Bò Hà Lan (tên gốc: Bò Holstein Friz, đọc là bò Hôn–xtên hoặc Holstein Friezian, viết tắt HF) là giống bò sữa có nguồn gốc từ Hà Lan cách đây gần 2.000 năm. Xuất phát từ giống bò đen trắng của Batavian và Friezians, qua quá trình phối giống và loại bỏ đã tạo ra giống bò sữa với năng suất cao nhất, phù hợp với điều kiện đất đai của đồng bằng sông Rhine. Sau quá trình di truyền, giống bò sữa này đã trở thành Holstein Friezian, là loại bò sữa chủ lực ở nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam, và cũng là biểu tượng nổi bật của giống bò sữa. Sữa Dutch Lady trên toàn cầu được lấy từ giống bò sữa này.
Đặc điểm
Bò Hà Lan chủ yếu có màu lông trắng đen, nhưng cũng có một số cá thể màu trắng đỏ. Bò cái có vóc dáng chắc chắn, gần hình thang, với thân hình lớn, vú phát triển, hiền lành và có khả năng sản xuất sữa vượt trội. Bò sữa Hà Lan thường sản xuất sữa nhiều hơn so với các giống bò sữa khác, trung bình đạt 50 lít/ngày, với tổng sản lượng từ 10.000 đến 15.000 lít trong chu kỳ 300 ngày. Ở các nước nhiệt đới như Việt Nam, chúng có thể sản xuất khoảng 15 lít/ngày và tổng sản lượng 3.600 – 4.000 lít sữa trong chu kỳ.
Bò đực có hình dáng chữ nhật, sừng nhỏ và yếm nhỏ. Bò Hà Lan Mỹ có kích thước lớn nhất, với trọng lượng bò đực đạt khoảng 600 kg và bò cái khoảng 550 kg. Bò có thể bắt đầu phối giống từ 15-18 tháng tuổi. Năng suất sữa trong 305 ngày của bò Hà Lan Mỹ là 12.000 kg với 3,66% mỡ, bò Cuba đạt 3.800-4.200 kg với 3,4% mỡ, và bò Úc khoảng 5.000 kg sữa. Đây là giống bò có khả năng thích nghi tốt với nhiều điều kiện khí hậu khác nhau trên thế giới, mặc dù có nguồn gốc từ vùng ôn đới nhưng đã được lai tạo để nuôi được ở các khu vực nhiệt đới.
Lai giống
Nhiều quốc gia ở khu vực nóng đã nhập bò Hà Lan để lai tạo với giống bò địa phương hoặc duy trì giống thuần nhằm tăng cường sản lượng sữa. Tuy nhiên, việc chuyển giống bò sữa ôn đới như HF vào môi trường nóng thường dẫn đến hiệu quả thấp hơn. Bò HF, giống như các gia súc khác, cần thời gian để thích nghi với điều kiện mới. Việc chuyển đổi đột ngột có thể gây căng thẳng lớn và làm giảm khả năng đề kháng bệnh tật, khiến bò dễ bị ốm.
Hơn nữa, trong điều kiện ẩm ướt, các loại côn trùng như ruồi, muỗi, ve gây hại không chỉ làm giảm sức khỏe của bò mà còn là trung gian truyền bệnh ký sinh trùng nguy hiểm. Ở những khu vực có cỏ cắt từ đồng trũng hoặc ven kênh, cỏ có thể chứa mầm bệnh như sán lá gan và ký sinh trùng đường ruột. Thêm vào đó, nhiều chủ trại thiếu kinh nghiệm trong việc chăm sóc bò sữa Hà Lan cao sản, không biết cách phát hiện bò lên giống hay viêm vú, và không nhận ra dấu hiệu căng thẳng nhiệt, làm tình trạng căng thẳng của bò HF thêm trầm trọng.
Thông thường, nhiều quốc gia sử dụng lai giống giữa bò HF và bò địa phương để tạo ra các thế hệ lai với tỷ lệ máu bò HF cao hoặc giữ giống thuần HF. Một số tổ hợp lai giống nổi bật của bò Hà Lan trên thế giới bao gồm:
- Giống AFS: Tạo ra từ bò đực Sahiwal và bò cái Friesian, bằng cách lai giữa bò cái Friesian và bò đực Sahiwal. Bò lai F1 được phối giống để tạo ra đàn hạt nhân AFS với tỷ lệ 50% máu Friesian và 50% máu Sahiwal. Đàn này dùng để cung cấp bò đực cho kiểm tra đời con và bò cái cho sản xuất sữa. Chỉ những con cái có năng suất sữa tốt và kháng ve mới được giữ lại. Bò AFS có thể đạt năng suất từ 2400 – 3500 kg khi nuôi ở Queensland, và cao nhất là 5500 kg mỗi chu kỳ.
- Giống bò Kamaduk ở Ấn Độ có 1/4 máu Brown Swiss, 1/4 máu Friesian, 1/4 máu Jersey và 1/4 máu bò địa phương.
- Tại Sri Lanka, bò đực HF và Jersey được lai với bò cái địa phương đã được lai Sindi và Sahiwal, nhưng chưa xác định được mức độ lai máu tối ưu, năng suất sữa của đàn F2 (3/4 HF) thấp hơn so với F1.
- Tại Jamaica, bò đực Sahiwal được lai với bò cái châu Âu (Jersey, Friesian), và năm 1952 đã tạo ra giống Jamaica Hope với 75% máu Jersey, 20% máu Sahiwal và 5% Friesian, đạt năng suất khoảng 2700 kg mỗi chu kỳ.
- Bò đực HF lai với bò cái nền bò lai Sind tạo ra con lai đời 1 với 1/2 máu HF, gọi là F1 HF. Những con lai F1 HF này có năng suất sữa từ 2500–3000 kg mỗi chu kỳ 300 ngày, sinh sản tốt, thích nghi với nhiều vùng khí hậu nóng ẩm và dễ nuôi. Tiếp tục lai tinh đực Hà Lan với cái F1 HF để tạo ra con lai có 3/4 máu HF gọi là bò lai F2 HF. Đàn cái lai 3 máu sản xuất sữa (bò Vàng Việt Nam, bò Red Sindhi và bò Holstein Friesian) được nuôi rộng rãi ở các vùng nóng của Việt Nam. Hiện tại, Việt Nam đang tăng đàn bò sữa thông qua các phương pháp như tăng đàn tự nhiên, lai tạo với bò HF và nhập bò HF thuần.
Chăn nuôi
Tại Úc, bò Hà Lan thường được nuôi theo cách thả rông trên những đồng cỏ rộng lớn như thảo nguyên. Các trang trại cho phép bò tự do chọn lựa thức ăn từ các loại cỏ chất lượng. Trong mùa khô, khi cỏ tự nhiên thiếu hụt, chúng được bổ sung cỏ khô và cỏ ủ dự trữ chất lượng cao. Khí hậu Úc ôn hòa với nhiệt độ trung bình cao nhất khoảng 25˚C vào tháng 12 và tháng 1, và dưới 15˚C vào tháng 6-7, độ ẩm trung bình khoảng 60%. Lượng mưa trung bình là 1185mm, thấp nhất vào tháng 6-9. Nhiều trang trại nuôi hàng ngàn con bò sữa chỉ trong các khu vực rào quây, không cần chuồng trại. Bò ăn ngủ trên đồng cỏ và chỉ vào chuồng khi cần vắt sữa. Đây là một phương pháp chăn nuôi truyền thống ở Úc.
Tại một số nước nhiệt đới, người ta khuyến cáo không nên chọn bò Hà Lan thuần vì chúng có xu hướng khó thích nghi với điều kiện nóng ẩm và thiếu thốn thức ăn. Bò sữa Hà Lan thuần hoặc bò lai có tỷ lệ máu Hà Lan cao (như bò F3, F4-7/8 và 15/16 máu Hà Lan) thường có sức chịu đựng kém hơn khi nhiệt độ vượt 34˚C, dễ bị thở dốc, xù lông và giảm năng suất sữa. Tỷ lệ nhiễm bệnh, đặc biệt là bệnh ký sinh trùng đường máu và tụ huyết trùng, cũng gia tăng. Tại Việt Nam, bò Hà Lan thuần thường phù hợp hơn ở những vùng mát mẻ như Mộc Châu - Sơn La và Đức Trọng - Lâm Đồng với nhiệt độ bình quân hàng năm khoảng 21˚C.
Nhiệt độ môi trường lý tưởng cho bò sữa là từ âm 4˚C đến 22˚C. Nhiệt độ tối đa mà bò HF có thể chịu đựng là 27˚C. Khi thời tiết nóng, bò Hà Lan thường giảm ăn 10-15%, do đó cần cung cấp thức ăn chất lượng cao để đảm bảo đủ dinh dưỡng. Khẩu phần ăn cần có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn 10-15% so với bình thường. Ngoài ra, cần cung cấp nước sạch, mát để bò uống suốt cả ngày đêm, vì bò Hà Lan chưa thích nghi tốt với môi trường nóng và có nhu cầu nước cao hơn so với bò đã thích nghi.
Bệnh tật
Bò Hà Lan có thể mắc phải nhiều bệnh phổ biến, ví dụ như
Bệnh chướng hơi dạ cỏ có biểu hiện là hõm hông bên trái của bò phồng lên và căng cứng; khi ấn hoặc gõ thấy như quả bóng bị bơm căng; bò có thể bỏ ăn, không nhai lại, miệng chảy dãi, đứng nằm không yên. Có nhiều phương pháp điều trị nhằm mục đích thoát hơi và giảm sự lên men trong dạ cỏ, tùy vào từng trường hợp cụ thể. Có thể sử dụng ống thông để thoát hơi qua thực quản, dùng tay moi phân hoặc bơm nước vào trực tràng để đẩy phân ra ngoài. Dùng nước dưa chua (3-5 lít), bia hơi (3-5 lít), hoặc dung dịch thuốc tím 0,1% (3-5 lít) để kích thích nhu động dạ cỏ. Cung cấp magnesi sulfat 200g pha với 3 lít nước để tăng nhu động và đẩy thức ăn ra ngoài. Trong trường hợp chướng hơi cấp tính, có thể dùng ống Troca để chọc thủng dạ cỏ để thoát hơi.
Bệnh cảm nắng: Nhiệt độ cơ thể cao từ 41-42˚C, da khô và niêm mạc mắt xung huyết (đỏ), nhịp tim và nhịp thở tăng. Con bò có thể co giật. Đưa bò vào nơi râm mát, thụt nước lạnh vào trực tràng và tháo ra liên tục. Xịt nước mát lên thân bò và quạt nhẹ. Nếu bò co giật, khó thở và biểu hiện điên loạn, cần phải trích máu tĩnh mạch để tránh xung huyết mô và phù phổi. Truyền dung dịch Nat-ri bicarbonat (NaHCO3) 500ml, cho uống nước hòa lẫn Nat-ri bicarbonat vào mùa nóng. Cho uống 5 lít trà xanh pha đường. Bệnh cảm nóng: Bò ủ rũ, bỏ ăn, sốt cao từ 40-42˚C. Đưa bò đến nơi thoáng mát, có thể phun nước lạnh để làm mát cơ thể. Cho bò uống thuốc điện giải Orezon, dung dịch đường Glucose đẳng trương, và tiêm thuốc hạ sốt, thuốc trợ tim, trợ sức, trợ lực, truyền dung dịch NaHCO3 (500-1000ml).
Bệnh viêm bao tim do dị vật: Tĩnh mạch cổ sưng phồng (triệu chứng điển hình), cùng với hiện tượng phù thũng ở vùng ức, ngực và bụng; Nhịp tim nhanh và âm thanh không rõ ràng (như có nước bên trong và âm thanh lẫn tạp âm); Sốt nhẹ; Bò ăn kém hoặc không ăn, đứng khom lưng. Khi bò leo dốc cao, có thể thấy con vật đau ở vùng tim. Cần thực hiện phẫu thuật để lấy dị vật ra và tiêm kháng sinh: Penicilin 15.000 UI/1kgP + Streptomycin 5–10 mg/kgP liên tục trong 7 ngày để phòng ngừa nhiễm trùng.
Bệnh ký sinh trùng đường máu, ví dụ như bệnh tiên mao trùng: Bò thường bị sốt cách nhật, sốt vào sáng và chiều, hoặc sốt 1-2 ngày rồi trở lại bình thường và sau 2-6 ngày lại sốt. Do độc tố của tiên mao trùng, bò có thể có triệu chứng thần kinh như run rẩy, quay cuồng. Bò sẽ ngày càng gầy yếu, thiếu máu, giảm sản lượng sữa nếu đang cho sữa. Sử dụng thuốc Azidin để điều trị. Bệnh biên trùng do Anaplas sống ký sinh trên hồng cầu, gây ra thiếu máu và triệu chứng thần kinh, làm bò gầy yếu và niêm mạc mắt cũng như âm hộ nhợt nhạt.
Bệnh lê dạng trùng: Do Babesia và Theileria ký sinh trong hồng cầu, gây vỡ hồng cầu và hút dinh dưỡng. Biểu hiện của bệnh gồm thiếu máu (niêm mạc mắt và âm hộ tái nhợt), sốt cao liên tục 40-41,5°C, đái ra máu, và hạch lâm ba sưng phù, đặc biệt là hạch trước vai và dưới đùi. Khi điều trị, cần tiêm thêm thuốc trợ sức, hạ sốt để phòng các bệnh kế phát và chăm sóc bệnh nhân tốt.
Bệnh sán lá gan: Do sán lá hình cây ký sinh trong gan, gây viêm gan và tổn thương mô gan. Con vật gầy dần, mô mỡ và bắp thịt teo lại, niêm mạc nhợt nhạt, thiếu máu, da vàng, và phù ở vùng hầu, yếm và dưới hàm. Bò ăn kém, tiêu hóa kém và phân nát. Sán Fasciola hepatica gây gầy gò do ký sinh trong gan. Trứng và ấu trùng Fasciola hepatica có thể gây tăng sinh đáng kể ở thành ống mật.
Ở giai đoạn bê, bò Hà Lan có thể mắc một số bệnh hoặc hội chứng như
Hội chứng tiêu chảy ở bê: Bê uống nước nhiều nhưng ăn ít hoặc bỏ ăn, không nhai lại, dẫn đến chướng bụng. Nếu do vi khuẩn E. Coli, phân sẽ nhão, bắt đầu từ màu vàng nhạt sau chuyển sang trắng và có mùi hôi thối. Nếu do cầu trùng, phân sền sệt, có lẫn niêm mạc ruột và máu tươi hoặc màu nâu, mùi hôi tanh. Nếu do giun đũa, thường gặp ở bê 1-2 tháng tuổi, phân lổn nhổn hoặc sền sệt màu trắng, mùi thối và phân dính vào đuôi và hậu môn. Nếu do giun lươn, gây viêm ruột và tiêu chảy màu vàng. Bê có thể mất nước nhanh chóng, mắt trũng, da nhăn nheo và có thể chết nếu không điều trị kịp thời. Giảm hoặc ngừng cho ăn, hạn chế chất đạm và cho uống nước điện giải Orezon, đường đẳng trương. Truyền tĩnh mạch nước muối sinh lý NaCl 0,9% 1.000ml.
Bệnh giun đũa ở bê: Do giun hình đũa ký sinh trong ruột non, khiến bê đau bụng, nằm ngửa dãy dụa và đạp chân vào bụng. Con bê thường lờ đờ, đầu cúi, lưng cong, bụng to, không muốn ăn và thường nằm một chỗ. Giun hút chất dinh dưỡng và tiết ra độc tố, làm bê tiêu chảy với phân lỏng, màu xám chuyển sang trắng và mùi tanh thối. Bệnh giun phổ ở bê: Do giun nhỏ như sợi chỉ ký sinh ở phế quản và khí quản, thường gặp ở bê 3-6 tháng tuổi. Giun gây kích ứng niêm mạc khí quản, làm bê ho, khó thở, chảy nước mũi, dịch mũi lầy nhầy và có thể lẫn máu, bê lờ đờ, nhịp thở tăng và uống ít nước.
Bệnh cầu trùng ở bê: Do cầu trùng ký sinh niêm mạc đường ruột của bê, thường gặp ở bê 2-4 tháng tuổi. Cầu trùng gây tổn thương lớp vi nhung và lớp cơ bao bọc thành ruột, dẫn đến bong tróc niêm mạc và xuất huyết. Bê thường bị tiêu chảy với phân lầy nhầy và lẫn máu. Giai đoạn sau, bê có thể táo bón, cong lưng và đuôi nhưng không đi được. Cần phối hợp kháng sinh để phòng nhiễm khuẩn đường ruột và làm se niêm mạc ruột bằng các loại thuốc nam như búp chè non, búp lá ổi, quả hồng xiêm.
Bệnh viêm phế quản phổi ở bê: Bê có triệu chứng sốt cao từ 40-41˚C, mệt mỏi, ủ rũ, bỏ ăn, chảy nước mắt và nước mũi. Bê bắt đầu khó thở với tiếng thở có âm thanh ran như vò tóc hoặc lép bép. Con vật thường ho nhiều, đặc biệt vào đêm và sáng sớm. Do vi khuẩn, có thể dùng kháng sinh để điều trị và kết hợp với các thuốc bổ trợ khác như hạ sốt, trợ sức, trợ lực. Bệnh viêm rốn ở bê: Thường gặp ở bê sơ sinh 5-7 ngày tuổi, bê uống sữa kém hoặc không uống. Xung quanh vùng rốn sưng to và đau. Sát trùng bằng cồn iod theo vòng từ trong ra ngoài và dùng kháng sinh để phòng bội nhiễm.
Bệnh tụ huyết trùng: Sốt cao từ 41-42˚C, niêm mạc mắt và mũi đỏ ửng rồi chuyển sang xám tái. Con vật chảy nước mắt, nước mũi và có thể ho khan hoặc từng cơn. Bò thường khó thở và thở mạnh. Phân ban đầu thường táo nhưng sau đó chuyển sang tiêu chảy và có lẫn máu. Bò mệt mỏi, ủ rũ, nhai lại kém. Tỷ lệ tử vong cao, cần phòng tránh bằng cách tiêm phòng vacxin định kỳ. Bệnh do vi khuẩn Gram (-) gây ra, có thể dùng kháng sinh tiêm liên tục 3-5 ngày, liều lượng tương tự bệnh viêm phế quản – phổi. Cần kết hợp với thuốc hạ sốt, trợ sức, trợ lực và chăm sóc chu đáo bò bị suy nhược.
Bệnh lao bò là một bệnh truyền nhiễm mãn tính do vi khuẩn lao Mycobacterium tuberculosis gây ra. Bệnh này rất nguy hiểm, đặc biệt đối với người khi tiêu thụ sữa từ bò bị nhiễm lao. Tùy thuộc vào cơ quan bị nhiễm và mức độ nhiễm, vi khuẩn lao có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau.
Lao phổi: Vi khuẩn lao xâm nhập và sống ở cuống phổi, thanh quản hoặc khí quản, khiến bò thường xuyên ho khan, ho từng cơn và có nhiều đờm rãi, mặc dù đờm thường nằm trong miệng và bị nuốt vào. Bò thường ho vào sáng sớm và chiều tối, hoặc khi thời tiết lạnh, gầy yếu, lông xơ xác, ăn ít, nhai lại không đều và sốt nhẹ, có khi sốt có khi không. Lao ruột: Bò có triệu chứng tiêu hóa như tiêu chảy kéo dài, phân có mùi hôi khó chịu. Sau đợt tiêu chảy, bò sẽ bị táo bón và ngày càng gầy.
Lao hạch: Hạch sưng to, cứng, cảm giác lổn nhổn, kích thước gần bằng quả trứng gà, không đau và không dính vào da. Cắt hạch ra thấy có nhiều bã đậu. Các hạch thường bị lao là hạch dưới hàm, hạch hầu, hạch tuyến dưới tai, hạch trước đùi và hạch trước vai. Lao vú: Bầu vú và núm vú bị biến dạng, sờ thấy có hạt lao lổn nhổn, các hạch vú sưng to, cứng và nổi cục. Lượng sữa giảm. Có thể sử dụng kháng sinh và kết hợp với thuốc trợ sức, trợ lực. Khi phát hiện bò bị nhiễm lao, cần tiêu hủy ngay để ngăn ngừa lây nhiễm sang bò khỏe, người và các gia súc khác. Phản ứng dương tính với Tuberculin và các nốt tổn thương màu vàng trắng ở phổi, nốt tổn thương màu vàng nhạt ở gan và các nốt giống hạt chân châu trên màng phổi trong xoang ngực.
Bệnh lở mồm long móng: Bệnh lây lan nhanh chóng, gây sốt cao từ 40-41˚C, ăn ít hoặc bỏ ăn, thích uống nước. Ban đầu, miệng sưng lên, mím chặt và phát ra tiếng lép bép. Sau 2-3 ngày, xuất hiện các mụn nước ở miệng, móng, chân và vú. Con vật đi lại khó khăn, mụn nước vỡ ra để lại vết loét màu hồng, nông và dễ bị nhiễm trùng. Bệnh do virus gây ra, hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu. Vì vậy, tiêm phòng vacxin định kỳ hàng năm là biện pháp tốt nhất. Sát trùng cho gia súc bằng dung dịch xanh metylen cho các vết loét ở miệng và móng theo chiều xoắn ốc từ trong ra ngoài.
Trên thế giới
Ở Israel
Mặc dù bò Holstein thường được khuyến khích nuôi ở những khu vực có khí hậu lạnh và ôn hòa với nhiệt độ dưới 22˚C, và ở các nước nhiệt đới và cận nhiệt đới nên nuôi bò lai với tỷ lệ máu Holstein không quá 3/4, Israel đã thành công trong việc nuôi bò Holstein thuần chủng. Vào những năm 1920-1930, Israel đã nhập bò đực Friesian từ Hà Lan và Đức để cải thiện giống bò địa phương. Năm 1947, Israel tiếp tục nhập bò đực Holstein từ Canada, cùng với việc sử dụng bò đực con của chúng để thực hiện gieo tinh nhân tạo. Từ 1950 đến 1962, cả bò đực và bò cái Holstein được nhập từ Mỹ. Từ 1963, hầu hết bò cái được gieo tinh bằng tinh dịch từ bò đực Holstein sinh ra tại Israel, với những bò đực giống địa phương. Năm 1955, bắt đầu đánh giá khả năng sản xuất sữa của bò đực giống qua đời sau.
Ngày nay, dấu vết của bò địa phương đã không còn nữa. Sau 60 năm phát triển giống bò sữa trong điều kiện khí hậu nóng, Israel đã thành công trong việc tạo ra một giống bò Hà Lan thích nghi với stress nhiệt của khí hậu nóng. Hiện tại, năng suất sữa của bò Holstein ở Israel đứng đầu thế giới, đạt 10.500 kg/305 ngày (so với khoảng 7.900 kg ở Hà Lan). Một hợp tác xã Qualia gần Biển Chết, nơi nhiệt độ mùa hè lên tới 45-47˚C, đã ghi nhận một trại bò 276 con cho năng suất 11.326 kg mỗi chu kỳ (năm 1998). Israel đã xuất khẩu tinh dịch bò đực đã được đánh giá qua đời sau đến 25 quốc gia trên thế giới, chủ yếu là Tây Âu (Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp), Đông Âu (Hungary, Bulgaria, Nga), châu Phi (Nam Phi, Zambia, Kenya), và ở châu Á (Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Ấn Độ).
Việt Nam
Việt Nam bắt đầu nhập bò Hà Lan từ Cuba và tiến hành nhân giống cũng như lai tạo tại các cơ sở nghiên cứu và nông trường quốc doanh ở Ba Vì và Mộc Châu. Sau đó, một số bò thuần Hà Lan từ Mộc Châu được chuyển đến Đức Trọng. Trong thời kỳ bao cấp, số lượng và chất lượng đàn bò thuần và lai Hà Lan giảm sút. Vào những năm đầu của thời kỳ đổi mới, bò thuần HF được chuyển về các trại tư nhân, và số lượng bò lai Hà Lan tăng lên nhanh chóng. Năng suất trung bình của bò lai HF đạt khoảng 10–11 kg mỗi ngày, với nhiều con có năng suất lên đến khoảng 6000 kg mỗi chu kỳ.
Năm 2001, Việt Nam đã nhập 192 con bò giống thuần Hà Lan và bò Jersey từ Mỹ. Sau khi nuôi tân đáo tại Ba Vì, 49 con Hà Lan được chuyển về Mộc Châu, 29 con về Lâm Đồng và 21 con về Ba Vì. Sau 6 tháng, đã có 19 con chết (chiếm 10%), bò cái cho sữa trung bình 22–23 kg/ngày. Các tỉnh cũng đã nhập bò Hà Lan thuần từ Úc với mục tiêu sản xuất sữa. Trong đợt nhập khẩu đầu tiên, 778 con được đưa về, nhưng sau 3 tháng, 26 con đã chết hoặc bị loại bỏ. Đợt nhập thứ hai đưa về 714 con, với 5 con chết do viêm phổi và nhiễm trùng máu, và 13 con bị sảy thai. Đợt ba đưa về 2400 con, trong đó 1200 con từ đợt ba. Hai đợt nhập bò HF gây ra nhiều tranh luận về chất lượng con giống và các vấn đề kỹ thuật, quản lý khác.
Bò Hà Lan thuần chủng chỉ chiếm khoảng 5-6% tổng đàn và chủ yếu được nuôi tại hai cơ sở giống ở cao nguyên Mộc Châu và Lâm Đồng. Công ty giống bò sữa Mộc Châu quản lý 1800 con, trong đó có 900 con sinh sản, và đã nhập thêm 50 con từ Mỹ năm 2001. Công ty giống bò sữa Lâm Đồng có 100 con, và đã nhập thêm 30 con từ Mỹ. Đàn bò lai chiếm 94-95% tổng đàn, với hơn 1250 con bò lai HF được nuôi tại các nông hộ và cơ sở chăn nuôi của nhà nước. Năng suất bình quân của bò lai Hà Lan đạt khoảng 3300 kg mỗi chu kỳ, và bò HF thuần đạt khoảng 4100 kg mỗi chu kỳ. Sản lượng sữa thực tế của các bò lai F1, F2 và F3 lần lượt là 3671 kg, 3858 kg và 3457 kg, với F2 đạt sản lượng cao nhất và F3 thấp nhất. Khoảng cách lứa đẻ từ 440 đến 460 ngày.
Tại Thành phố Hồ Chí Minh, tinh bò đực Hà Lan được nhập từ nhiều nguồn khác nhau trên thế giới (từ 9-10 quốc gia). Nhà nước không thể quản lý hết các nguồn tinh nhập và sử dụng trên thị trường. Tinh của nhiều bò đực có chất lượng thấp về khả năng sản xuất sữa. Hơn 70% bò cái được gieo tinh mà không có ghi chép về nguồn tinh sử dụng. Tình trạng ở các địa phương khác còn tồi tệ hơn, dẫn đến đàn bò cái bị lai tạo thiếu kiểm soát, chất lượng con giống có nguy cơ giảm sút. Điều này biểu hiện qua việc bò khó nuôi, dễ mắc bệnh, đặc biệt là các bệnh về sinh sản như chậm sinh, vô sinh, và các bệnh về chân, móng và viêm vú.
Chú thích
Kết nối bên ngoài
- Biển kỷ niệm Ontario - Gia súc Holstein Friesian ở Ontario Lưu trữ ngày 2007-10-16 tại Wayback Machine
- Liên đoàn Holstein-Friesian Thế giới
- Hiệp hội Holstein Mỹ