Đề bài: Biểu tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
1. Dàn ý chi tiết
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
5. Bài mẫu số 4
6. Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
7. Cảm nhận về bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
8. Hình ảnh người nông dân qua Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
9. Quan niệm về người anh hùng trong Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc
10. Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
11. Phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ
Một số bài văn mẫu về hình tượng Nông Dân Nghĩa Sĩ Cần Giuộc
I. Kế hoạch Hình tượng Nông Dân Nghĩa Sĩ Cần Giuộc
1. Khởi đầu
- Giới thiệu tổng quan về bài thơ “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của Nguyễn Đình Chiểu
- Tổng quan về biểu tượng của người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong tác phẩm.
2. Nội dung chính
a. Tạo hình người nông dân trong cuộc sống hàng ngày
- Những người nông dân đơn giản, chăm chỉ: “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”.
b. Tạo hình người nông dân trong trận chiến chống giặc
- Nông dân biểu tượng của lòng căm thù giặc: “...muốn tới ăn gan”, “...muốn ra cắn cổ”.
- Họ tự nguyện đứng lên chiến đấu cho nghĩa lớn, sẵn sàng hy sinh để bảo vệ đất nước: “...chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
- Trong trận chiến chống giặc, họ hiện diện với tinh thần kiên cường, bất khuất và hành động dũng cảm, mạnh mẽ: “đạp rào lướt tới”; “xô cửa xông vào”.
- Mặc dù đánh mất trong cuộc chiến, hình tượng của họ trở nên bất tử.
c. Nghệ thuật khắc họa người nông dân
- Kỹ thuật viết thực tế, mô tả toàn diện người nông dân.
- Sử dụng nhiều kỹ thuật ngôn ngữ: so sánh, đối lập, đặc tả,..
3. Tổng kết
Tổng quan về hình tượng người nông dân - nghĩa sĩ.
II. Bài mẫu về Hình tượng người nghĩa sĩ Cần Giuộc trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc
1. Mô tả hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 1 (Chuẩn):
“Với thuyền đạo không khẳm
Dũng cảm chống giặc không tà”
Nhìn nhận hai dòng thơ trên, chúng ta có thể phát hiện tư duy sáng tạo của Nguyễn Đình Chiểu - “Ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc” (như Phạm Văn Đồng đã mô tả). Một trong những ý chí quan trọng nhất trong tác phẩm của Chiểu chính là 'yêu nước thương dân', đặc biệt là qua tác phẩm nổi tiếng “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Bằng cách miêu tả sự hy sinh của người nông dân, tác giả đã tạo ra một bức tượng đài sống động, chân thực, kích thích tinh thần yêu nước mạnh mẽ cùng quyết tâm chiến đấu bảo vệ đất nước.
Đầu tác phẩm, Nguyễn Đình Chiểu tái hiện bối cảnh thời đại bằng những câu văn đậm chất cảm xúc: “Súng giặc đất rền/ Lòng dân trời tỏ”. Đây là thời kỳ đen tối với tiếng súng và bước chân xâm lược của thực dân Pháp. Tuy nhiên, chính trong thời kỳ căng thẳng, nổi loạn và quyết liệt đó, hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trỗi sáng với tư thế hiên ngang, mạnh mẽ. Trước đây, họ chỉ là những con người sống giản dị, lao động chăm chỉ, nương bãi:
“Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn,
Toan lo nghèo đói”
Bằng những câu thơ ngắn, ngôn ngữ thơ giản dị, tác giả đã hiện thực hóa chân dung người nông dân trong cuộc sống hàng ngày: “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ” và hoàn toàn xa lạ với binh đao. Họ chưa từng trải qua sự rèn luyện ở “cung ngựa”, “trường nhung” và hoàn toàn mới mẻ với việc tập súng, tập khiên. Thông qua phần Lung khởi, tác giả đã hồi tưởng về hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ với những phẩm chất cần cù, lam lũ, đặc biệt là tinh thần căm thù giặc sâu sắc: “Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ”. Những dòng văn này kích thích trí tưởng tượng về tinh thần chiến đấu của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn trong tác phẩm “Hịch tướng sĩ”: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng”. Như vậy, qua những từ ngữ mạnh mẽ như “ăn gan”, “cắn cổ”, ta cảm nhận được tinh thần căm thù giặc sâu sắc của người nông dân khi đối mặt với giặc ngoại xâm.
Nguồn cảm hứng để chống lại giặc ngoại xâm đã đẩy họ tự giác đứng lên chiến đấu vì nghĩa lớn: “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”. Người nông dân tự nguyện sẵn sàng xả thân, hi sinh để bảo vệ đất nước. Trong trận nghĩa đánh Tây, họ xuất hiện với tư thế kiên cường, bất khuất và hành động quả cảm, mạnh mẽ: “đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không”; “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có…”. Sự quyết liệt được tô đậm hơn nữa thông qua biện pháp liệt kê: “Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu sắt, tàu đồng súng nổ”. Mặc dù trang bị, vũ khí thô sơ: “manh áo vải”, “ngọn tầm vông”, “rơm con cúi”, “lưỡi dao phay”,... nhưng họ vẫn bước ra chiến trường với tư thế dũng mãnh của người làm chủ: “cũng chém rớt đầu quan hai họ”.
Tác phẩm kết thúc bằng lời khẳng định về sự hi sinh cao đẹp của người nông dân - nghĩa sĩ qua câu văn ngắn gọn tám chữ: “Một trận khói tan, nghìn năm tiết rỡ”. Từ ngữ “nghìn năm” đã gợi mở phạm trù thời gian vĩnh hằng để ngợi ca linh hồn bất tử của người nông dân.
Để thành công trong việc khắc họa hình tượng người nông dân, nghĩa sĩ, tác giả đã sử dụng bút pháp hiện thực. Đây là một đóng góp mới mẻ trong văn học trung đại - giai đoạn chủ yếu sử dụng bút pháp ước lệ tượng trưng. Nhờ vậy, hình tượng người nông dân hiện lên chân thực qua nhiều nét vẽ, từ dáng vẻ bề ngoài đến cuộc sống lao động cùng những tâm tư, suy nghĩ và hành động. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng nhiều biện pháp tu từ nghệ thuật để tăng sức gợi hình, gợi cảm như so sánh (“trông tin quan như thời hạn trông mưa, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”), đối lập, đặc tả,...
Vậy nên, “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thành công trong việc tái hiện bức chân dung người nông dân, đặc biệt là tinh thần yêu nước, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý chí quyết tâm chống lại giặc ngoại xâm. Đây là những phẩm chất cốt lõi của nhân dân Việt Nam, là giá trị truyền thống đặc sắc. Sử dụng bút pháp hiện thực, Nguyễn Đình Chiểu đã làm mới hình ảnh người nông dân trong thời đại văn học trung đại Việt Nam.
2. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 2:
Nguyễn Đình Chiểu là một tài năng văn chương xuất sắc khi tạo nên hình ảnh độc đáo về người nông dân trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Trong tác phẩm này, ông mô tả rõ về cuộc sống và tinh thần của người nông dân nghèo, họ là những người lao động cần cù và trung thành với đất đai. Hình ảnh họ yêu nước và căm thù giặc ngoại xâm được diễn đạt mạnh mẽ qua những đoạn văn đầy xúc động. Điều đó làm nổi bật giá trị văn hóa và tinh thần yêu nước của họ.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được sáng tác vào năm 1858, trong bối cảnh thực dân Pháp xâm lược Việt Nam. Tác phẩm là biểu tượng cho tinh thần chiến đấu quả cảm của những nông dân yêu nước. Họ đã đứng lên chống lại quân Pháp, hi sinh vì tự do và độc lập. Nguyễn Đình Chiểu đã diễn đạt sự hùng tráng, đoàn kết của những nghĩa sĩ dũng cảm qua từng dòng văn, làm cho độc giả cảm nhận được tinh thần bất khuất và lòng yêu nước mãnh liệt của họ.
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật hiếm có, mà còn là biểu tượng của sức mạnh và tư duy nghệ thuật. Tác phẩm hoành tráng, hùng tráng và thống thiết, thể hiện tầm vóc của những nông dân yêu nước. Nguyễn Đình Chiểu bằng bút pháp hiện thực và tu từ nghệ thuật đã làm nổi bật hình ảnh của họ, tạo nên một tác phẩm độc đáo với ý nghĩa lịch sử và văn hóa sâu sắc.
Nguồn gốc của họ bắt nguồn từ những nông dân nghèo, cuộc sống của họ 'côi cút' sau cánh đồng lúa. Bản chất của họ là giản dị và hiền lành, chăm chỉ làm việc, quen thuộc với cảnh làm ruộng, với con trâu, với cánh đồng mà họ gọi là nhà. Sự mộc mạc của họ được thể hiện qua lời thơ: 'Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó'. Dù mệt mỏi và gặp khó khăn, họ vẫn âm thầm chịu đựng một mình mà không kể lại cho ai. 'Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó' là biểu tượng của cuộc sống khó khăn mà người nông dân Việt Nam phải đối mặt, bắt đầu từ việc cày cấy cho đến khi đối mặt với nghèo đói. Họ là những người nông dân quen thuộc, sống xung quanh ta. Quanh năm, họ lao động chân lấm tay bùn, không hề biết đến thế giới của cung ngựa và trường nhung: 'Chưa quen cung ngựa đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ'. Mặc dù chưa từng trải qua việc sử dụng vũ khí, nhưng khi đất nước gặp nguy hiểm, họ đã tự nguyện đứng lên làm quân tự nguyện, bảo vệ đất đai và nghề làm lụng của mình, xem đó như là trách nhiệm lớn lao. 'Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ'. Đối với giặc Pháp và bè lũ tay sai, họ chỉ có thái độ một chiều: 'ăn gan' và 'cắn cổ', với chiến hướng là 'phen này xin ra sức đoạn kình..., chuyến này dốc ra tay bộ hổ'.
Trong bài Văn Tế, Nguyễn Đình Chiểu đã tạo ra sự đối lập giữa đoàn dũng sĩ của quê hương và giặc Pháp xâm lược. Giặc xâm lược được trang bị hiện đại, sở hữu 'tàu thiếc, tàu đồng', 'bắn đạn nhỏ, đạn to', và có bọn lính đánh thuê với kỹ thuật 'mã tà, ma ní' tinh nhanh. Ngược lại, trang bị của nghĩa quân lại thô sơ. Quân trang chỉ là '1 manh áo vải'. Vũ khí chỉ có 'một ngọn tầm vông', hoặc 'một lưỡi dao phay', và súng hoả mai khai hoả 'bằng rơm con cúi'. Tuy nhiên, họ vẫn đạt được chiến công: 'Đốt xong nhà dạy đạo kia' và 'chém rớt đầu quan hai nọ'. Bài Văn Tế tái hiện những giây phút chiến đấu kịch tính của nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc: 'Chi nhọc quan quản gióng trống kì, Trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không; Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, Xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có'. 'Kẻ đâm ngang, người chém ngược, Làm cho ma ní, mã tà hồn kinh; Bọn hè trước, lũ ó sau, Trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ'.
Không khí chiến trận đầy tiếng trống giục quân, 'có bọn hè trước, lũ ó sau' vang lên từ đất trời cùng với âm thanh của súng nổ. Các nghĩa sĩ của chúng ta coi cái chết như không có gì, tấn công như một cơn bão, quyết liệt trên đất địch: 'Đạp rào lướt tới', 'xô cửa xông vào', 'Đâm ngang chém ngược', 'hè trước, ó sau'. Nguyễn Đình Chiểu đã làm nổi bật tinh thần dũng cảm, kiên cường của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, đồng thời thể hiện lòng tôn kính của ông đối với họ. Những chiến sĩ này đã sống và chiến đấu anh dũng, hy sinh vì tự do và độc lập. Họ là tấm gương chiến đấu và hy sinh, để chúng ta hiểu rằng đất nước nào cũng có quyền sống tự do và tự chủ. Họ là những anh hùng mà chúng ta có lý do phải tự hào: 'Ôi! Một trận khói tan; Nghìn năm tiết rỡ'.
Sự hy sinh của những nghĩa sĩ Cần Giuộc để lại bài học quý giá. Họ chọn chết vinh dự hơn là sống nhục nhã. Họ là tấm gương sáng cho dân tộc Việt Nam noi theo, là ngọn đèn soi sáng cho đất nước. 'Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện được trả thù kia...'. Đó là công lao của những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, sẽ mãi mãi được khắc sâu trong lòng mỗi người con Việt Nam, là nguồn động viên cho tấm gương anh hùng, sẵn sàng hy sinh vì độc lập Tổ Quốc: 'Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, Thương vì hai chữ thiên dân; Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, Cám bởi một câu vương thổ'.
Tóm gọn lại, 'Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc' khẳng định tình cảm sâu sắc và lòng yêu thương dân của Nguyễn Đình Chiểu. Bài văn là biểu tượng tự hào và lòng biết ơn của nhân dân đối với những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc, những người đã dũng cảm chiến đấu, bảo vệ độc lập của quê hương, nơi mà Tổ quốc không chỉ là nơi họ sinh sống mà còn là trái tim quan trọng trong cuộc sống. Những nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc trở thành tấm gương về tinh thần dũng cảm, lòng yêu nước sâu sắc, để thế hệ sau có thể noi theo, đóng góp vào sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của đất nước.
Bài làm văn số 3, môn Ngữ văn lớp 11, học kì 1, đặt ra một nhiệm vụ quan trọng trong việc đánh giá khả năng viết và hiểu bài của học sinh. Để đạt điểm cao, ngoài việc làm đề số 3 về hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc trong Văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, học sinh cũng có thể tham khảo bài mẫu cho đề số 1, 2, 4. Nội dung của những đề này xoay quanh so sánh tài sắc giữa Thúy Vân và Thúy Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, cũng như so sánh tâm sự giữa Nguyễn Khuyến và Tú Xương. Đề còn đưa ra yêu cầu rõ ràng về nhận xét sâu sắc sau quá trình tìm hiểu về cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu, những điều Mytour đã giới thiệu.
Cảm nhận về người nghĩa sĩ Cần Giuộc
3. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 3:
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) - một nhà nho yêu nước sâu sắc, đong đầy căm thù với giặc. Cuộc đời ông chứng kiến nhiều bi kịch và bất hạnh, nơi mà ông cảm nhận rõ nỗi đau mất nước khi Pháp xâm lược. Trong bối cảnh giặc Pháp chiếm Gia Định (1859), ông phải tạm thời rời quê đến Thanh Ba, Cần Giuộc. Cuộc tấn công của Pháp nhanh chóng lan rộng, những nông dân áo vải, chân lấm, tay bùn đứng lên đánh giặc. Gia nhập nghĩa binh, họ sẵn sàng hy sinh vì nghĩa lớn. Bài văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, do yêu cầu của tuần phủ, thể hiện lòng cảm phục và xót thương vô hạn. Tác phẩm không chỉ diễn đạt sự đau xót của tác giả và nhân dân đối với các nghĩa sĩ Cần Giuộc mà còn vẽ nên vẻ đẹp hùng tráng của những người nông dân yêu nước đương đầu với kẻ thù Pháp.
Hỡi ôi!
Súng giặc, đất nước rỉ máu; trái tim dân chúng bừng tỏ...
Khi Tổ quốc đang lâm nguy, âm thanh tiếng súng vang vọng khắp nơi. Trong những khoảnh khắc khó khăn và đau thương, tình yêu quê hương của những người nông dân thường dân mới thực sự hiện hữu, và vẻ đẹp của tâm hồn trong họ trở nên rõ nét giữa bối cảnh đen tối của chiến tranh.
Tấm lòng và tình yêu quê hương, đất nước của những người nông dân giản dị nổi bật hơn qua những so sánh đối lập liên tục trong văn bản. Cảm xúc và lòng nhân ái đối với đất nước là điểm độc đáo và sâu sắc của họ được thể hiện rõ trong những dòng văn.
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó,
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung;
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm;
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng
Trước đây, họ sống và tồn tại, nhưng chỉ là 'cui cút làm ăn'. Mặc dù sống, họ tồn tại trong thầm lặng. Cuộc sống của họ đơn giản với nỗi lo 'miếng cơm manh áo'; họ chỉ quen với công việc nông nghiệp: cày, bừa, cấy, hái, làm bạn với con trâu và ruộng đồng. Họ chưa trải qua 'cung ngựa', 'trường nhung', và không quen với 'tập mác, tập cờ'. Những nghĩa sĩ ở đây chỉ là những nông dân áo vải, chưa quen với chiến trận, nhưng vì lòng yêu nước và chán ghét tà ma, họ đứng lên đấu tranh giữa cuộc chiến.
Trong 'tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng', họ đợi chờ mệnh lệnh từ triều đình: 'trông tin quan như trời hạn trông mưa'.
Nhưng bi kịch thực sự là ở đây: triều đình lơ đãng, không hiểu được tâm tư của dân yêu nước. Sự căm thù với giặc của những người nông dân không thể kiềm chế:
Mùi tinh chiên ấm áp rải đều đã ba năm, ghét những thói quen như nhà nông ghét cỏ.
... Bữa thấy bóng bóng trắng lốp che phủ, muốn đến thưởng thức gan; ngày thấy ống khói đen xì bay, muốn ra cắn cổ.
Hình tượng của người nông dân, những người nghĩa sĩ yêu nước, hiện lên mạnh mẽ và hào hùng. Tình yêu đất nước cháy bỏng từ trái tim của họ đã tạo nên vẻ đẹp tinh khôi, rực rỡ.
Vẻ đẹp của những nghĩa sĩ nông dân yêu nước toát lên từ lòng căm thù giặc mạnh mẽ. Cảm xúc căm thù biến thành những hành động dũng cảm và hào hùng.
Ai đợi chờ, ai buộc bước, lúc này hãy tỏ ra mạnh mẽ, không dừng lại:
Không trốn tránh, không ngần ngại, hành trình này chúng ta đi bằng lòng can đảm như chúa sơn lâm.
Trong những tác phẩm chống chiến tranh phong kiến phi nghĩa trước đây, người nông dân khi bắt buộc phải làm lính biên phòng ở xa để bảo vệ lãnh thổ của vua, họ ra đi với tâm trạng 'bước chân nhẹ nhàng trên chiếc thuyền, như những giọt nước mắt mưa'. Nhưng ngược lại, nông dân của Nguyễn Đình Chiểu đối mặt với khó khăn với tinh thần tự giác và ý chí tự nguyện chiến đấu để bảo vệ đất nước, ấy là vẻ đẹp chân thực nhất trong hành động của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Tác giả không chỉ tập trung vào vẻ đẹp tâm hồn, mà còn mô tả rõ vẻ đẹp trong hành động của những nông dân yêu nước. Từ nguồn động viên tinh thần tự nguyện, họ đã mang đến sức mạnh lớn lao. Họ đã hành động, đứng lên chống lại giặc ngoại xâm. Không chờ đợi sự chuẩn bị mà chỉ 'trên cơ thể một tấm áo vải, tay cầm một cụm tầm vông, trên đầu là chiếc nón gõ'. Hình ảnh của người nông dân hiện lên trong tác phẩm không chỉ làm cho chúng ta tự hào mà còn xen lẫn nỗi tiếc thương. Những nghĩa sĩ dường như là biểu tượng của một sức mạnh dân tộc. Đối mặt với quân thù mạnh mẽ với 'đạn nhỏ, đạn to', 'tàu sắt, tàu đồng' của đội quân xâm lược, những người nông dân chỉ có 'một tấm áo vải', 'một cụm tầm vông', chỉ có 'chiếc dao cưa' và chỉ có những 'hỏa mai chiến đấu bằng rơm con cúi'. Điều này thực sự là một cuộc chiến đấu trước sự đồng minh hùng mạnh. Sự thật phũ phàng đó làm cho ta thấy đau lòng. Đó là thảm kịch của những nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là thảm kịch của cuộc sống nước ta trong thời kỳ khó khăn ấy. Nhưng cũng chính từ cái thảm kịch ấy, hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước mới trở nên rạng rỡ. Bằng lòng kiên trung, tình yêu nước mãnh liệt, họ đã tạo nên những điều phi thường, là những anh hùng chiến tranh của dân tộc. Qua mọi gian khổ, qua mọi đau thương, họ vẫn quyết chiến và chiến thắng, bằng tinh thần hy sinh vì nghĩa để bù đắp cho sự thiếu hụt và chênh lệch của mình so với kẻ thù. Dù tình hình chiến trường khó khăn, họ vẫn quyết chiến bằng tâm hồn kiên cường và lòng quyết tâm không sợ hi sinh, tạo nên hiệu quả chiến đấu lớn lao.
Từ cái thảm kịch này, hình tượng của những người nghĩa sĩ nông dân yêu nước mới trở nên rạng ngời. Bằng lòng kiên trung, tình yêu nước mãnh liệt, họ đã thực hiện những điều phi thường, tạo nên bản hùng ca chiến tranh của dân tộc. Vượt qua mọi khó khăn, vượt qua mọi đau thương, họ quyết chiến và giành chiến thắng, bằng tinh thần hy sinh vì nghĩa để đền đáp cho sự thiếu hụt và chênh lệch so với kẻ thù. Dù tình hình chiến trường khó khăn, họ vẫn quyết chiến bằng tâm hồn kiên cường và lòng quyết tâm không sợ hi sinh, tạo ra hiệu quả chiến đấu lớn lao.
Chỉ sử dụng những công cụ chiến đấu đơn giản như:
Lửa bùng bằng bóng cỏ cong, đã đốt cháy những ngôi đền thờ kia,
Gươm cầm chế tạo từ lưỡi dao phay, đã chém đổ đầu quan áo kia.
Kẻ đâm vuốt ngang, người chém hất ngược, khiến cho quỷ tặc phải kinh hãi...
Chỉ với những vũ khí giản dị, nhưng tình yêu nước, tinh thần dân tộc đã tạo nên những kì tích. Hình ảnh của nghĩa sĩ nông dân hiện lên với vẻ đẹp rạng rỡ của chủ nghĩa yêu nước, làm cho thời kỳ tối tăm trong lịch sử mất nước cuối thế kỷ XIX trở nên mờ nhạt.
Bài văn tế như một bức tượng đài bằng từ ngữ, điêu khắc hình tượng những nghĩa sĩ nông dân hùng hậu, là biểu tượng của tinh thần yêu nước, lòng căm hận giặc ngoại xâm của dòng họ. Bức tượng đài đó là dấu mốc đại diện cho bi kịch lớn của dân tộc - thời kỳ mất nước, đồng thời là dấu hiệu cho một giai đoạn lịch sử đen tối của Việt Nam - thời kỳ trăm năm thuộc địa Pháp. Nhưng phải công nhận, trong cái bi kịch to lớn đó, tinh thần bất khuất của nhân dân Nam Bộ và Việt Nam đã tỏa sáng qua lý tưởng cao cả của nghĩa sĩ Cần Giuộc - họ sẵn sàng đánh đổi tất cả vì nghĩa lớn, vì dân tộc.
Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc được tái hiện độc đáo
4. Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, mẫu số 4:
Người nông dân Việt Nam, chiến sĩ yêu nước chống giặc, đã xuất hiện từ thời xa xưa, nhưng hình ảnh ấy thực sự chập chững trong văn học từ cuối thế kỉ XIX với tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Đó là bức tranh nghệ thuật đầu tiên về người nông dân nghĩa sĩ Việt Nam, đẹp và chân thực như cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam trong nửa sau thế kỉ XIX, họ chiến đấu cho cuộc sống, cho độc lập và tự chủ của quê hương.
Tuy nghèo khó, nhưng niềm tin vào sức mạnh bất diệt của Tổ quốc, lòng yêu nước cháy bỏng của những người dân bình thường, nhà thơ không bao giờ gục ngã. Anh tin rằng non sông sẽ trở nên trong xanh khi bóng đế quốc xâm lược tan biến, và nhục hình mất nước sẽ được xóa sạch bằng niềm tự hào hồi sinh:
Khi Thánh đế ân soi sáng muôn ngả
Mưa nhuần nhẹ rửa sạch núi sông đáng quý.
(Hướng đông gió vẫn chưa xuất hiện)
Niềm tin đặc sắc, mạnh mẽ hiện hữu. Trước Nguyễn Đình Chiểu, chưa có nhà thơ nào tận dụng ý thức như vậy:
Chở đầy đạo thuyền mặc gió khói
Mũi tên chí mạng đâm thẳng tà ác.
Đạo lý của ông chẳng khác gì đạo nghĩa yêu nước, thương dân. Nó là nguồn cảm hứng khiến thơ văn ông đậm chất xúc động, Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng trong văn hóa Việt.
Nguyễn Đình Chiểu mở đầu bài ca bi thương với sự sắc sảo:
Hỡi ơi!
Súng địch làm đất trời rộ;
Lòng dân như trời bày tỏ.
Sau cuộc chiến, qua khó khăn thách thức, tâm hồn của những người nông dân bình thường lóe sáng, vẻ đẹp tinh thần thật sự của họ được bày tỏ. Trước đây, họ tồn tại, nhưng bị lãng quên. Họ sống, nhưng sống trong âm thầm. Nguyễn Đình Chiểu, với lòng thương cảm sâu sắc, nhận ra rằng cuộc sống của họ từng vật lộn khó khăn:
Chợt bấn loạn linh hồn xưa:
Nắng chiều rơi lên ruộng,
Bát ngát những gánh nặng vẫn đeo bên cạnh.
Cả thế giới đậm đà trong tám tiếng ngắn ngủi, tiết lộ mọi thứ về cuộc sống khó khăn của những người nông dân ở Cần Giuộc, họ là những người nông dân kiên cường, là hình ảnh của người nông dân Việt Nam thời kỳ đó. Họ hiện lên như những bức tranh nhỏ bé và cô đơn trên nền cuộc sống, gập người trước những thách thức, tai ương từ thiên nhiên và xã hội. Đám mây buồn nghiêng qua những cánh đồng, bóng dáng nhỏ bé vươn lên dưới gánh nặng cuộc sống, mỗi chữ viết lên như một bức tranh rõ nét. Đã nghĩ rằng họ đã quen với gánh nặng, với những lo toan khổ nhọc, nhưng không, quân xâm lược đến, đến từng góc nhỏ xóm làng, từng ngôi nhà của họ. Và, những người nông dân đang làm mình nhỏ bé kia bỗng đứng lên, vươn vai, trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng một thời. Nhưng khác biệt lớn là bây giờ, tiếng gọi cứu nước không phải từ cung điện mà từ trái tim của những người nông dân Cần Giuộc, lòng căm thù giặc bùng cháy vì hành động cướp nước:
Hương vị đất trời hiện lên trong mỗi hơi thở, báo hiệu sự chống đối vững mạnh với số phận khắc nghiệt. Những đồng ruộng màu mỡ là nơi họ vươn vai, không gặp gỡ làm mất đi hình tượng đẹp của họ.
Mùi tinh chiên lan tỏa đã ba năm, nhưng chúng không thể nào xóa nhòa bản tính như mặt đất của nhà nông.
Chợt bắt gặp những bong bóng trắng lốp, muốn tới thưởng thức gan ngon; Ngày ngắm ống khói đen xì, muốn bước ra và cắn cổ.
Như phản ứng tự nhiên của hạt nhân, lòng căm thù giặc nổ lên và tạo ra một khao khát khó cưỡng: Khao khát chiến thắng giặc. Đó là ước mơ tự do và tự nguyện tột cùng:
Không đợi ai đòi, không chờ ai bắt, chúng ta đòi quyền tự do; Không trốn tránh, không ngần ngại, chuyến này ta sẽ ra sức như hổ dữ.
Những người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu đã thay đổi hoàn toàn so với những người nông dân cách đây không lâu, khi 'Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa' phải làm lính đi biên thủ xa để bảo vệ lãnh thổ của nhà vua. Họ tự nguyện chiến đấu, điều đó là bản chất của mọi hành động nghĩa sĩ. Có lẽ đó chính là sự liên kết giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc và chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên, động cơ duy nhất là chiến đấu vì nước chống quân xâm lược:
Nhớ lời kiến ngãi bất vi
Trở thành người như vậy không phải là thiếu anh hùng.
Trong mọi công việc nghĩa vụ, không có việc nào quan trọng hơn là cứu nước. Thấy việc làm là việc nghĩa, hãy hành động một cách tự do, không vụ lợi, không chần chừ, không cần phải đợi đến khi có đủ điều kiện mới thực hiện. Đó là bản chất bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, nhưng đồng thời cũng là hùng ca của người nghĩa sĩ Cần Giuộc. Bi kịch bởi:
Tiếng gió hú phập phồng qua mươi tháng,
Nhìn thấy tin như trời đãng mưa chờ.
Họ bắt đầu cuộc chiến đấu trong khi lẽ ra triều đình phong kiến và quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu từ lâu, nhưng lại 'án binh bất động' một cách khó hiểu. Bi kịch đồng thời là những người:
Chưa quen cưỡi ngựa, chẳng tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ,
Làm việc cuốc, cày cấy, bừa bãi... tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ... mắt chưa từng ngó
Bước vào vùng sống chết của chiến trường, những con người đó chỉ mang theo trang bị đủ để làm những người cày ruộng. Đối mặt với kẻ thù là những lính nhà nghề với đủ loại vũ khí như 'tàu thiếc, tàu đồng'', ''đạn nhỏ, đạn to', họ chỉ là những người nông dân không có kiến thức về trận mạc, chỉ có 'một chiếc áo vải', 'một cây tầm vông', chỉ có 'lưỡi dao phay'. Cuộc chiến đấu có chênh lệch gì đâu! Kết thúc cuộc chiến đấu đó thì đã rõ ràng rồi. Đó là bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, là bi kịch của cuộc sống nước ta trong thời kì khốc liệt đó, tấn bi kịch đã gây ra mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng chính trong cái bi kịch đó, bản hùng ca của cuộc sống đã vang lên. Hùng ca chủ yếu nằm ở sự mạnh mẽ của những con người quyết chiến, vượt lên trên nỗi sợ thất bại để giành chiến thắng, với tinh thần xả thân vì nghĩa để bù đắp mọi thiếu hụt, chênh lệch so với kẻ thù:
Chi nhọc quan quản tiếng trống kè; trống húc, đạp rào đi, nhìn thấy giặc như không có gì;
Không sợ tên Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xông cửa đối mặt, liều lĩnh như không có...
Bọn hè trước, lũ ó sau, coi thường tàu thiếc, tàu đồng, súng nổ.
Rất là phấn chấn, rất là hào hùng, thật sự ấn tượng. Chính xác là họ đã tham gia vào cuộc chiến như những người lính tận tâm dũng cảm. Tại đây, tinh thần mạnh mẽ đã phát huy hiệu quả tối đa, và ở mức độ nào đó, nó đã chứng minh sức mạnh so với chiến thuật, vũ khí, trang bị:
Hỏa mai chiến đấu với rơm, dùng cúi đốt cháy nhà đạo kia Gươm đeo, lưỡi dao phay, cũng hạ gục quan hai nọ.
... Kẻ đâm ngang, người chém ngược, khiến tinh thần ác ma nổi loạn...
Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, chưa từng có một bức tranh nào hùng vĩ như thế về tư duy chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây thực sự là biểu tượng và tinh tế nhất về bản chất của họ. Trong những khoảnh khắc đặc biệt đó, người nông dân Cần Giuộc đã trở thành bất tử.
Nguyễn Đình Chiểu đã khắc họa một tượng đài của những người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đó không chỉ là tượng của một người, mà là của một đồng đội anh hùng. Không có tập thể đó, không thể có sự đồng lòng tuyệt vời, sức sống áp đảo nghèo đói, áp đảo cái chết, với những 'đạp rào lướt tới', 'xô của xang vào', với những 'kẻ đâm ngang, người chém ngược', 'bọn hè trước, lũ ó sau' như thế.
Bức tượng của Nguyễn Đình Chiểu mang tên gọi chung là 'Nghĩa sĩ Cần Giuộc', nhưng từng người anh hùng trên đó đều vô danh. Họ đã sống cuộc đời của những người vô danh và chết một cách vô danh. Họ không tìm kiếm cái gì cho bản thân khi chiến đấu. Điều duy nhất họ để lại, điều mà Nguyễn Đình Chiểu mô tả như một nguyên tắc chung dưới bức tượng của họ, đó là triết lý sống này:
Chết vì danh dự hơn sống trong nhục nhã.
Thà theo dòng họ để giữ vẻ quý phái, vinh quang
Hơn là chấp nhận sự dẹp loáng dưới bóng chữ Tây, sống trong thất thường khổ đau.
Hoàn thành tượng đài, Nguyễn Đình Chiểu để lại một phần cuối cùng với những lời ca ngợi, tình cảm và những nén hương kính trọng:
Làn nước mắt của những anh hùng không bao giờ khô, trải lòng vì hai chữ thiêng liêng Cây hương nghĩa sĩ thơm phức, chôn vùi bởi một câu hò vương thổ
Cuộc tấn công của vài chục nghĩa sĩ vào đồn Cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là bước khởi đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Mặc dù thiệt hại gây ra cho đối thủ có thể không nhiều, nhưng hiệu quả thực sự của họ cho cuộc kháng chiến và lịch sử dân tộc, qua tinh thần yêu nước của họ, sẵn sàng chiến đấu vô điều kiện và lòng dũng cảm tuyệt vời, là vô cùng to lớn. Họ xứng đáng được khắc sâu vào tượng đài để trở nên bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình khi tạo nên bức tượng đài đó.
Dưới đây là một số mẫu về hình ảnh của những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, giúp độc giả hiểu rõ hơn về cuộc khởi nghĩa ở Cần Giuộc và những người tham gia vào nó.
Bên cạnh Hình tượng người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc, hãy khám phá thêm về những phân tích và bài soạn như Phân tích bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc hoặc Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, tác giả để hiểu thêm về bài văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.