạnh đó, ta cũng thấy những người lao động, những người ươm mầm cho sự sống, ươm những hạt mầm non trên những cánh đồng quê hương hiện lên thật bình dị: “người ra đồng”. Khác với từ “lộc” xuất hiện trước đó, từ “lộc” trong “lộc trải dài trên cánh đồng” cho ta nghĩ đến những cánh đồng trải rộng với những chồi non mới nảy nở xanh mướt từ những hạt giống thóc đầu mùa xuân. Từ “lộc” cũng mang ý nghĩa chung, đó là sức sống, sức mạnh của con người. Có thể nói, chính con người đã tạo nên sức sống của mùa xuân thiên nhiên đất nước.
Nhà thơ Thanh Hải phải là một người đắm chìm trong vẻ đẹp của mùa xuân đất nước, mê luyến sự sống tươi đẹp mới có thể cảm nhận mùa xuân đất nước bằng hai từ láy gợi cảm ““hối hả”, “xôn xao”. Từ “Hối hả” gợi ra một không khí vội vã, khẩn trương, liên tục không dừng lại. Từ “xôn xao” khiến ta nghĩ đến những âm thanh liên tiếp vọng về, hòa lẫn với nhau đầy phấn khích. Đây chính là tâm trạng của tác giả, là cái náo nhiệt trong tâm hồn. Tiếng lòng của tác giả như reo vui nào nức trước tinh thần lao động khẩn trương của con người. Mùa xuân đất nước được hình thành từ sự hối hả ấy. Sức sống của đất nước, của dân tộc, cũng được tạo nên từ sự hối hả, náo nức của những người cầm súng, người ra đồng. Như vậy, hình ảnh mùa xuân đất nước đã được mở rộng dần. Ban đầu, nó chỉ gói gọn trên đôi vai, tấm lưng của người ra trận, sau đó đã mở rộng thành một cánh đồng bao la. Nhưng tất cả đều hướng về một mục tiêu, cùng nhau thi đua xây dựng và bảo vệ đất nước trong hoàn cảnh mới. Chắc chắn Thanh Hải phải có một tấm lòng sâu nặng với non sông Việt Nam mới có những ý thơ hay như vậy.
Nhà thơ tin tưởng, tự hào về tương lai sáng lạng của đất nước dù trước mắt vẫn còn nhiều khó khăn, vất vả. Và đất nước được hình dung bằng một hình ảnh so sánh đẹp mắt mang đầy ý nghĩa.
“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và khó nhọc
Đất nước như những ngôi sao sáng
Ðiều này thể hiện qua việc tiến lên không ngừng
“Sao” là nguồn sáng lấp lánh, là vẻ đẹp vĩnh cửu vượt qua mọi giới hạn không gian và thời gian. “Sao” cũng là hình ảnh rạng ngời trên lá cờ Tổ quốc. Qua hình ảnh so sánh: “Đất nước như những ngôi sao sáng”, tác giả Thanh Hải bộc lộ niềm tự hào về một đất nước Việt Nam anh hùng giàu và đẹp. Ðất nước mãi trường tồn, vĩnh cửu cùng vũ trụ, không bao giờ mất đi và cũng không một thế lực nào ngăn cản được. Nhất định đất nước cũng sẽ tỏa sáng như những ngôi sao trong hành trình đi đến tương lai rực rỡ, đi đến bến bờ hạnh phúc. Ðó là chí quyết tâm, niềm tin sắt đá, niềm tự hào lạc quan của cả dân tộc. Ở câu thơ thứ hai, phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước, vượt qua mọi khó khăn. Trong lúc đang bị bệnh nặng nhưng nhà thơ vẫn lạc quan, tin tưởng, ngợi ca sức sống của quê hương, của dân tộc khi mùa xuân về quả thực đáng quý!
Từ cảm xúc dạt dào, ngây ngất trước cảnh sắc đất nước, sâu thẳm trong trái tim nhà thơ bộc lộ niềm khao khát cao đẹp của một tâm hồn trong sáng. Nhà thơ bộc lộ ước nguyện của mình - muốn làm những việc hữu ích, dâng hiến cho đời. Ðiều đó được ông bày tỏ qua những hình ảnh tự nhiên, giản dị, đẹp và giàu ý nghĩa. Nhà thơ đã lấy cái đẹp tinh túy của thiên nhiên để diễn tả vẻ đẹp của tâm hồn:
“Ta làm con chim hót vang”
Ta làm một cành hoa tươi sáng
Ta hòa mình vào hòa ca của cuộc sống
Một nốt âm trầm xúc động
Chao ôi! Nhà thơ muốn “con chim hót” giữa muôn ngàn tiếng chim vô tư cống hiến tiếng hót vui, muốn làm “một cành hoa” giữa vườn hoa xuân rực rỡ vô tư cống hiến hương sắc cho đời, muốn làm “một nốt âm trầm” giữa bản hòa tấu muôn diệu, muốn làm “một mùa xuân nhỏ bé” góp vào mùa xuân lớn của đất nước, của cuộc đời chung. Ở phần đầu bài thơ, tác giả đã phác họa hình ảnh màu xuân bằng các chi tiết bông hoa và tiếng chim hót. Cấu tứ lặp lại như vậy tạo ra sự đối ứng chặt chẽ. Hình ảnh chọn lọc ấy trở lại đã mang một ý nghĩa mới: niềm mong muốn được sống có ích, cống hiến cho đời là một lẽ tự nhiên. Ðiệp từ “ta” như một lời khẳng định. Nó không chỉ là lời tâm niệm thiết tha, chân thành của nhà thơ mà nó còn đề cập đến một vấn đề lớn là khát vọng chung của nhiều người.
Một mùa xuân bé nhỏ
Lặng lẽ đem lại cho cuộc đời
Dù là khi tuổi hai mươi
Dù là khi tóc đã bạc phơ
Ước nguyện hóa thân đó vô cùng cháy bỏng, nhưng được tác giả âm thầm “lặng lẽ dâng cho đời”. Từ láy “nhỏ bé”, “lặng lẽ” là cách nói khiêm tốn, chân thành mà giản dị, là cách sống cao đẹp. Tác giả muốn mỗi người là một mùa xuân nhỏ hòa vào cuộc sống, là ước nguyện sống có ích, được cống hiến cho đời như Tố Hữu viết trong “Một khúc ca xuân” :
“Nếu là một chú chim, chiếc lá
Thì chú chim phải hót, chiếc lá phải xanh
Không thể nhận mà không trả
Sống không chỉ là nhận mà còn là cống hiến cho mọi người.”
Có lẽ, đối với Thanh Hải, “Mùa xuân nhỏ bé” là một ẩn dụ đầy sáng tạo, cũng là cách thể hiện thiết tha, cảm động. Nó đã khắc sâu ý tưởng: “Mỗi cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa Điềm). Đó không phải mong muốn trong một lúc mà là cả một cuộc đời: “Dù là khi tuổi hai mươi. Dù là khi tóc đã bạc”. Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ tha thiết, sâu lắng, ý thơ được nhấn mạnh làm cho người đọc không chỉ xúc động trước một giọng thơ ấm áp, mà còn xúc động trước lời tâm sự thiết tha của một con người đã từng trải qua hai cuộc kháng chiến, đã cống hiến trọn cuộc đời và sự nghiệp cho cách mạng vẫn tha thiết được sống đẹp, sống có ích với tất cả sức sống tươi trẻ của mình cho cuộc đời chung. Bài thơ được viết một tháng trước khi nhà thơ trở về với cát bụi nhưng không gợn chút băn khoăn về bệnh tật, những suy nghĩ riêng tư cho bản thân mà chỉ “lặng lẽ cháy bỏng một khát khao được dâng hiến”.
Bài thơ khép lại bằng những câu thơ ngợi ca quê hương, đất nước qua điệu dân ca xứ Huế. Như một nhịp láy lại, khúc dân ca dịu dàng, đằm thắm làm tăng giá trị biểu hiện của các khổ thơ trên, đem lại thi vị Huế trìu mến, tha thiết:
“Mùa xuân ơi, ta xin hát
Khúc Nam ai Nam bình
Nước non ngàn dặm mình
Nhịp phách tiền đất Huế”.
Đoạn thơ kết thúc như một khúc hát ca ngợi mùa xuân, để lại dư vị sâu lắng. Nhà thơ muốn hát lên điệu Nam ai, Nam bình, diệu dân ca thiết tha của xứ Huế để đón mừng mùa xuân. Câu ca nghe như một lời từ biệt để hòa vào vĩnh viễn. Nhưng đây không phải là lời ca buồn thuở trước mà “nhịp phách tiền đất Huế” nghe giòn giã, vang xa – “Nước non ngàn dặm mình. Nước non ngàn dặm tình” còn ngân nga mãi mãi. Phải yêu đời lắm, phải lạc quan lắm nhà thơ Thanh Hải mới có thể hát lên trong hoàn cảnh đang ốm nặng như vậy. Điều đó làm ta càng thêm yêu quý tiếng hát và tấm lòng nhà thơ. Như vậy, xuyên suốt bài thơ không chỉ có hình tượng mùa xuân mà còn nhiều hình tượng khác. Từ tiếng chim chiền chiện tượng trưng cho khúc hát của đất trời đến làm một nốt trầm nhập vào bản hòa ca của đất nước, và đến đây là khúc hát tạo ấn tượng cho bài ca không dứt, một bài ca yêu cuộc sống. Bài thơ được nhạc sĩ Trần Hoàn phổ nhạc thành bài hát và trở thành một khúc ca xuân quen thuộc, xúc động, còn mãi với đời.
Mạch cảm xúc trong bài thơ “Mùa xuân nhỏ bé” được diễn đạt thành công, mang lại nhiều dư vị trong lòng người đọc là nhờ sự thành công về mặt nghệ thuật. Bài thơ được làm bằng thể thơ năm chữ gần với điệu dân ca, âm hưởng trong sáng, nhẹ nhàng, tha thiết, điệu thơ như điệu của tâm hồn, cách gieo vần tạo sự liền mạch của dòng cảm xúc. Hình ảnh thơ cũng rất tự nhiên, giản dị kết hợp với những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng. Đặc biệt một số hình ảnh cành hoa, cánh chim, mùa xuân được lặp đi lặp lại và nâng cao, gây ấn tượng đậm đà. Cấu tứ bài thơ chặt chẽ, chủ yếu dựa trên sự phát triển của hình tượng mùa xuân: từ mùa xuân đất trời đến mùa xuân của đất nước, đến mùa xuân của con người. Hơn thế nữa, giọng điệu bài thơ phù hợp với cảm xúc của tác giả: đoạn đầu vui, say sưa với vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên, rồi phấn chấn, rồi hối hả trước khi thế lao động của đất nước. Và cuối cùng là trầm lắng, hơi trang nghiêm mà thiết tha bộc bạch, tâm niệm.
Có thể nói, đã có rất nhiều thi nhân Việt Nam bộc lộ xúc cảm trước mùa xuân, nhưng “Mùa xuân nhỏ bé” của Thanh Hải vẫn mang nét độc đáo, riêng biệt. Bài thơ đã để lại cho đời một ý nghĩa thật lớn lao. Tác giả không chỉ biết hiện một bức tranh thiên nhiên làm say mê lòng người mà còn như một dịp cất lên tiếng lòng thiết tha của một người con yêu nước. Đó cũng là lòng say mê, là niềm tin mãnh liệt vào sức sống lâu bền của dân tộc ta.
V. Một số lời nhận xét về tác phẩm
* Say sưa, ngây ngất trước cảnh đất trời vào xuân, nhà thơ chủ quan hóa mọi cảm nhận của mình: tiếng chim đọng lại thành giọt long lanh như có ánh sáng, tiếng chim hình như có khối:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Thiên nhiên, đất trời, cây cỏ… tất cả bừng sáng lên trong những sắc màu, âm thanh: hoa tím biếc, vang trời, từng giọt long lanh, lộc giắt đầy, lộc trài dài, như vì sao, chim hót, hòa ca, xao xuyến… Bằng thị giác (quan sát), bằng thính giác (lắng nghe), bằng xúc giác (đưa tay hứng tiếng chim), bằng hóa thân (làm chim, làm hoa, làm nốt nhạc trầm), nhà thơ đã thể hiện hết mình về lòng tin yêu cuộc sống và khiêm tốn hiên dâng cho đất nước, nhân dân (“Một mùa xuân nho nhỏ- Lặng lẻ dâng cho đời…”).
(Mã Giang Lân, Thơ hiện đại Việt Nam- Những lời bình , NXB Giáo dục,2003)
* Bài thơ không chỉ hay về ý và tứ mà còn hay về nhạc điệu. Câu thơ năm tiếng ngắt nhịp 3/2 xen với 2/3 linh hoạt. Nó không đều đều 3/2 như hát giặm, cũng không đều đặn 2/3 như thơ năm tiếng cổ điển, mà tạo một nhịp tung tẩy, nhí nhảnh. Chẳng hạn:
Mọc giữa dòng / sông xanh
Một bông hoa / tím biếc
Ơi / con chim chiền chiện
Hót chi / mà vang trời
Từng giọt / long lanh rơi
Tôi đưa tay / tôi hứng.
Không chỉ ngắt nhịp đa dạng, nhà thơ còn chú ý dùng vần trắc cuối khổ thơ, tạo một âm thanh vang giòn giã, như thể nhịp phách tiền. Đó là các câu cuối các khổ thứ nhất, thứ ba, thứ tư, thứ năm, thứ 6:
- Tôi đưa tay tôi hứng
- Tiếp tục bước đi về phía trước
- Một nốt trầm đầy cảm xúc
- Dù đã có mái tóc bạc phơ
- Nhịp điệu tiền Huế hiền hòa
(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB Giáo dục, 2002)