Đề bài: Bình giảng về bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương
1. Dàn ý chi tiết
2. Bài mẫu số 1
3. Bài mẫu số 2
4. Bài mẫu số 3
Bình giảng văn mẫu về bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương, được chọn lọc
I. Dàn ý Bình giảng bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương (Chuẩn)
1. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả Hồ Xuân Hương (đặc điểm con người, cuộc đời, vị trí văn học sử, sự nghiệp sáng tác,...)
- Giới thiệu về bài thơ “Tự tình” (xuất xứ, cảm hứng, đề tài, những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,...)
2. Phần thân bài
a. Tâm trạng cô đơn, trống vắng, bẽ bàng của nhân vật trữ tình
- Đêm khuya không chỉ là thời gian thực tế mà còn là thời điểm nghệ thuật, là biểu tượng của sự cô đơn mà nhà thơ muốn truyền đạt.
b. Nỗi buồn, sự bế tắc, cay đắng, xót xa trong số phận
- Uống rượu để quên mình, nhưng không thể quên được cảm giác cô đơn.
- Vầng trăng không chỉ là vầng trăng thực mà còn là biểu tượng của tình yêu, hạnh phúc mà nhân vật trữ tình khao khát.
→ Nhân vật trữ tình cảm thấy buồn bã, cay đắng khi tuổi xuân đã qua mà hạnh phúc, tình yêu vẫn còn dang dở.
c. Sự phẫn uất, phản kháng của nhân vật trước số phận
- Sử dụng ngôn ngữ đảo ngữ, kết hợp với các động từ mạnh như “xiên ngang”, “đâm toạc”, tác giả đã tạo ra hình ảnh thiên nhiên như đang cố gắng cựa quậy bứt phá, không chịu khuất phục trước số phận.
→ Sự phẫn uất, phản kháng của nhân vật trước số phận.
d. Tình trạng ngán ngẩm, buông xuôi, bất lực của nhân vật trữ tình trước số phận.
- Hai chữ “xuân” được sử dụng độc đáo: Mùa xuân quay trở lại cũng có nghĩa là lúc tuổi xuân trôi đi, con người không thể nào níu giữ.
- Sử dụng nghệ thuật tăng tiến: Mảnh tỉnh đã bé lại còn phải chia sẻ để rồi chỉ còn lại “tí con con”.
→ Nỗi buồn, chán nản và bất lực buông xuôi của nhân vật trữ tình.
3. Kết bài
Tóm tắt những đặc điểm đặc sắc về giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật của bài thơ “Tự tình” và nêu cảm nghĩ của bản thân.
II. Bài văn mẫu Bình giảng bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương
1. Bình giảng bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương, mẫu số 1 (Chuẩn):
Hồ Xuân Hương là một trong những nhà thơ nữ xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam. Bà để lại nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó bài thơ Tự tình II là một điển hình.
Xã hội xưa, đặc biệt là phụ nữ, thường phải chịu nhiều bất công và bị giày vò về thể xác, tinh thần. Trong hoàn cảnh đó, nỗi cô đơn, tủi phận luôn bủa vây họ, nhưng sâu thẳm trong họ vẫn tồn tại những giá trị đáng trân trọng. Bài thơ Tự tình là lời tâm sự về những nỗi buồn và khát khao, là tiếng lòng của bao người phụ nữ trong xã hội thời đó.
“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”
Khi đêm buông xuống, bóng tối ùa về, lòng người chìm trong cảm xúc hỗn độn nhất. Lúc này, nhân vật trữ tình cũng như thế, 'đêm khuya' - khoảnh khắc của nỗi buồn, của sự cô đơn chiếm chỗ. Tiếng trống canh càng làm cho sự tĩnh mịch, vắng lặng của đêm tối thêm thấm đượm
Các bài văn Bình giảng về bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương được tuyển chọn
Giữa tiếng trống canh, lòng người khắc khoải, phận hồng nhan 'trơ' giữa cuộc đời, nỗi chơ vơ tột cùng, trống trải đến khôn nguôi.
Nỗi buồn có thể được chia sẻ nếu có ai đồng cảm, chịu nghe giãi bày, lắng nghe tổn thương, khổ đau. Nhưng ở đây, nhân vật trữ tình lại chỉ một mình đơn độc, không có ai san sẻ, đành lấy rượu làm tri kỉ, tìm đến rượu để quên hết muộn phiền:
'Chén rượu hương đưa say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn'
Men rượu có thể làm người say, quên đi tức thời nhưng rồi khi tỉnh nỗi đau vẫn còn đó, chẳng thể vơi, cuối cùng, sự cô đơn vẫn cứ bám víu lấy thân phận bé nhỏ. Kiếp hẩm hiu của người phụ nữ như vầng trăng khuyết, dù bóng đã xế mà chẳng thể 'tròn', chẳng thể trọn vẹn một mối tình chung thủy, sắt son. Duyên phận lỡ làng, cuộc đời trái ngang, còn gì đau khổ hơn như thế, số phận cứ như trêu ngươi người phụ nữ vậy.
Nhưng dù rằng có khó khăn, dù rằng bao tồi tệ xảy đến thì người phụ nữ vẫn không hề từ bỏ. Sâu thẳm, họ vẫn mang trong mình sức sống kiên cường, mạnh mẽ để vượt thoát khỏi những cơ cực đang chịu đựng từng ngày hay chí ít cũng để vơi đi những tù túng, chán chường.
'Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn'
Những đám rêu nhỏ bé kia cũng dũng cảm 'xiên ngang' cả mặt đất để vươn mình đón lấy ánh sáng mặt trời. Những hòn đá nhỏ nhoi cũng 'đâm toạc' cả trời mây để nhận lấy tự do. Tất cả những hình ảnh của sự vật thiên nhiên ấy chính là hình ảnh ẩn dụ cho người phụ nữ với sức sống phi thường, mạnh mẽ. Dù cho những bất công, đau khổ có vùi dập họ từng ngày thì họ vẫn gắng gượng để vượt thoát với ước mơ tự do, hạnh phúc và bình yên.
'Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình san sẻ tí con con”
Xuân của tạo hoá, đi rồi đến, vòng tuần hoàn của vũ trụ chẳng thể đổi thay. Thời gian thì trôi đi nhưng có những điều chẳng thể nào thay đổi. Chữ 'Ngán' đặt đầu câu càng diễn tả sự chán chường của nhân vật trữ tình, tuổi xuân cứ ngày một thêm vậy mà mong cầu một cuộc tình trọn vẹn cũng chẳng thể có. Thanh xuân để chờ đợi một hạnh phúc đúng nghĩa cũng chẳng chạm tới, đến 'mảnh tình' - mối tình mỏng manh, nhỏ nhoi, ít ỏi cũng phải san sẻ cho người. Như thế, sao không thể ngán ngẩm, sao không khỏi chán chường, sao không thể không cô đơn cho được.
Quan niệm phong kiến xưa: 'Trai năm thê bảy thiếp, gái chuyên chính một chồng' đã khiến cho bao người phụ nữ phải ngập chìm trong khổ đau, gặm nhấm nỗi cô đơn từng ngày, từng giờ, từng đêm vắng. Là người phụ nữ sống trong xã hội lúc bấy giờ, cũng chịu chung cảnh ngộ như thế mà Hồ Xuân Hương đã viết nên bài thơ nói lòng mình mà cũng nói hộ lòng người. Bài thơ khiến ta không khỏi xót xa, thương cảm cho kiếp sống mong cầu hạnh phúc mòn mỏi và chịu đựng khổ đau của bao phụ nữ xưa. Đồng thời, càng căm phẫn một xã hội bất công vùi dập tự do, hạnh phúc của con người.
Hồ Xuân Hương được gọi là “Bà chúa thơ Nôm”, là một trong những nhà thơ nữ tiêu biểu và xuất sắc của văn học trung đại. Cuộc đời của bà đầy biến động, đau thương nhưng sáng tác của bà vẫn thể hiện sự đồng cảm và ngợi ca đối với phụ nữ.
Hai câu thơ mở đầu bài thơ thể hiện rõ nỗi cô đơn, trống vắng của nhân vật trữ tình.
Đêm khuya vắng vẻ trống canh dồn,
Thời khắc đêm khuya là lúc hạnh phúc lứa đôi nhưng cũng là lúc nhân vật trữ tình cảm nhận sâu sắc nhất nỗi cô đơn, bất hạnh của mình. Tiếng trống canh như nhắc nhở về sự trôi chảy của thời gian trên thân phận trớ trêu của nhân vật.
Bình giảng bài Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương hay nhất
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Nhà thơ miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ nhưng cũng thể hiện sự trống vắng, cô đơn của nhân vật trữ tình.
Buồn bã, bế tắc với số phận cô đơn, nhân vật trữ tình tìm đến rượu để giải sầu nhưng càng thêm đau đớn và xót xa cho số phận của mình.
Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Uống rượu để quên đi nỗi cô đơn nhưng không thành công, “say lại tỉnh”, khao khát hạnh phúc lứa đôi nhưng chỉ nhìn thấy vầng trăng khuyết. Nhân vật trữ tình cảm thấy buồn bã, cay đắng, xót xa khi tuổi xuân qua đi mà hạnh phúc, tình yêu vẫn chưa đầy đủ.
Đau khổ với số phận nhưng người phụ nữ không chịu bó buộc, nàng tìm cách phản kháng.
Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám, Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.
Thế giới hình tượng thơ Xuân Hương luôn sôi động và huyên náo. Sử dụng nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với các động từ mạnh, tác giả vẽ nên khung cảnh thiên nhiên như đang cố gắng cựa quậy bứt phá, không chịu đầu hàng trước số phận.
Nhân vật trữ tình cố gắng phản kháng nhưng không thể vượt thoát được số phận, cuối cùng chấp nhận bằng một tiếng thở dài đầy ngao ngán.
Ngán nỗi xuân đi xuân lại, Mảnh tình san sẻ tí con con.
Tác giả sử dụng hai chữ “xuân” thật độc đáo, thể hiện sự trôi đi của tuổi xuân và nỗi ngán ngẩm trước sự thật phũ phàng. Mảnh tình đã bé lại còn phải san sẻ, chỉ còn lại “tí con con”, khiến con người ta buồn, chán nản và bất lực buông xuôi.
Tóm lại, bài thơ “Tự tình” (bài 2) của Hồ Xuân Hương với thể thơ thất ngôn bát cú, ngôn ngữ giản dị đã thể hiện một cách chân thực và rõ nét bi kịch, nỗi đau đớn, xót xa cho thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Khát khao hạnh phúc cháy bỏng của Hồ Xuân Hương nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội cũ nói chung.
Bình giảng Tự tình 2 của nhà thơ Hồ Xuân Hương, mẫu số 3:
Văn học trung đại Việt Nam đánh dấu sự thành công của các nhà thơ nổi tiếng với những tác phẩm để lại dấu ấn vô cùng mạnh mẽ. Hồ Xuân Hương đã để lại cho người đời sau những bài thơ nói lên tiếng nói của người phụ nữ, cất lên tiếng thơ tố cáo, đấu tranh cho quyền phụ nữ vô cùng sâu sắc. Tự tình II là một tác phẩm vô cùng xuất sắc thể hiện được tài năng và tư tưởng của bà.
'Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn, Trơ cái hồng nhan với nước non'.
Cũng như nhiều phụ nữ khác trong xã hội, Hồ Xuân Hương phải trải qua cuộc sống với chồng. Bà đã thể hiện điều này qua bài thơ:
'Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng Chém cha cái kiếp lấy chồng chung.'
Bài thơ thể hiện nỗi lòng của người phụ nữ giữa đêm khuya tĩnh mịch. Tiếng trống điểm canh vẫn vang vọng, khiến lòng người không nguôi nghĩ về cuộc đời. Người phụ nữ ấy mong chờ hạnh phúc nhỏ bé vào tâm khảm. Nỗi cô đơn, tủi hổ bao vây, dòng tâm trạng chịu đựng trước cuộc đời.
'Chén rượu hương đưa say lại tỉnh, Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn'
Hướng dẫn Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Nhưng rượu không thể làm cho quên đi nỗi sầu đang bủa vây tâm hồn người phụ nữ, càng tỉnh lại càng đau khổ. Hương rượu khiến lòng người thêm đau khổ, gợi lại nỗi niềm chia xa. Làm sao để quên đi nỗi đau ấy, làm sao để tìm bình yên trong trái tim mình. Không thể nào quên được nỗi tuyệt vọng vô bờ bến, nhìn lên vầng trăng mong tìm chút đồng cảm, mong vẻ đẹp tròn đầy của ánh trăng mang chút hy vọng cho niềm hạnh phúc. Vậy mà vầng trăng cũng vô tình khuyết đi như hạnh phúc chẳng thể cập bờ viên mãn. Vầng trăng bao giờ mới trọn vẹn, hạnh phúc đôi ta bao giờ mới tuyệt diệu và bình yên, bao giờ mới thôi khao khát đợi chờ, bao giờ mới ngừng đau khổ , cô đơn. Nỗi buồn không thể ngừng, càng ngập trong men rượu nỗi buồn càng tàn toả, cảnh vật cũng mang vẻ sầu tư.
'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ' chứ, thiên nhiên mang nỗi buồn nhân thế:
'Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám. Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.'
Nhưng dù buồn trong đó vẫn mang sức mạnh ngang tàn. Có nhỏ bé, có yếu ớt nhưng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Đó là một sức sống mãnh liệt của thiên nhiên ẩn dụ cho sự đấu tranh giành lấy hạnh phúc của người phụ nữ. Họ không cam chịu, không khuất phục trước số phận. Tình duyên lận đận nhưng không vì thế mà chấp nhận nỗi cô đơn, vẫn muốn đấu tranh để giành lấy hạnh phúc của mình. Trong lòng những người phụ nữ vẫn ngập tràn hy vọng, ngập tràn niềm tin ở tương lai về hạnh phúc và tình yêu, mong chờ những tháng ngày bình yên. Nhưng đời vốn trớ trêu, chút hy vọng ấy lại bị nghịch cảnh quấn lấy một lần nữa. Thực tại phũ phàng, cuộc đời lại bế tắc, chán nản.
'Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại, Mảnh tình san sẻ tí con con!'
Xuân thì vẫn cứ thế tuần hoàn, vòng xoay của số phận cũng cứ tuần hoàn như thế. Mà tình yêu, hạnh phúc vẫn cứ dở dang, chật hẹp. Duyên đôi lứa đã ít ỏi, nhỏ bé, từng mảnh vụn vỡ nhỏ nhoi mà vẫn đành chấp nhận san sẻ, chia sớt cho người.
Từng lời thơ thốt ra chứa chan niềm xót xa, cay đắng. Có chua xót, có đăng cay, có niềm tin, có quyết liệt, có cô đơn, có thất vọng và cả tủi hờn. Tiếng thơ đượm buồn và chứa chan khát khao mãnh liệt niềm hạnh phúc trong xã hội đầy rẫy bất công. Lối biểu cảm tinh tế theo từng dòng tâm trạng đã khiến người đọc thổn thức theo từng lời chữ thốt ra, qua đó ta thêm yêu thương và trân trọng vẻ đẹp, tấm lòng của những người phụ nữ, thêm yêu, thêm quý hồn thơ của nữ sĩ tài ba Hồ Xuân Hương.