TOP 8 bài văn Mô tả cảnh một ngôi chùa ở quê hương của em SIÊU HAY, ấn tượng nhất, để các em học sinh có thêm thông tin bổ ích về các ngôi chùa ở Việt Nam và viết bài văn mô tả cảnh thật hay.
Trên khắp đất nước Việt Nam, có vô số ngôi chùa khác nhau. Với 8 bài văn mô tả ngôi chùa dưới đây, hy vọng sẽ giúp ích rất nhiều cho các em. Mời các em cùng tham khảo để có thêm nhiều ý tưởng mới, từ đó học tốt hơn môn văn.
Dàn ý Mô tả cảnh một ngôi chùa ở quê em
1. Khai mạc:
* Tổng quan về đề tài:
- Cảnh vật mà em muốn miêu tả là gì? Ở đâu? (Chùa Hương nằm trong huyện Mỹ Đức, Hà Nội).
- Em đã đến thăm vào thời điểm nào? (Khoảng một năm trước, trong dịp lễ hội của chùa).
2. Nội dung chính:
* Mô tả cảnh (từ bên ngoài vào bên trong, từ dưới lên trên):
- Chùa Hương nằm giữa dãy núi đá vôi Hương Sơn.
- Du khách muốn vào thăm chùa phải đi thuyền dọc theo dòng suối Yến từ bến Đục.
- Bắt đầu bước chân lên đền Trình, bắt đầu hành trình leo núi.
- Các ngôi chùa cổ được xây dựng rải rác trên những ngọn núi cao, con đường lên gập ghềnh, uốn cong.
- Số lượng du khách đông đúc, hành hương trong ngày lễ Phật để cầu may mắn và chiêm ngưỡng vẻ đẹp tuyệt vời của Hương Sơn.
- Hang Hương Tích rực rỡ với những viên ngọc lấp lánh, mang đầy hình dáng tuyệt đẹp.
- Từ đỉnh núi nhìn xuống, bầu trời và mặt đất trở nên nhỏ bé trong tầm mắt.
3. Kết luận:
* Cảm xúc của tôi:
- Chùa Hương là một điểm du lịch nổi tiếng của Việt Nam với vẻ đẹp tuyệt vời.
- Khung cảnh đẹp đến mê hoặc lòng người du khách.
- Tạm biệt chùa Hương, trái tim của tôi vẫn còn mãi một phần, hẹn gặp lại trong tương lai.
Tả cảnh chùa Bái Đính
Nếu bạn đến Tràng An để tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên, thì khi đến khu du lịch văn hóa Bái Đính, bạn sẽ ngỡ ngàng trước sự trang nghiêm của các tượng đài và chùa chiền. Bái Đính được xem là một trong những quần thể chùa lớn nhất ở Đông Nam Á không chỉ bởi diện tích mà còn bởi kiến trúc tinh tế và tầm quan trọng lịch sử của nó.
Dọc theo hành lang, có năm trăm bức tượng vị la hán được điêu khắc từ đá, mỗi bức mang một tư thế riêng, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ với du khách. Khi đến Điện Pháp Chủ và Điện Tam Thế, bạn sẽ cảm nhận được sự yên bình và trang nghiêm trong không gian này. Mọi người đều lòng thành lễ phép, để tâm hồn được an lạc, cầu mong bình an và may mắn. Khu di tích này được xem là quần thể chùa lớn nhất ở Đông Nam Á. Nhìn những bức tượng Phật được làm từ đồng mạ vàng, cũng như bức tượng Di Lặc từ đồng, ta mới thực sự hiểu được nghệ thuật Việt và sự tôn trọng văn hóa tín ngưỡng của dân tộc mình.
Điện Quan Âm được xây dựng từ gỗ thiết, loại gỗ quý. Có tổng cộng 7 gian, với gian giữa chứa tượng Quan Âm Bồ Tát với nghìn tay nghìn mắt, biểu hiện sự ân cứu và cứu rỗi chúng sinh của Phật bà trên thế gian. Tượng Phật bà được đúc từ đồng, nặng 80 tấn, cao 9.57 mét. Tòa bảo tháp ở Chùa Bái Đính đang trưng bày những xá lợi Phật linh thiêng từ Ấn Độ và Miến Điện. Trần bảo tháp được thiết kế theo phong cách Ấn Độ huyền bí, thu hút sự chú ý của du khách khắp nơi. Hàng nghìn bức tượng nhỏ được bày trí xung quanh bảo tháp, tạo nên một bức tranh vững chắc và uy nghi. Với sự kết hợp hoàn hảo của một quần thể chùa lớn, lễ hội tại Chùa Bái Đính là một trong những lễ hội lớn nhất, thu hút sự tham gia của đông đảo du khách, đặc biệt là vào dịp lễ hội xuân.
Khu di sản văn hóa thiên nhiên Tràng An, Bái Đính đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, với cảnh đẹp hùng vĩ và lãng mạn của thiên nhiên, vừa hoang sơ vừa bí ẩn, cùng với dòng nước uốn quanh những hang động nơi đây.
Mô tả cảnh đẹp tại chùa Một Cột
Ai đã từng bước chân tới thăm chùa Một Cột ít nhất một lần thì khó lòng quên được vẻ đẹp của nơi này. Chùa nằm giữa một hồ sen, tạo nên hình ảnh như một bông sen quý phái đang lan tỏa hương thơm. Những cây cổ thụ đứng bên cạnh chùa như làm cho không gian thêm phần cổ kính và trang nghiêm.
Mái chùa cong với những đường nét tinh tế. Chùa yên bình đứng trên những thanh gỗ chắc chắn, có lẽ đã trải qua nhiều năm tháng. Thân chùa là một cột lớn màu nâu trầm. Những bậc thang dẫn lên chùa đã được mờ mịt bởi sương mù và gió.
Mấy chậu hoa ở hai bên lối vào chùa tỏa sáng như những chiến binh trung thành đứng canh gác suốt ngày đêm. Trong những ngày hè, khi ánh nắng vàng chiếu xuống, chùa Một Cột tỏa sáng như nụ sen hồng rực rỡ, tôn vinh vẻ đẹp cổ kính và thần thánh của nó.
Mô tả cảnh đẹp tại chùa Làng
Tôi cũng giống như bao người khác, đều có những ký ức về tuổi thơ ở quê hương, làng quê. Trong đó, ký ức về cuộc sống và niềm vui ở chùa Làng vẫn đọng mãi trong tâm trí tôi, không bao giờ phai nhạt.
Đó là ngôi chùa ở Làng, một ngôi chùa khá cổ kính. Không biết từ bao giờ ngôi chùa đã được xây dựng, nhưng từ khi tôi còn nhỏ, ngôi chùa đã hiện hữu và có vẻ cổ kính. Theo sách “Địa phương ký làng Sơn Tùng” của tác giả chú Văn Hữu Tuất, ngôi chùa làng được thành lập từ rất sớm, vào khoảng năm 1754 (Giáp Tuất), do Ngài Tin Đức Bá Đoàn Phúc Hòa Vệ Long Võ cùng bà con dân làng trùng tu xây dựng.
Trong những năm gần đây, nhờ sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền các cấp và kinh tế ngày càng cải thiện, phong trào tham gia tự nguyện cúng dường, đóng góp công, sức và tiền bạc của nhân dân trong làng đã giúp ngôi chùa được sửa chữa, tô quét lại, cùng với các kiến trúc của chùa trở nên khang trang và đẹp đẽ hơn. Đặc biệt, tượng đá “Phật Quan Âm Bồ Tát” được đệ tử Đoàn Mai Lương cúng dường đã được đặt ngay trước sân chùa, tôn vinh vẻ đẹp của ngôi chùa.
Sau nhiều năm rời xa ngôi chùa, mỗi khi trở về quê hương, tôi luôn ghé thăm, viếng thăm ngôi chùa thân thương ở làng. Khi đó, những kỷ niệm tuổi thơ ấu hiện ra, làm cho tôi cảm thấy rất xúc động, khó diễn tả bằng lời, chỉ biết lặng lẽ thương nhớ và tràn đầy lưu luyến. Điều này chính là tâm trạng của tôi cũng như nhiều người con xa quê khi nhớ về quê hương, nơi có ngôi chùa làng thân thương.
Mô tả cảnh đẹp tại chùa Tây Phương
Mẫu 1
Quê hương tôi ở huyện Thạch Thất. Nơi này có nhiều danh lam thắng cảnh mà ai cũng biết. Nhưng điều nổi tiếng nhất vẫn là chùa Tây Phương.
Mười sáu vị tổ ngồi, đứng, pho thì nhìn lên trời, chỉ vào mây khói, pho thì lơ đãng với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa mai. Có những người pho trông hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn trĩnh, còn pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai. Tượng La Hầu La thật sự chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay đặt trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam. Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã tạo ra những câu thơ sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quằn quại của chúng sinh.
...Những vị này ngồi yên lặng
Nghe tiếng giông bão vang xa
Như từ những nơi thăm dò sâu
Bóng tối lan tỏa theo cơn gió...
...Mặt họ cúi, mặt nghiêng, mặt nhìn phía sau
Quay về mọi phương hỏi về trời cao
Một câu hỏi lớn. Không có câu trả lời
Cho đến hiện tại, mặt vẫn u buồn...
Mẫu 2
Chùa Tây Phương là một điểm tham quan nổi tiếng. Nơi này có nhiều tượng phật độc đáo và là nơi lưu giữ nhiều kiệt tác điêu khắc tôn giáo.
Chùa Tây Phương tọa lạc trên đồi Câu Lâu, thôn Yên, xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội. Chùa được xây dựng từ thời Cao Biền (865 -875) và được sửa lại vào niên hiệu Chính Hòa (1680 – 1705). Chùa bị hủy hoại trong chiến tranh nhưng đã được xây dựng lại vào khoảng năm 1788 – 1789 dưới thời Tây Sơn với tên gọi mới là “Tây Phương cổ tự”. Theo truyền thuyết, núi Tây Phương được cho là núi Ngưu Lĩnh, với kiến trúc cổ mang dấu ấn của non sông đất nước.
Chùa Tây Phương có nhiều tượng phật được coi là kiệt tác của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Các tượng phật tại đây phản ánh cuộc sống khó khăn của người dân thế kỷ XVIII. Có tổng cộng 72 tượng phật được chạm bằng gỗ mít sơn vàng, trong đó có 18 tượng La Hán. Mỗi tượng phật đều thể hiện một nét đặc trưng của con người, với nét mặt bi thảm và phong cách diễn đạt đa dạng.
Chùa Tây Phương là niềm tự hào của người dân Thạch Xá và của cả Việt Nam. Nó xứng đáng được bảo tồn và truyền lại cho các thế hệ sau. Nếu có cơ hội, tôi sẵn lòng làm hướng dẫn viên du lịch để giới thiệu về chùa Tây Phương.
Tả cảnh chùa Keo
Chùa Keo, còn được biết đến với tên chùa Thần Quang, đặt tại Vũ Thư, Thái Bình. Theo sử sách cũ, chùa Keo được xây dựng từ thời nhà Lý Thánh Tông và đã trải qua nhiều lần tu sửa.
Là một di tích có quy mô lớn, chùa Keo có diện tích lên đến 57.000m2 với 107 gian chùa lớn (trước đây là 154 gian) được xây toàn bằng gỗ lim. Kiến trúc của chùa đặc biệt phức tạp và tinh xảo.
Toàn bộ khu chùa là một quần thể kiến trúc rộng lớn, bao gồm nhiều công trình như sân lát đá, tam quan, ao trước chùa, tam quan trong, sân đất, chùa Hộ, chùa Phật, sân gạch, tòa Giá Roi, tòa Thiên Hương, tòa Phục quốc, tòa Thượng Điện, gác chuông, nhà Tổ… Kiến trúc của chùa được tổ chức một cách tài tình và phức tạp, tạo nên một không gian ấn tượng.
Mô tả cảnh chùa Keo
Trong gác chuông của chùa Keo treo hai quả chuông cổ: Hoàng Triều Cảnh Thịnh Tứ Niên, một di tích quý về sự thành tựu văn hóa của triều Tây Sơn tại Thái Bình. Quai chuông được đúc từ thời Tây Sơn, mang vẻ đẹp tinh tế, được chạm hình hai con rồng nối đuôi nhau. Trên gác chuông của chùa Keo còn có một khánh đá lớn, từ lâu đã không biết được khi nào được đục ra, âm thanh khánh vang vọng khắp nơi.
Mọi phần của kiến trúc chùa Keo đều thấu hiểu dấu ấn của những người thợ gỗ tài ba. Ngay từ tam quan nội, một công trình nhỏ nhưng hai cánh cửa trung quan cung được chạm khắc tỉ mỉ. Cánh cửa cao 2,4m, rộng mỗi cánh 1,2m, được chạm hình hai con rồng chầu bán nguyệt. Rồng to, mạnh mẽ, với con lớn vươn cổ, miệng cắn hạt châu, râu bờm uốn sóng. Bức tranh chạm gỗ này chứa đựng những câu chuyện lịch sử tuyệt vời. Khi đóng cửa lại, chúng ta thấy một bức tranh hoàn chỉnh: rồng chầu nguyệt, với sự kỳ công và khéo léo trong từng chi tiết.
Mỗi năm, vào ngày 4 tháng giêng và giữa tháng 9 âm lịch, hàng ngàn khách du lịch đổ về chùa Keo. Từ xa, trên đê sông Hồng, họ có thể thấy lá cờ thần vĩ đứng ngang trên đỉnh cột cờ cao 21m. Mặc dù cột cờ lớn chốt chặt vào bệ đá sâu hàng mét, nhưng lá cờ vẫn vẫy tung tóe.
Mô tả không gian chùa Hương
Chuyến thăm chùa Hương cùng ông bà, cha mẹ hơn một năm trước vẫn rất đọng mãi trong ký ức của em, với vẻ đẹp huyền diệu của phong cảnh Hương Sơn.
Ngày mùng sáu tháng Giêng, lễ hội chùa Hương lại bắt đầu. Du khách từ khắp nơi trên đất nước đổ về để tham dự lễ hội Phật và ngắm nhìn vẻ đẹp tự nhiên của núi rừng và sông nước ở đây, một điều hiếm có. Hương Sơn thực sự là một kỳ quan mà thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho loài người.
Trên chiếc đò trên sông Đục, em háo hức ngắm nhìn cảnh vật xung quanh. Nước suối Yến mát lành. Thỉnh thoảng, một chú chim bắt cá màu xanh cánh lượn vút như một tia sét xuyên qua dòng nước trong veo, nhìn thấy rõ ràng rong rêu mọc ven bờ. Trước mắt là dãy núi xanh biếc, cheo leo trong lớp sương mù dày đặc. Những chiếc đò như những đoàn người mênh mông, đưa du khách vào đền Trình dưới chân núi.
Con đường lên chùa vất vả, ngoạm ngẫm và dốc đứng nhưng hầu như không có ai cảm thấy mệt mỏi. Các cụ già đầu đội khăn, mặc áo dài nâu, quần màu đen, cổ đeo chuỗi hạt, tay cầm gậy nhưng bước đi vẫn phập phồng, không kém cạnh những người trẻ tuổi.
Em cùng ông bà, cha mẹ từ chùa Ngoại vào chùa Trong, thăm chùa Giải Oan, lên đến chùa Thiên Trù… Mỗi chùa đều mang vẻ cổ kính, uy nghi, im ắng trong làn khói hương nồng nàn. Không khí của lễ hội vừa sôi động vừa thanh tịnh, trang trọng. Ở đây, mọi người đều cảm thấy nhẹ nhàng hơn, những lo âu cuộc sống hàng ngày tan biến, lòng bỡ ngỡ và an lòng.
Người dân xếp hàng dài trên những con đường hẹp, bên cạnh những tảng đá. Tiếng suối róc rách vang vọng khắp nơi, kết hợp với tiếng mõ và tiếng chuông vang vọng trong không gian yên bình, êm đềm. Khi chân mỏi, du khách ghé vào quán lá, uống một tô nước lão mai lại cảm thấy khỏe khoắn hẳn, vui vẻ tiếp tục hành trình.
Động Hương Tích được gọi là Nam thiên đệ nhất động.
Từ trên cao nhìn xuống, bầu trời và đất đai thu nhỏ trong tầm mắt. Ruộng nương nhỏ nhắn như bàn tay. Rừng mơ, rừng mận nở hoa trắng rực cả vùng núi đồi xung quanh.
Động chìm sâu trong lòng núi, giống như một cái hàm rồng khổng lồ. Bên trong động rộng lớn, đủ chỗ cho hàng trăm người. Ánh đèn, ánh nến lấp lánh, những tảng đá đa dạng hình dáng, lấp lánh đủ màu sắc như cầu vồng. Có hòn Cậu, hòn Cô, những tảng đá phức tạp, hình dạng đa dạng, như cây bạc, cây vàng… Du khách hành hương ồn ào cầu nguyện, mong một cuộc sống an lành, đầy đủ và hạnh phúc.
Mất hai ngày mới có thể khám phá hết phong cảnh Hương Sơn. Khi lên xe ra về, em ngoảnh đầu lại ngắm nhìn. Xa xa, những dãy núi trùng điệp, sương mù bốc lên như khói. Khung cảnh đẹp như trong mơ, khiến lòng biết bao du khách say mê.
Mô tả khung cảnh của chùa Thiên Mụ.
Thành phố Huế có tổng cộng 99 ngôi chùa; nhiều trong số chúng được kể trong dân ca, làm cho Huế trở nên 'đẹp và thơ':
'Đông Ba, Gia Hội hai cầu,
Có chùa Diệu Đế bốn lầu hai chuông'.
Nhưng đẹp nhất, cổ kính nhất, tráng lệ nhất là chùa Thiên Mụ. Chùa này được xây dựng trên Thiên Mụ Sơn (núi Bà Trời) từ đầu thế kỉ XVII, và đã được trùng tu nhiều lần sau đó. Từ cầu Tràng Tiền, du khách có thể nhìn thấy tháp Phước Duyên hình bát giác, cao bảy tầng, cao 22 mét, tỏa sáng giữa bầu trời xanh. Chuông của chùa Thiên Mụ được đúc vào năm 1710, nặng hơn 3 tấn; tiếng chuông vang vọng vào buổi sáng sớm và hoàng hôn, làm cho không gian của xứ Huế thêm diễm lệ.
Khi ghé thăm vườn của chùa, bạn sẽ thấy nhiều loài hoa đẹp và quý bao quanh những bức bia đá cẩm thạch đặt trên lưng rùa to lớn, được chạm khắc tinh tế. Ngoài ra, còn có hàng trăm, thậm chí hàng nghìn tượng bằng đồng và gỗ mít được sơn son và mạ vàng, được trưng bày trong các điện như Đại Hùng, Địa Tạng, Quan Âm,...
Chùa Thiên Mụ đã chiếu sáng xuống bờ Hương Giang hơn 400 năm qua. Và ngày nay, vẻ đẹp của chùa càng trở nên lung linh, lộng lẫy hơn bao giờ hết.