Dàn bài
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả Tản Đà và bài thơ Hầu trời.
- Dẫn dắt chủ đề chính.
2. Thân bài
- Tổng quan:
+ Nguồn gốc: Trích từ tập thơ “Còn Chơi”.
+ Bố cục: Gồm 4 phần chính.
+ Chủ đề: Tác giả thể hiện cái tôi cá nhân sau khi trở lại trần gian.
- Phân tích:
+ Thi nhân trình bày thơ cho chư tiên và thần linh.
+ Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và nói về tác phẩm:
+ Thi nhân đọc với tâm trạng vui vẻ, thoải mái, tự tin: “Đọc hết văn vần sang văn xuôi/Hết văn thuyết lý lại văn chơi”.
+ Thi nhân chi tiết về các tác phẩm của mình: “Hai quyển khối tình văn lý thuyết/ Hai khối tình còn là văn chơi/ Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết…”.
+ Giọng đọc: Đa dạng, hài hước, ngông nghênh và tự tin.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân nhận thức rõ tài năng văn chương của mình và cũng là người dũng cảm thể hiện cái tôi cá nhân. Ông không ngần ngại tìm đến trời để chứng minh tài năng của mình.
- Thái độ của người nghe: Ngưỡng mộ tài năng của tác giả.
+ Thái độ của trời: Nhiệt tình khen ngợi văn chương của tác giả.
+ Thái độ của chư tiên: Xúc động, ngưỡng mộ và tán thưởng…
=> Đoạn thơ mang tính lãng mạn và thể hiện sự thoát ly cuộc đời.
- Thi nhân trò chuyện với trời:
+ Thi nhân nói về hoàn cảnh của mình => Việc thể hiện tên trong tác phẩm là cách khẳng định cái tôi cá nhân.
+ Thi nhân chia sẻ về cuộc sống: Cuộc sống khó khăn, nghèo túng, thân phận nhà văn bị coi thường. Ông không tìm thấy tri âm ở trần gian nên lên trời để thỏa mãn tâm hồn.
=> Hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc đó, với cuộc sống cơ cực và thân phận bị rẻ rúng.
=> Qua đoạn thơ, tác giả cho thấy bức tranh chân thực và cảm động về cuộc đời của mình và nhiều nhà văn khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ.
- Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân:
+ Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương => Điều này thể hiện Tản Đà lãng mạn nhưng không hoàn toàn thoát ly cuộc sống. Ông vẫn nhận thức trách nhiệm đối với cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho người dân.
+ Thi nhân khao khát gánh vác việc đời => Đây là cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
=> Trong thơ Tản Đà, cảm hứng lãng mạn và hiện thực đan xen chặt chẽ.
3. Kết bài
- Tổng kết và nêu cảm nhận chung.
Bài mẫu
I. Tổng quan
1. Tác giả
Tản Đà (1889 – 1939), tên thật là Nguyễn Khắc Hiếu, sinh ra tại vùng núi Tản sông Đà, huyện Bất Bạt, Sơn Tây (nay là Ba Vì, Hà Tây). Ông xuất thân từ một gia đình nhà nho truyền thống, bút danh lấy từ nơi ông sinh ra.
Là con của quan án sát tỉnh Ninh Bình Nguyễn Danh Kế và một nghệ sĩ tên Nhữ Thị Nghiêm, Tản Đà đam mê ca trù và am hiểu nhạc dân gian. Ông tinh thông các loại hình nghệ thuật dân tộc như xẩm, chèo và cải lương, đồng thời hiểu rõ nhạc cung đình Trung Quốc. Tản Đà là hình mẫu tiêu biểu của kiểu nhà nho tài tử trong thời kỳ giao thời, tiên phong trong việc “mang văn chương ra bán phố phường”. Tác phẩm của Tản Đà thể hiện cá tính nghệ sĩ tài hoa, tài tử.
Tản Đà viết cả thơ và văn xuôi, nổi tiếng hơn với vai trò nhà thơ. Thơ của ông có màu sắc cổ điển trong hình thức nhưng hiện đại trong nội dung, được gọi là cầu nối giữa văn học trung đại và hiện đại. Là thi sĩ tài hoa, đa tình, ông viết nhiều về tình yêu và lòng yêu nước, yêu quê hương, thể hiện tính dân tộc rõ nét.
Những tác phẩm chính của ông bao gồm Khối tình con I, II, III, Còn chơi, Thơ Tản Đà, và các tác phẩm văn xuôi như Giấc mộng lớn, Giấc mộng con I, II, Tản Đà văn tập.
2. Tác phẩm
Hầu trời nằm trong tập thơ *Còn chơi* (1921) là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách của Tản Đà. Dưới hình thức tự sự, bài thơ kể câu chuyện nhà thơ lên gặp trời để ngâm thơ. Qua đó, ông thể hiện ý thức cá nhân và thái độ đối với nghề văn, cuộc đời.
II. Phân tích
Tản Đà được coi là “người nằm vắt mình qua hai thế kỉ”, là cầu nối giữa thơ cũ và thơ mới, và là người đặt nền móng cho thơ mới. Những đánh giá này xác nhận vai trò quan trọng của Tản Đà trong văn học Việt Nam thời kỳ giao thời. Ông đại diện cho giai đoạn văn học đang chuyển mình, chuẩn bị bước vào hiện đại hoá.
Hầu trời mang nhiều nét mới mẻ, thể hiện rõ cá tính sáng tác của Tản Đà. Mạch thơ triển khai theo lôgíc câu chuyện cụ thể, khiến bài thơ hấp dẫn và thuyết phục. Nhà thơ tưởng tượng câu chuyện hầu trời, từ việc ngâm thơ làm động lòng trời đến việc được mời lên tiên giới, rồi gặp trời và chư tiên để ngâm thơ, giới thiệu về mình và tác phẩm. Nhà thơ thể hiện tâm sự của mình một cách độc đáo.
Tản Đà tự khẳng định tài năng của bản thân qua câu chuyện hầu trời. Ông mở đầu bằng giọng điệu hấp dẫn, tự nhiên và hóm hỉnh:
“Đêm qua chẳng biết có hay không,
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.”
Lý do được trời mời lên hầu rất đời thường và dễ tin: nằm buồn dậy đun nước uống, ngâm thơ, chơi trăng, làm động lòng trời. Câu chuyện về cuộc hội kiến với trời và chư tiên được kể chi tiết, tự nhiên như thật, sử dụng lối kể chuyện nôm na của dân gian.
Nhà thơ tưởng tượng tình huống gặp trời để giới thiệu về mình, tên tuổi, quê hương, nghề nghiệp, và các tác phẩm. Qua đó, ông khẳng định tài năng của mình một cách tự nhiên.
“Đương cơn đắc ý đọc đã thích
Chè trời nhấp giọng càng tốt hơi.
Văn dài, hơi tốt ran cung mây!…”
Tản Đà tự khen tài năng của mình nhưng cũng tạo cơ hội để trời và chư tiên khen ngợi. Đây là một kiểu ngông đầy đáng yêu.
Sau khi giới thiệu các tác phẩm và chia chúng thành từng loại, ông đưa ra nhận xét của trời về tài năng của mình:
“Văn thật tuyệt
Văn trần được thế chắc có ít!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!”
Tản Đà hiên ngang khẳng định cái tôi của mình, gắn liền với tên thật. Đây là thái độ ngông của người có tài và biết tự trọng, khẳng định tài năng. Trong thời đại của ông, tự giới thiệu còn là biểu hiện của sự tự hào và tự tôn dân tộc. Ông hóm hỉnh hơn khi khẳng định phong cách ngông của mình:
- “Bẩm quả có tên Nguyễn Khắc Hiếu
Đày xuống hạ giới vì tội ngông.”
Qua cuộc đối thoại tưởng tượng với trời, Tản Đà khẳng định nghĩa vụ và trách nhiệm của mình với thiên lương của nhân loại:
“Trời rằng: “Không phải là Trời đày,
Trời định sai con một việc này
Là việc “thiên lương” của nhân loại,
Cho con xuống thuật cùng đời hay.”
Nhà thơ đã tạo ra tình huống tưởng tượng để bộc lộ tâm sự và khẳng định ý nghĩa cao quý của văn chương.
Qua Hầu trời, Tản Đà mang đến không khí mới cho văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20. Dưới hình thức một bài thơ, nhà thơ khẳng định cái tôi cá nhân và quan điểm văn chương, coi viết văn là cách phục vụ thiên lương, làm cho đời đẹp hơn. Viết văn là trách nhiệm trời trao cho người nghệ sĩ.
Tản Đà sáng tạo độc đáo trong nghệ thuật bằng cách sử dụng ngôn ngữ bình dân và văn xuôi trong thơ ca. Ngôn ngữ trong Hầu trời đã có sự hòa trộn của ngôn ngữ bình dân và giọng điệu văn xuôi. Mạch cảm xúc được phát triển tự nhiên, cho phép cái tôi cá nhân bộc lộ và thể hiện. Bài thơ tạo ra một tình huống hầu trời để khẳng định tài năng và quan điểm của mình, đó là một kiểu ngông đáng yêu. Bài thơ cũng phác họa chân dung thi sĩ Tản Đà với phong cách ngông độc đáo, cái ngông của nhà nho tài tử trong thời kỳ ý thức cá nhân được coi trọng và khẳng định.