Với bộ sưu tập 100 mẫu bài văn này, các em sẽ nắm được các dạng văn thường gặp trong đề thi, để ôn thi vào lớp 10 hiệu quả. Các đề văn xoay quanh những tác phẩm chính như Đồng chí, Kiều ở lầu Ngưng Bích, Bếp lửa, Ánh trăng.... cũng như những bài văn nghị luận xã hội. Mời các em tải về và tham khảo:
Những bài văn mẫu lớp 9 hay để ôn thi vào lớp 10
Đề 1. Phân tích đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” từ tác phẩm “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Nguyễn Du là một danh họa của việc miêu tả cảnh vật. Câu thơ miêu tả cảnh của ông có thể được xem như là tiêu chuẩn cho vẻ đẹp của thơ cổ điển:
- Dưới ánh trăng, quyên đã hét mùa hè
Cao tường lửa lựu lập loè sáng như hoa.
- Lấp lánh đáy nước in ánh sáng trời
Thành xây khói biếc, non rợp bóng vàng...
Với những câu thơ này, Nguyễn Du đã làm cho ngôn ngữ dân tộc trở nên đẹp hơn, phong phú hơn rất nhiều. Có người cho rằng, so với tiếng Hán có tính hàm súc, tính biểu hiện cao thì tiếng Việt trở nên quá đơn giản, ít có khả năng biểu hiện. Tuy nhiên, Nguyễn Du đã chứng minh rằng ngôn ngữ tiếng Việt có khả năng biểu hiện không giới hạn.
Tuy nhiên, Nguyễn Du không chỉ giỏi về việc miêu tả cảnh vật mà còn xuất sắc trong việc diễn tả tình cảm, cảm xúc. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không thể tách rời mà luôn song hành cùng nhau, bổ sung cho nhau. Ví dụ, trong hai câu thơ miêu tả cảnh chị em Thuý Kiều đi chơi xuân:
Đàn nước xoáy quanh đồng
Dòng nho nhỏ dưới gối đá cầu bắc ngang.
Cảnh vật rất tuyệt vời và trong lành, phù hợp với tâm hồn của hai chị em đang nhẹ nhàng thả hồn. Ngược lại, khi người buồn thì cảnh vật cũng trở nên u ám. Trong một đoạn thơ khác trong Truyện Kiều, ông viết:
Cảnh nào không mang nỗi buồn
Người buồn chẳng có niềm vui bao giờ.
Hai câu thơ này cho thấy rõ quan niệm của Nguyễn Du về mối liên hệ giữa tâm trạng của con người và cảnh vật. Cảnh vật có đẹp hay không, nhẹ nhàng, trong lành hay u ám phụ thuộc rất nhiều vào tâm trạng của con người khi đối diện với cảnh đó.
Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là sự kết hợp, sáng tạo của hai yếu tố cảnh vật và tâm trạng. Cảnh vật có lầu cao, non xanh và nước biếc, sơn thuỷ hữu tình. Nếu Thuý Kiều ở trong hoàn cảnh khác, trong tâm trạng khác thì hẳn cảnh đó sẽ rất đẹp. Tuy nhiên, tâm trạng của Kiều đang rất u ám, sầu muộn: bị Tú Bà giam cầm ở lầu Ngưng Bích, Kiều day dứt nhớ về cha mẹ, người yêu, đồng thời lại rất đau lòng vì số phận của mình. Do đó, cảnh vật cũng phản ánh tâm trạng của Kiều:
Trước lầu Ngưng Bích rọi bóng xuân
Vẻ non xanh, tấm trăng gần kề nhau.
Kiều nhìn cảnh hay Kiều đối diện với cảnh? Thật khó nói là 'nhìn' theo nghĩa thông thường của từ này. Vì 'nhìn' có nghĩa là chiêm ngưỡng, ngắm nhìn. Kiều đang trong tâm trạng như vậy làm sao có thể ngắm nhìn được? Vì vậy, dù có cả 'vẻ non xa' lẫn 'tấm trăng gần' nhưng cảnh vật ấy không hề gợi lên cho Kiều một chút niềm vui hay ấm áp. Nhà thơ đã sử dụng hai chữ 'ở chung' rất khéo léo. Kiều thấy tất cả những thứ đó nhưng với nàng, chúng không khác gì nhau và càng không có gì đặc biệt. Hai yếu tố trái ngược (non xa, trăng gần) dường như phi lý nhưng thực ra đã diễn tả rất chính xác sự trống trải của cảnh vật qua con mắt của Kiều. Khung cảnh 'bốn bề bát ngát' chỉ khiến cho lòng người thêm đầy cảm xúc:
Bốn bề rộng mở xa xa
Cát vàng đầy cồn, bụi hồng dặm xưa.
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải ra trước mắt Kiều. Một người bình thường đứng trước không gian đó cũng khó lòng không bị nỗi buồn ảnh hưởng. Với Kiều, không gian rộng lớn, trống trải ấy chỉ khiến nàng suy nghĩ về cuộc đời mình:
Những mây sớm bèn tắt đèn khuya
Nửa tình, nửa cảnh như chia thành hai nơi.
Bởi trong những câu thơ tả cảnh trên đã thấm đẫm cái 'tình' (tâm trạng) của Kiều nên đến những câu thơ này, Nguyễn Du đã khắc họa rất chân thực tâm trạng một cách tự nhiên. Ý thơ chuyển đổi rất linh hoạt: tả cảnh gắn với không gian. Không gian rộng lớn (non xa, trăng gần) càng khiến cho cảnh mênh mang, dàn trải. Tả tâm trạng lại gắn với thời gian. Thời gian trôi đi (mây sớm, đèn khuya) càng cho thấy tâm trạng chán nản, buồn bã của Kiều. 'Nửa tình nửa cảnh' - trước mặt là tình hay là cảnh, dường như cũng không còn phân biệt được nữa.
Theo trạng thái tâm lý của Kiều, những câu thơ chạm đến nỗi nhớ:
Trông người dưới ánh trăng, chai rượu đồng
Nghĩ rằng sương khói làm nhòa bóng đợi mong.
Bên bờ trời góc biển cô đơn bơ vơ
Tấm son đã rửa, vẫn không phai mờ.
Nhớ nhà, trước tiên Kiều nhớ đến Kim Trọng, nhớ đến ly rượu thề nguyền dưới ánh trăng. Với một người luôn cảm xúc sâu sắc như Thuý Kiều, nỗi nhớ ấy thật đầy nghĩa cảm. Càng nhớ đến Kim Trọng, Kiều lại càng đau đớn về thân phận của mình. Việc Kiều thương nhớ Kim Trọng và mong ngóng tin tức một cách vô vọng đã cho thấy một vẻ đẹp khác trong tâm hồn nàng: Kiều luôn suy nghĩ đến người khác trước khi nghĩ đến bản thân mình. Tấm lòng ấy thật cao quý và đáng trân quý!
Tiếp theo là Kiều nhớ đến cha mẹ. Có người cho rằng, Kiều đã nhớ đến người yêu trước rồi mới nhớ đến cha mẹ, liệu có phải nàng đã đặt chữ 'tình' lên trên chữ 'hiếu'? Thực ra, cách Nguyễn Du mô tả nỗi nhớ của Kiều dành cho Kim Trọng trước rồi mới miêu tả nỗi nhớ cha mẹ là hoàn toàn hợp lý. Kiều không đặt chữ 'hiếu' sau chữ 'tình'. Khi gia đình gặp hoạn nạn, trước câu hỏi 'Bên tình bên hiếu bên nào quan trọng hơn?', Kiều đã dứt khoát lựa chọn chữ 'hiếu' bằng hành động hy sinh bản thân để cứu cha. Bây giờ, khi cha và em nàng đã được cứu, người mà nàng cảm thấy mình có lỗi chính là Kim Trọng. Nhưng không vì thế mà nỗi nhớ cha mẹ kém đi tí nào:
Xót người dõi mặt trời lặn ngày mai
Thương nhớ ấm lòng những ai còn đây bây giờ?
Sân Lai cách bao nhiêu lần nắng mưa
Có khi gốc liễu đã ngủ trong vòng tay.
Các thành ngữ và điển tích trong Truyện Kiều, như 'tựa cửa hôm mai' và 'quạt nồng ấp lạnh', thể hiện sâu sắc tâm trạng của Thuý Kiều đối với cha mẹ và vai trò làm con của mình.
Tám câu thơ cuối của Truyện Kiều là một trong những đoạn tả cảnh tuyệt vời nhất của tác phẩm, thể hiện rõ nghệ thuật 'tả cảnh ngụ tình' của Nguyễn Du.
Những câu thơ buồn 'trông cửa bể chiều hôm', 'thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa', 'ngọn nước mới sa', 'hoa trôi man mác' và 'nội cỏ dàu dàu' trong Truyện Kiều mang đến cảm giác sầu muộn và ảo ảnh.
Cảnh vật trong Truyện Kiều, mặc dù thơ mộng và lãng mạn, nhưng lại mang đến nỗi buồn và suy tư cho người đọc.
Những âm thanh trong cảnh vật của Truyện Kiều như 'tiếng sóng cuốn mặt duềnh' và 'âm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi' tạo nên sự mê hoặc đặc biệt.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du đã tài tình miêu tả âm thanh, luôn thành công với mọi cảnh. Ngay cả khi chỉ dùng vài từ, ông đã diễn tả chân thực cảnh vui đùa ồn ào trong nhà Thuý Kiều khi bọn vô lại kéo đến.
Những dòng thơ của Nguyễn Du tài tình mô tả tiếng đàn của Kiều. Mỗi lần tiếng đàn vang lên, người nghe không thể kìm được nước mắt cho số phận oan trái của nàng.
Trong bài thơ này, Nguyễn Du không tả tiếng đàn mà miêu tả tiếng sóng. Trong cảnh bát ngát mênh mang, tiếng sóng vỗ 'ầm ầm' làm phá vỡ sự yên tĩnh, buộc Kiều quay trở lại thực tại đau khổ.
Nguyễn Du sử dụng ngôn từ đảo ngữ để tạo nên ấn tượng về âm thanh sóng biển 'ầm ầm', như một điềm báo về những khổ đau và tủi nhục mà Kiều sắp phải chịu đựng.
Trích đoạn 'Kiều báo ân báo oán' từ tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một chủ đề đáng phân tích trong tác phẩm.
Trong văn học dân gian, mô típ đền ơn trả oán rất phổ biến, đặc biệt trong các câu chuyện cổ tích, nơi những người làm điều tốt sẽ được đền bù, kẻ ác sẽ bị trừng trị.
Trong tác phẩm Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đưa ra cảnh báo ân báo oán, nhưng khác biệt nhiều so với truyện cổ tích, không chỉ là thể hiện khát vọng công lý mà còn tập trung vào tâm lý nhân vật.
Đoạn trích trong Truyện Kiều có hai cảnh rõ rệt: báo ân và báo oán.
Báo ân.
Khi Thúc Sinh nhận được sự ân báo, mặt anh như chàm đổ và cảm thấy run sợ. Anh run vì nhiều lý do, bao gồm cả việc chứng kiến Thuý Kiều trừng trị những người gây ra đau khổ cho cô.
Tại sao Thuý Kiều lại 'báo ân' cho Thúc Sinh một cách hậu hĩnh như vậy? Nếu giải thích được điều này, chúng ta sẽ hiểu thêm về nhân vật Thuý Kiều và nghệ thuật xây dựng của Nguyễn Du.
Thuý Kiều lý giải rằng đây không phải là việc báo ân mà là trả nghĩa, trả lại tình cảm mà Thúc Sinh đã dành cho cô. Với Thúc Sinh, Kiều đã không đáp lại bằng lý trí mà bằng tình cảm của mình.
Thuý Kiều đã được xây dựng rất nhất quán từ đầu đến cuối tác phẩm, luôn là người nặng tình nặng nghĩa, không chỉ trong những hoàn cảnh khó khăn mà còn khi có thể trả ơn báo oán một cách công bằng.
Đối tượng báo oán ở đây là Hoạn Thư, người vợ của Thúc Sinh. Mặc dù không trực tiếp đẩy Kiều vào lầu xanh, nhưng Hoạn Thư đã gây ra nhiều đau khổ cho cuộc đời của cô.
Thúc Sinh cảm thấy run sợ khi được 'gươm mời đến', không chỉ vì sự sáng loá của ba quân gươm mà còn vì chứng kiến Kiều trừng trị kẻ đã gây ra đau khổ cho cô.
Nguyễn Du đã không để cho lý trí của mình chỉ đạo sự việc một cách đơn giản. Ông ghi nhận cuộc đấu tranh giữa hai người phụ nữ (mà Thuý Kiều gọi là 'kẻ cắp, bà già gặp nhau'), thuật lại cuộc cãi vã của họ một cách khách quan. Điều này đã tạo nên một chi tiết nghệ thuật sống động nhất của tác phẩm.
Tình thế giữa Thuý Kiều và Hoạn Thư đã hoàn toàn thay đổi. Ngày trước khi Hoạn Thư làm chủ, Kiều bị đánh đập và bị làm nhục. Nhưng bây giờ, Kiều đã nắm quyền và có thể trừng phạt Hoạn Thư.
Thuý Kiều đã bắt đầu hành động trả oán như thế nào?
Thuý Kiều, ngày nào vẫn duyên dáng, thuỳ mị, giờ đối diện với kẻ thù, trở nên khác biệt. Bằng cách sử dụng lời nói châm biếm, Kiều đang tìm cách trừng phạt Hoạn Thư theo cách mà cô đã từng bị đối xử.
Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du rất đáng ngưỡng mộ. Kiều, người vốn nữ tính, dịu dàng, bây giờ trở thành một người khác khi đối diện với kẻ thù. Cô đang sử dụng lời nói để trừng phạt Hoạn Thư một cách chính xác.
Tuy nhiên, Hoạn Thư thực sự xứng đáng với danh xưng “Bề ngoài thơn thớt, bên trong nham hiểm giết người không dao”.
Hoạn Thư có vẻ ngoài hoành tráng nhưng lời nói bên trong lại rất đáng ngờ. Cô khẳng định rằng ghen tuông là thói quen bình thường của phụ nữ, và kể những việc mà cô cho là đã làm lợi cho Thuý Kiều. Những lý lẽ này khó bị bác bỏ bởi Kiều.
Trong cuộc đấu trí, Kiều là người thua cuộc khi phải tha bổng cho Hoạn Thư sau khi nghe những lời bào chữa của cô.
Kết cục này có thể làm ngạc nhiên độc giả nhưng lại phản ánh rất chân thực lối viết của tác phẩm.
Đoạn “báo ân” với Thúc Sinh chỉ ra rằng Kiều luôn là người nặng tình nặng nghĩa dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.
Đây là một đoạn trích rất thú vị, là một sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du. Bằng cách để sự việc diễn ra tự nhiên, qua những đoạn đối thoại, Nguyễn Du đã nâng tầm nghệ thuật miêu tả nhân vật trong văn học trung đại lên một tầm cao mới.
Đề 3. Phân tích bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu để thấy bài thơ đã sâu sắc diễn tả tình đồng chí gắn bó thiêng liêng của các chiến sĩ bộ đội thời kháng chiến.
'Đồng chí!' - Tiếng gọi ấy thật đầy thân quen và yêu thương. Nó thể hiện sự gắn bó chặt chẽ của các chiến sĩ cụ Hồ từ những năm 1948 trong thời kỳ kháng Pháp. Chính Hữu, một nhà thơ - chiến sĩ cách mạng, đã viết bài thơ Đồng chí để tả lại những cảm xúc đặc biệt trong cuộc sống chiến đấu đó.
Toàn bộ bài thơ thể hiện rõ sự gắn bó giữa các chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống gian khổ của thời kỳ kháng chiến chín năm. Họ là những người từ nông thôn, với trái tim yêu nước, đã gặp nhau và trở thành bạn thân trong cuộc chiến.
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”
Tại đây, tác giả đã phát hiện một hiện tượng tình cảm đặc biệt ở những người chiến sĩ, đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội. Những người ban đầu xa lạ trong cuộc sống lại trở thành những đồng chí thân thiết trong chiến đấu. Nhà thơ đã sử dụng chi tiết và hình ảnh chân thực để miêu tả cuộc sống của các chiến sĩ.
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!”
Câu thơ không chỉ diễn tả thực tế mà còn tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Tác giả miêu tả những giờ phút cùng chiến đấu và tượng trưng cho lý tưởng cách mạng chung của quân đội. Câu thơ giúp hiểu thêm về tình đồng chí trong cuộc chiến.
Tình cảm đó lại được thể hiện trong cuộc sống chiến đấu. Khi gần nhau, họ kể chuyện quê nhà, “ruộng nương gửi bạn thân cày”, “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng các chiến sĩ mỗi người đều có quê hương, kỉ niệm thân thiết với quê nhà. Các anh cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả, họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí bằng cách “nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay ấy đã nói lên tất cả ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của mối tình đồng chí.
Mối tình đồng chí lại được thể hiện bằng hình ảnh đẹp ở khổ cuối bài thơ:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh nhau đợi kẻ thù đến
Trăng treo trên đầu súng”
Câu thơ vừa miêu tả hiện thực vừa mang tính tượng trưng. Tác giả miêu tả cảnh lính canh giặc trong đêm trăng sương muối. Súng hướng lên trời, có ánh trăng treo trên đầu súng. Đồng thời, hình ảnh “Trăng treo trên đầu súng” còn mang ý nghĩa tượng trưng, kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, vừa chiến đấu vừa trữ tình. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ.
Toàn bộ bài thơ viết bằng ngôn ngữ súc tích, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao. Chính Hữu đã thể hiện sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội. Nhà thơ sử dụng chi tiết thực của cuộc sống người lính, không phô trương, không lãng mạn hóa. Những nét thực tạo nên sự thành công cho tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong sáng tạo hình ảnh người chiến sĩ.
“Đồng chí” - Khi đọc bài thơ, chúng ta cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà qua những lời thơ nhẹ nhàng của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi, và mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí, hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên rực rỡ, thân thương trong những dòng thơ của Chính Hữu.
....................
Hồ sơ vẫn còn đó, mời bạn tải xuống để tiếp tục đọc