Nguyễn Đình Chiểu là một nhà thơ lớn của Việt Nam, là ngôi sao sáng trong văn chương thế kỷ XIX. Ông để lại một số truyện thơ, nổi bật nhất là Truyện Lục Vân Tiên. Qua cuộc đời Lục Vân Tiên và Kiều Nguyệt Nga, ông ca ngợi lối sống đẹp:
Trung hiếu là trọng trai thời,
Gái thời tiết hạnh là câu tu thân.
Lục Vân Tiên là mẫu người anh hùng lý tưởng trong mắt nhà thơ mù yêu nước. Ông trải qua nhiều sự kiện hào hùng và cảm động về nhân vật này. Sau khi tiêu diệt lũ cướp Phong Lai, giải thoát Kiều Nguyệt Nga, Lục Vân Tiên thể hiện lòng hào hiệp và cao thượng. Khi người đẹp lo lắng về việc trả ơn, Lục Vân Tiên chỉ cười và điềm tĩnh đáp:
Nhớ câu thấy việc chẳng làm,
Làm người như thế chẳng xứng anh hùng.
'Kiến ngãi bất vi' có nghĩa là thấy việc nghĩa mà không làm, còn 'phi anh hùng' là không xứng đáng với danh nghĩa anh hùng. Hai câu thơ nêu lên quan điểm về một lẽ sống cao đẹp: Ai thấy việc nghĩa mà không làm là không xứng đáng được coi là anh hùng, thậm chí là người thường. Quan điểm này đề cao tinh thần nghĩa hiệp, hướng đến nhân nghĩa và trách nhiệm cao cả của con người.
Tại sao thấy việc nghĩa mà không làm lại không xứng đáng được coi là anh hùng? Việc nghĩa là thể hiện lòng nhân nghĩa, yêu thương, bảo vệ người bị áp bức, người yếu thế. Đó là tinh thần quyết tâm chống lại cái ác để bảo vệ hạnh phúc và sự sống của nhân dân. Người anh hùng cần sẵn sàng hi sinh vì nghĩa, coi việc nghĩa là mục tiêu sống cao đẹp của mình, dùng tài năng và dũng cảm để tỏa sáng công lý trong lòng người. Những ai thờ ơ trước việc nghĩa, không quan tâm đến đau khổ của đồng loại, không đáng được coi là anh hùng, thậm chí là kẻ tầm thường giả nhân giả nghĩa. Anh hùng phải luôn gắn bó với nhân dân, cùng chia sẻ nỗi đau, niềm vui và hy vọng của họ. Anh hùng cần bảo vệ và cống hiến vì hạnh phúc của nhân dân, mới xứng đáng với danh xưng đó.
Hai câu thơ 'Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy cũng phi anh hùng' thể hiện quan điểm đúng đắn và tích cực về nhân nghĩa. Nhân nghĩa là nội dung cốt lõi của đạo lý nhân dân. Người có nhân nghĩa được nhân dân yêu mến, kính trọng. Anh hùng phải sống và đấu tranh vì lợi ích của nhân dân, dùng tài năng bảo vệ họ, đó chính là người có nhân nghĩa thực sự.
Những kẻ tàn ác, bất nhân thì bất nghĩa. Để đối mặt với bạo ngược và cường quyền, cần có lòng dũng cảm và quyết tâm như sắt đá. Người anh hùng phải xả thân vì nghĩa, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. Có phẩm chất như vậy mới xứng đáng với danh hiệu anh hùng. Quan niệm về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu trong Truyện Lục Vân Tiên mang tính nhân dân sâu sắc, ca ngợi tráng sĩ xả thân vì nghĩa.
Người anh hùng không màng danh lợi, trọng nghĩa khinh tài, coi trọng lời thề thủy chung, tình huynh đệ, tình sư phụ, tình đồng loại. Những giá trị này là nghĩa nặng nghìn non, không thể lay chuyển. Quan niệm anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu rất cao cả, thể hiện qua sự kết hợp giữa nhân nghĩa với trung hiếu, tiết hạnh.
Trong xã hội đầy rẫy bất công, Nguyễn Đình Chiểu đã đề cao nhân nghĩa, chứng tỏ tâm hồn sáng như sao Bắc Đẩu. Câu nói của ông bắt nguồn từ câu nói bất hủ của người xưa: “Kiến ngãi bất vi vô dũng giã” - Thấy việc nghĩa mà không làm thì không phải dũng cảm. Người dũng cảm dám đối mặt với nguy hiểm, coi thường cái chết, cứu nguy phò đời.
Nhân dân ta coi trọng quan niệm anh hùng sâu sắc. Trang nam nhi cần vẫy vùng bốn phương, đạt tầm vóc của người anh hùng. Mỗi thời đại có một lý tưởng anh hùng riêng. Trong lịch sử 4000 năm bảo vệ đất nước, đã có nhiều anh hùng sáng chói trong sử sách. Với Trần Quốc Tuấn, chỉ căm tức chưa xả thịt, lột da, nuốt gan, uống máu quân thù. Với Nguyễn Trãi, người anh hùng phải có nhân nghĩa, tài năng và dũng lược.
Loại bỏ độc ác, tham lam, bạo tàn,
Phải có nhân, có trí, có anh hùng.
Nguyễn Công Trứ là một nhà nho uyên bác, xuất sắc cả văn lẫn võ, sống trong nửa đầu thế kỉ XIX. Ông có nhiều thành công trong công danh: 'Khi làm Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đòng...' và sáng tác nhiều bài thơ về chí nam nhi, chí anh hùng với giọng điệu hào hùng, đầy khí thế:
Đã mang tiếng trong trời đất,
Phải để lại danh tiếng cho núi sông.
Đôi lúc mây đen kéo đến cuốn theo sóng vỗ,
Quyết cầm lái đối diện bão tố.
Có chí muốn đào sông lấp núi,
Trở thành đấng anh hùng giữa bầu trời cao.
Quan niệm về anh hùng và lý tưởng anh hùng của các bậc tiền nhân đều mang đậm dấu ấn thời đại và lịch sử. Tổ tiên ta đã nêu cao tinh thần anh hùng, dám hiên ngang xả thân vì nước vì dân, lấy nhân nghĩa làm đầu. Đó là tài sản quý báu của dân tộc, đáng tự hào.
Trong nửa thế kỉ qua, nhân dân ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến vĩ đại, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Biết bao anh hùng đã xuất hiện, đúng là 'ra ngõ gặp anh hùng'. Những người lính bảo vệ Tổ quốc thì 'Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh bại!'. Ngày xưa 'Giặc đến nhà, phụ nữ cũng đánh', ngày nay người phụ nữ Việt Nam mang tầm vóc mới: 'Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang'.
Qua nhân vật Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu đã ca ngợi lý tưởng anh hùng sống vì nhân nghĩa cao đẹp:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Hình ảnh Lục Vân Tiên trong lòng người Việt bao thế hệ mang vẻ đẹp ngưỡng mộ:
Vân Tiên đội mũ kim khôi,
Tay cầm kiếm bạc, cưỡi ngựa ô.
Nguyễn Đình Chiểu đã dùng thơ văn làm vũ khí để bảo vệ đạo đức, đạo lý, góp phần chống giặc vì nước vì dân:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm,
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Quan niệm về anh hùng của Nguyễn Đình Chiểu luôn gắn liền với đạo lý làm người, hướng về nhân dân. Đó là bài học sâu sắc mà chúng ta tiếp thu. Trong thời đại mới 'công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước', chúng ta cần khơi dậy trí tuệ Việt Nam để tạo động lực mới cho sức mạnh Việt Nam, tinh thần anh hùng Việt Nam.