Trong câu chuyện, khi nào cậu bé và chị gái chơi tam cúc? Vì sao họ lại chọn thời gian đó để chơi? Có những quân bài nào trong bộ bài tam cúc? Có những cách đánh nào được đề cập trong câu chuyện? Người chiến thắng được thưởng gì? Câu chuyện giới thiệu điều gì? Trong câu “Con tượng vàng béo múp”, có bao nhiêu tính từ? Tìm các từ láy trong đoạn văn. Phân loại từ láy theo hai nhóm từ láy đã học. Kết nối câu ở cột bên phải với kiểu câu ở cột bên trái.
Đề bài
Phần I. Trắc nghiệm
Đọc:
Tâm trạng khi chơi tam cúc
Sau khi mọi công việc đã xong, một ngày sau Tết, không khí vui vẻ của gia đình vẫn còn đọng lại. Dưới ánh đèn ấm áp, trên chiếc giường còn thơm mùi lúa mới, trong không gian đầy nhang thơm, chị tôi mở bộ bài tam cúc mới ra và nói: Đến rồi...
Luôn luôn như vậy, chị ngồi trên một góc giường, tôi ngồi bên cạnh để hít thở hương thơm từ chị, mùi của mùi già, mùi của lá, và mùi của xà phòng từ chiếc áo trắng mà chị chỉ mặc trong ba ngày Tết... và những hương vị mà tôi không thể nào hiểu được, chỉ biết từ đôi vai tròn của chị, từ đôi môi tươi như hoa...
Bộ bài tam cúc mang đầy màu sắc. Mỗi con đều có hình dạng riêng, từ con tượng vàng béo múp đến con pháo cong cong. Mỗi lần ăn 'kết', chị lại ôm tôi và cười, khiến không khí thêm vui vẻ. Có lúc 'cả làng' cười vang vì bà tướng bị ... té re..., khiến không gian Tết càng trở nên ấm áp, dù bên ngoài trời tối đen như mực, chỉ có tiếng guốc ai về muộn vẫn vang lên đôi khi.
Tiền đánh tam cúc chỉ là mấy que tăm hoặc mấy que diêm, thậm chí là mấy cùi cau khô long hạt, nhưng mọi người vẫn hứng thú không kém.
Càng chơi, má chị tôi càng phai hồng. Có lẽ là do không khí ấm áp của giường, ánh đèn, khói nhang, tiếng cười, mùa xuân, và ánh mắt ai đó lén nhìn... khiến chị xao xuyến...
Tết đã qua đi, giường đã được dọn dẹp. Chị cho tôi bộ bài mới. Chúng tôi trẻ con lại cùng chơi tam cúc, dù mỗi ngày bộ bài lại thiếu mất vài cây, chúng tôi chơi không theo quy tắc, không biết ai thắng, ai thua, nhưng vẫn vui, dù không bằng Tết có chị bên cạnh.
Tôi đã mong chờ Tết năm sau không biết bao nhiêu, chờ đợi chị tôi đến tối mùng một, mở bộ bài mới mà không biết chị mua từ khi nào, và nói: Đến rồi...
(Theo Băng Sơn)
Đánh dấu vào chữ cái trước câu trả lời đúng
Câu 1: Trong câu truyện, cậu bé và chị gái đã chơi tam cúc vào thời điểm nào?
A. Vào ngày thứ ba mươi của năm mới
B. Vào buổi sáng của ngày mùng một Tết
C. Vào buổi tối của ngày mùng một Tết
D. Vào ngày mùng hai của năm mới
Câu 2: Vì sao họ chọn thời gian đó để chơi?
A. Bởi vì đó là thời gian phù hợp để thư giãn
B. Bởi vì lúc đó mọi công việc bận rộn của ngày Tết đã hoàn thành
C. Bởi vì lúc đó họ có tiền mừng tuổi
D. Bởi vì lúc đó cả gia đình đều có mặt
Câu 3: Có những quân bài nào trong bộ bài tam cúc?
A. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con tướng ông – con pháo
B. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con pháo – con xe
C. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con tướng ông – con tướng bà
D. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con tướng bà – con pháo
Câu 4: Có những cách đánh nào được đề cập trong câu chuyện?
A. Gọi một – gọi đôi – tứ tử trình làng – ăn kết
B. Gọi đôi – gọi ba – ăn kết – kết ba
C. Gọi ba – tứ tử trình làng – kết ba
D. Gọi một – gọi đôi – kết ba
Câu 5: Người chiến thắng được thưởng gì?
A. Tiền mặt
B. Lá bài của đối thủ
C. Tiền từ các vật nhỏ như que tăm, que diêm, hoặc mấy cùi cau khô,...
D. Có quyền yêu cầu người khác thực hiện một việc cho mình
Câu 6: Câu chuyện giới thiệu về điều gì?
A. Về trò chơi đánh tam cúc
B. Về trò chơi dân gian đánh tam cúc ở vùng nông thôn Việt Nam
C. Về những ngày Tết của gia đình tác giả
D. Về những kỷ niệm tuổi thơ của tác giả với trò chơi đánh tam cúc
Câu 7: Trong câu “Con tượng vàng béo múp” có bao nhiêu tính từ?
A. Một tính từ
B. Hai tính từ
C. Ba tính từ
D. Bốn tính từ
Phần II. Phần tự luận
Câu 1: Nghe – viết:
Nói ngược
Khi nào thì đến tháng ba
Ếch bị cắn cổ, rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm để lợn liếm lông
Mười trái hồng nuốt lão tám mươi.
Xôi nắm nuốt trẻ lên mười,
Gà, uống rượu nuốt người lao đao.
Lươn nằm để trúm bò vào,
Một bầy cào cào đuổi bắt cá rô.
Thóc giống cắn chuột trong lúa,
Một trăm cánh mạ đổ về con trâu.
Chim chích cắn cổ diều hâu,
Gà con thả quạ không biết đi đâu.
Dân ca
Câu 2: Đoạn văn sau đây:
Đêm về khuya gió lặng. Sương trắng phủ kín bờ sông. Các bầy cá nhảy lên bắt sương 'tom tóp', ban đầu chỉ thấy nhỏ nhắn nhưng dần dần tiếng động toẵng nhanh chóng lan ra xung quanh thuyền con.
a. Tìm các từ láy trong đoạn văn
b. Phân loại từ láy tìm được thành hai nhóm đã học
Giải đáp
HƯỚNG DẪN GIẢI CHI TIẾT
Phần I. Bài tập tự luận
Câu 1: Trong câu chuyện, cậu bé và chị gái đánh tam cúc vào thời gian nào? A. Vào ngày ba mươi Tết B. Vào sáng mùng một Tết C. Vào tối mùng một Tết D. Vào ngày mùng hai tết |
Phương pháp:
Em đọc kỹ đoạn đầu để lựa chọn câu trả lời đúng:
“Đó là thời điểm mọi công việc đã hoàn tất. Một ngày Tết đã trôi qua. Bánh chưng, chè kho, bàn cỗ, quần áo, việc đi chúc Tết,… tất cả đã được hoàn thành một cách vui vẻ. Bây giờ, dưới ánh đèn ấm áp, trên chiếc giường còn thơm mùi lúa mới, trong hương nhang thơm ngát,… chị tôi mới mở cỗ tam cúc và nói: Này…”
Hướng dẫn:
Trong truyện, cậu bé và chị gái đánh tam cúc vào đêm trước Tết.
Chọn C.
Câu 2: Tại sao họ lại chọn vào thời gian đó để chơi? A. Vì lúc đó là thời gian dành để chơi B. Vì lúc đó mọi công việc bề bộn của ngày Tết đã xong C. Vì lúc đó họ mới có tiền mừng tuổi D. Vì lúc đó cả gia đình mới đông đủ |
Phương pháp:
Hãy suy nghĩ và chọn câu trả lời đúng.
Hướng dẫn:
Họ chọn thời điểm đó để chơi vì vào lúc đó mọi công việc bận rộn của ngày Tết đã được hoàn thành.
Chọn B.
Câu 3: Có những quân bài nào được kể đến trong cỗ bài tam cúc? A. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con tướng ông – con pháo B. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con pháo – con xe C. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con tướng ông – con tướng bà D. Con tượng vàng – con mã điều – con tốt đỏ - con tướng bà – con pháo |
Phương pháp:
Hãy đọc kỹ đoạn sau để lựa chọn câu trả lời đúng:
“Con tượng vàng to béo. Con mã điều có vẻ giống con dê. Con tốt đỏ đi trên đường, đầu đội nón che, tay cầm giáo. Con pháo cong cong. Con xe có hình hộp…”
Hướng dẫn:
Những quân bài được nhắc đến trong cỗ bài tam cúc là: con tượng vàng, con mã điều, con tốt đỏ, con pháo, con xe
Chọn B.
Câu 4: Có những cách đánh nào được kể đến trong câu chuyện? A. Gọi một – gọi đôi – tứ tử trình làng – ăn kết B. Gọi đôi – gọi ba – ăn kết – kết ba C. Gọi ba – tứ tử trình làng – kết ba D. Gọi một – gọi đôi – kết ba |
Phương pháp:
Hãy đọc kỹ đoạn văn sau để lựa chọn câu trả lời đúng:
“Tiếng gọi một, gọi đôi, lúc tứ tử trình làng…Mỗi lúc được ăn “kết”, chị lại ôm choàng tôi và cười, không khí lại càng thêm vui vẻ. Lại có lúc “cả làng” cười phá lên vì tướng bà bị … té re… làm cho ba gian nhà như mở hội, và hương vị Tết càng nồng ấm, đúng là vui như Tết, mặc cho ngoài trời tối đen như mực, thỉnh thoảng vang lên tiếng guốc ai về muộn.”
Hướng dẫn:
Những cách đánh được đề cập trong câu chuyện là: gọi một, gọi đôi, tứ tử trình làng, ăn kết
Chọn A.
Câu 5: Người thắng cuộc được thưởng gì? A. Tiền bạc B. Búng tai người khác C. Tiền làm từ que tăm, que diêm, mấy cùi cau khô,… D. Có quyền chỉ định người khác làm một việc cho mình |
Phương pháp:
Hãy đọc kỹ câu văn sau để lựa chọn câu trả lời đúng:
“Tiền đánh tam cúc chỉ là vài que tăm hoặc vài que diêm, có khi là vài cùi cau khô long hạt, nhưng mọi người vẫn rất hứng thú.”
Lời giải chi tiết:
Người chiến thắng sẽ nhận được tiền thưởng là các loại que tăm, que diêm, một số cùi cau khô,…
Chọn C.
Câu 6: Câu chuyện giới thiệu cho em biết điều gì? A. Trò chơi đánh tam cúc B. Trò chơi dân gian đánh tam cúc ở nông thôn Việt Nam C. Những ngày Tết của gia đình tác giả D. Những kỉ niệm thưở ấu thơ về trò chơi đánh tam cúc của tác giả |
Phương pháp:
Hãy suy nghĩ và chọn câu trả lời đúng.
Cách giải:
Câu truyện giới thiệu về những kỷ niệm tuổi thơ về trò chơi đánh tam cúc của tác giả
Chọn D.
Câu 7: Trong câu “Con tượng vàng béo múp” có mấy tính từ? A. Một tính từ B. Hai tính từ C. Ba tính từ D. Bốn tính từ |
Phương pháp:
Hãy đọc kỹ câu văn và tìm các tính từ có trong đó.
Cách giải:
Những tính từ trong câu là: vàng, béo múp
Chọn B.
Phần II. Bài viết tự luận
Câu 1: Nghe – viết: Nói ngược Bao giờ cho đến tháng ba Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng Hùm nằm cho lợn liếm lông Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi. Nắm xôi nuốt trẻ lên mười, Con gà, nậm rượu nuốt người lao đao. Lươn nằm cho trúm bò vào, Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Thóc giống cắn chuột trong bồ, Một trăm lá mạ đổ vồ con trâu. Chim chích cắn cổ diều hâu, Gà con tha quạ biết đâu mà tìm. Vè dân gian |
Phương pháp:
Hãy viết đoạn thơ vào tờ giấy kiểm tra
Phương pháp:
Hãy tự chủ động hoàn thành bài chính tả của bạn.
Lưu ý:
- Viết đúng chính tả
- Trình bày gọn gàng, sạch sẽ
Câu 2: Cho đoạn văn sau: Đêm về khuya lặng gió. Sương phủ trắng mặt sông. Những bầy cá nhao lên đớp sương “tom tóp”, lúc đầu còn loáng thoáng dần dần tiếng tũng toẵng xôn xao quanh mạn thuyền. a. Tìm những từ láy có trong đoạn văn b. Phân loại các từ láy tìm được theo hai nhóm từ láy đã học - Láy bộ phận - Láy toàn bộ |
Phương pháp:
a. Hãy đọc kỹ đoạn văn và xác định các từ láy có trong đoạn văn đó
b. Hãy phân loại các từ láy đó sao cho phù hợp
Cách giải:
a. Các từ láy có trong bài là: tom tóp, loáng thoáng, dần dần, tũng toẵng, xôn xao
b.
- Thu thập bộ phận: tom tóp, loáng thoáng, tũng toẵng, xôn xao
- Thu thập toàn bộ: dần dần
Câu 3: Nối câu ở cột bên phải với loại câu ở cột bên trái:
Phương pháp:
Hãy đọc kỹ các đoạn văn và nối chúng vào loại câu thích hợp.
Cách giải:
Câu 4: Em hãy viết một bài văn tả vườn rau nhà em. |
Phương pháp:
Hãy sử dụng dàn ý sau để hoàn thiện bài văn của bạn.
Mở bài: Giới thiệu về vườn rau và miêu tả nó
- Ai chịu trách nhiệm trồng vườn rau?
- Nơi đặt vườn?
Phần chính:
a. Tả tổng quan:
- Địa điểm
- Diện tích của khu vườn
b. Tả chi tiết:
- Lối vào khu vườn
- Cách sắp xếp và phân chia các khu vực trồng rau
- Đặc điểm đặc sắc của từng loại rau
- Sự quản lý vườn rau của con người
Kết thúc: Cảm nhận của tôi về vườn rau
Cách giải:
Tài liệu tham khảo 1:
… Phía sau nhà có một khu vườn rau. Đó là một miếng đất nằm gần bờ ao, được bao bọc kín để tránh sự phá hủy từ những con gà vịt tinh nghịch. Cửa ra vào là một lối nhỏ chỉ đủ cho một người đi vào để tưới nước.
Bốn luống cải sắp xếp gọn gàng, phủ một màu xanh tươi sặc sỡ trên nền đất vàng ươm. Có những luống cải mới mạnh mẽ, với những tàu lá nhỏ xinh bén, những mảnh lá xanh rơm nhọn nhẹt, gợn sóng xung quanh. Cải này được trồng để dùng trong ngày Tết Nguyên đán. Cũng có những luống cải cao vút, với những tàu lá cải đã bắt đầu cao lên trên, lá rơi mạnh xuống đất. Ở giữa mảnh vườn rộng lớn, những cây cải cao vút tựa như những người lớn mạnh mẽ và hoành tráng. Ở đầu cây, những đóa hoa nhỏ bé nở ra, tạo ra những bông hoa vàng lấp lánh. Đó là những luống cải dùng để làm dưa. Chúng đã già mà vẫn rực rỡ với những bông hoa vàng rực. Có vô số con bướm trắng từ đâu kia bay tới, tạo thành một đoàn đội, lượn lờ trên các cành lá. Chúng bay liên tục mà không ngừng. Những bông hoa màu vàng tỏa sáng trên nền xanh mướt, kèm theo là những giọt mưa rơi sớm. Mưa không rơi thật, nhưng là cảm giác trời đổ ra những hạt bụi mưa. Trước làn gió nhẹ, những hạt bụi mờ trắng bay lượn, tạo ra một cảm giác lạ lùng.
Tham Khảo 2:
Sau nhà tôi là một khu vườn nhỏ, luôn xanh tươi mà má tôi đã chăm sóc công phu. Vườn rau này luôn xanh tươi quanh năm, không phụ thuộc vào mùa nào.
Đó là một phần đất hẹp dài, được bao quanh bởi hàng rào gỗ vàng, chỉ còn lại một lối đi để đi lại. Rào tre với những mảnh lá xanh mướt bao phủ, trên đó, những dây lá mồng tơi uốn cong mềm mại. Ở cuối vườn, bên cạnh bờ ao, có cửa tre nối với cầu ao. Vườn được chia thành bốn ô, mỗi ô có nhiều luống nhỏ. Giữa các ô là lối đi.
Trong vườn này, mọi loại rau đều đang non tươi. Từ xa, những luống cải vươn cao với những tàu lá xanh tròn trịa, bẹ trắng to. Bên cạnh đó là cải bắp, lá dày đặn, có gân lá ôm chặt nhau, cuộn tròn lại như những quả banh nhỏ đang dần lớn lên. Các quả banh này mọc đều, trông thật thú vị! Tiếp theo là các luống hành. Mỗi cây hành to như một cành đa, màu xanh tươi, đâm thẳng lên trời.
Trong vườn, má em trồng đủ loại rau quả để làm gia vị: có khoảng năm bảy cây gừng, lá xanh um, và ba bốn cây ớt chín đỏ nặng trĩu trên cành. Còn có cả ngò gai, rau quế, rau tần, cần tàu, và cần nước, mỗi loại đều có hình dạng riêng biệt nhưng đều tươi tốt và xanh non.
Tham Khảo 3:
Mỗi ngày sau khi đi học về, em lại chạy ra vườn rau của bà phía sau nhà. Đó là nơi mà em yêu thích nhất trong ngôi nhà nhỏ của mình.
Vườn rau không quá rộng, chỉ khoảng 10m vuông, được bà rào quanh bằng gậy tre để tránh bị lũ gà, vịt hoặc chú Lích nhà em xâm phạm. Luống rau được chia thành nhiều vồng nhỏ song song với chiều rộng của luống. Mỗi vồng cách nhau khoảng một gang tay em, tạo ra lối đi để chăm sóc hoặc thu hoạch rau. Trên mỗi vồng, cây cải cao khoảng hai mươi xen-ti-mét. Các cây cải xanh tươi rói dưới ánh sáng ban mai và sương mỏng. Các lá dưới cùng to bản và hình bầu dục, giống như những chiếc dép xanh nằm trải dài quanh gốc. Những lá trên cùng ngắn hơn và úp vào nhau như muốn che chắn nắng gió. Trên một số cây cải, những bông hoa vàng rực nở rộ, rung rinh trước làn gió, trông thật là đẹp.
Mỗi sáng, khi thức dậy, em cùng bà mang xô nước ra sau vườn để tưới cho từng vồng rau. Những chiếc lá rau nhẹ nhàng rung động, như muốn bày tỏ lòng biết ơn của chúng đối với em và bà.
Nhờ khu vườn nhỏ này, cả gia đình luôn có đĩa rau xanh tươi trên bàn ăn. Đó là kết quả của sự chăm sóc của em và bà. Em rất yêu khu vườn nhỏ, nơi tràn đầy sức sống của nhà mình.