Phân tích hình tượng của nhân vật Chí Phèo với 18 bài văn mẫu độc đáo kèm theo gợi ý viết chi tiết. Đây là tài liệu tham khảo hữu ích giúp nâng cao kiến thức văn học của học sinh với các bài văn phân tích nhân vật sát với chương trình học.
Phân tích nhân vật Chí Phèo là một phần của chương trình Ngữ văn 11 trong sách Kết nối tri thức với cuộc sống và Ngữ văn 11 Cánh diều. Dưới đây là TOP 18 bài văn phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo, là tài liệu hữu ích cho học sinh trong quá trình tự học, nâng cao hiểu biết văn học và khả năng sáng tạo trong viết văn. Hãy tham khảo thêm: phân tích tác phẩm Chí Phèo, Diễn biến tâm trạng của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, Cảm nhận về nhân vật Chí Phèo và nhiều bài văn khác trong chuyên mục Văn 11.
Dàn ý phân tích chi tiết về Chí phèo
I. Giới thiệu
– Tác phẩm “Chí Phèo” thực sự là một tác phẩm vĩ đại trong văn học hiện đại, là điểm cao của sự sáng tạo của nhà văn Nam Cao.
– Ngòi bút của Nam Cao khám phá và quan tâm đến số phận của những người lao động bị áp bức. Nhân vật Chí Phèo - một biểu tượng vĩ đại trong văn học Việt Nam - đã thể hiện một cái nhìn mới, độc đáo và sâu sắc về nỗi khổ của con người theo cách riêng của Nam Cao.
II. Nội dung chính.
A. SỰ MẤT MÁT CỦA NHÂN TÍNH VÀ HÌNH HÀI CỦA CHÍ PHÈO.
1. Chí Phèo trở thành nạn nhân của sự hủy hoại nhân tình và hình ảnh.
Ngay từ khi sinh ra, Chí Phèo đã là một đứa trẻ mồ côi, bị bỏ rơi bên cạnh một lò gạch cũ. Được những người trong làng nuôi dưỡng, Chí Phèo lớn lên như một cây cỏ, tuổi thơ trôi qua không ổn định, từ nhà này sang nhà khác, tuổi trẻ làm công cho gia đình lí Kiến. Vì một chuyện ghen tuông vô cớ, lí Kiến đã tàn nhẫn đẩy Chí Phèo vào tù. Sau bảy, tám năm biệt tích, Chí Phèo trở về làng đã hoàn toàn thay đổi. Hình dáng thật kinh hoàng, đầu trọc, răng cạo trắng bóng, khuôn mặt đen đúa và vô cùng u sầu, đôi mắt sáng lên như lửa đỏ.
Chí Phèo thường xuyên tham gia vào các cuộc đánh nhau, gây thương tích cho người khác, vì vậy khuôn mặt của hắn đầy sẹo, nhấm nháp. Hắn đã mất hết tính người, trở thành một sinh vật hung ác: không phải là một người nữa, mà là một con vật lạ lùng.
Người nông dân ấy đã bị tước đoạt nhân tính hoàn toàn, trở thành một nửa con người, một nửa vật thể: không còn là gương mặt của con người, mà là khuôn mặt của một sinh vật kỳ lạ.
2. Chí Phèo mất đi tính cách con người.
Khi trở về làng, Chí Phèo không kiềm chế được hành động của mình. Khi mua rượu, ông chủ cửa hàng từ chối phục vụ, hắn lấy bao diêm ra, châm lửa trên mái nhà của ông ta. Ông ta hoảng sợ kêu gào, cố gắng dập lửa và đưa ra chai rượu.
Chí Phèo hoàn toàn bị biến thành một kẻ điên, hành động như một người mất trí. Mọi việc ức hiếp, phá hoại, đâm chém, âm mưu hại người ta giao cho hắn làm. Trong trạng thái say, Chí Phèo hành động tàn bạo như một con quỷ, hoàn toàn mất đi tính nhân đạo. Những trạng thái say của hắn liên tục đổi khác nhau, hắn ăn uống trong trạng thái say, uống rượu trong trạng thái say, để rồi lại say nữa, say không biết mệt mỏi (...). Hắn không biết đã phá hủy bao nhiêu sự nghiệp, phá hủy bao nhiêu hạnh phúc, gây ra bao nhiêu nỗi đau và nước mắt cho những người lương thiện!
B. SỰ TỈNH TÁO CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN BỊ BIẾN THÀNH TÊ TÁI.
1. Người nông dân bị biến thành kẻ điên.
Trong trái tim có vẻ như đá lạnh, thậm chí là bị tàn phá hoàn toàn của Chí Phèo, bản chất tốt bụng bên trong vẫn tỏa sáng một tia hy vọng, sẽ rực rỡ khi có cơ hội. Khi thị Nở quan tâm, Chí Phèo đã rất ngạc nhiên vì trước đây chưa từng thấy ai tự nhiên như vậy. Hắn không cần phải đe dọa hay cướp giật để có được điều gì đó.
Tình cảm chân thật của thị Nở đã đánh thức ý thức và lương tâm của Chí Phèo. Từ đó, Chí Phèo mới nhận ra tình trạng tự trói buộc của mình và bi kịch bắt đầu diễn ra trong tâm hồn.
2. Sự tỉnh táo cuối cùng
Sau khi được thị Nở quan tâm, lần đầu tiên khi tỉnh dậy, Chí Phèo nghe tiếng chim hót, tiếng cười nói của những người đi chợ, niềm ao ước về một gia đình nhỏ nhắn tỏa sáng trong lòng hắn. Hắn muốn kết bạn, tại sao lại tạo ra kẻ thù?
Bản tính tốt đẹp của người lao động thức tỉnh trong lòng Chí: Ôi trời ạ. Hắn khao khát cái thiện, hắn muốn hòa mình với mọi người!... Hắn hy vọng sẽ được chấp nhận vào một xã hội công bằng, thân thiện của những người lương thiện.
C. SỰ BI KỊCH LÀ ANH TA MUỐN TRỞ LẠI LÀM CON NGƯỜI MÀ KHÔNG THỂ
1. Chí Phèo lại rơi vào tình cảnh bế tắc
Chí Phèo khao khát trở lại cuộc sống lương thiện với mọi người, nhưng toàn bộ làng Vũ Đại đều sợ hãi, tránh né anh ta. Thị Nở cũng từ bỏ Chí Phèo. Chí lại lâm vào tình thế tuyệt vọng: Muốn sống lương thiện nhưng không được chấp nhận, tiếp tục làm lưu manh như trước nhưng cũng không thể và không muốn.
Những lời cuối cùng của Chí Phèo phản ánh hết bi kịch tâm hồn của mình: “Tao muốn trở thành người lương thiện (...). Nhưng không được! Ai cho tao làm người lương thiện? Làm sao để xóa đi những vết sẹo trên khuôn mặt này! Tao không thể trở thành người lương thiện nữa. Hiểu chứ!”.
2. Bi kịch biến thành thảm họa
Chí Phèo đã giết chết Bá Kiến, kẻ đã gây ra bi kịch trong cuộc đời Chí, sau đó tự tử.
Nhân vật Chí Phèo được xây dựng một cách thành công: vừa có đặc điểm tổng quan, vừa có tính cách phong phú. Người nông dân đó đã bị phá hủy cả về hình dáng lẫn tính cách. Nhân vật được mô tả sâu sắc từ bề ngoài đến tâm trạng nội tâm.
III. Phần kết.
Tác phẩm Chí Phèo đậm chất nhân đạo, thể hiện sự yêu thương sâu sắc của Nam Cao đối với những người gặp khó khăn. Tác giả khám phá những góc khuất tối tăm nhất trong tâm hồn của họ, những khao khát cuối cùng của tình người, mong muốn được yêu thương, đặc biệt là quyền tự do làm người lương thiện.
Chí Phèo là lời kêu gọi cấp bách từ những người bất hạnh: Hãy bảo vệ và chiến đấu cho quyền tự do làm người của những con người lương thiện, để họ được sống và sống hạnh phúc, không bị những thế lực tối tăm của xã hội kéo họ xuống vực sâu của sự mất mát cả về hình dáng lẫn tâm hồn, đầy bi kịch.
Phân tích Nhân Vật Chí Phèo
Nam Cao là một trong những nhà văn hiện thực nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, ông luôn suy tư, nghiên cứu về cuộc sống và viết văn. Mỗi tác phẩm của Nam Cao đều tập trung vào con người, vì con người. Đối với ông, cao trào của sáng tạo nghệ thuật là những ý tưởng mới lạ, ông đã viết: 'Văn chương không cần kỹ năng thủ công, làm theo một khuôn mẫu. Văn chương chỉ cần những người biết khai quật sâu sắc, tìm kiếm, làm mới những nguồn tài nguyên chưa được khám phá và tạo ra cái mới'. Có lẽ chính những niềm tin nghệ thuật chân chính ấy đã giúp Nam Cao tạo ra hàng loạt tiểu thuyết, truyện ngắn nổi tiếng, đưa tên tuổi của mình lên đỉnh vinh quang trong giới văn học.
Truyện ngắn 'Chí Phèo' thực sự là một kiệt tác, là minh chứng rõ ràng cho tài năng văn học tinh tế của tác giả, đồng thời cũng phản ánh chân thực về số phận bi thương nhất của con người - bi kịch bị lẻn vào vùng quên lãng. Nhân vật Chí Phèo không chỉ là biểu tượng của tư duy trong tác phẩm.
Chí Phèo hiện lên trong truyện với những lời chửi đầy tự do, với sự bất cần không đáng có. Những lời chửi đó không chỉ chứa đựng nỗi đau thương mà còn là sự kiêng nhẫn và tủi nhục. Có lẽ Chí cũng muốn được quan tâm, muốn được ai đó hỏi thăm, nhưng không ai, không một ai trong làng quan tâm đến Chí. Những lời chửi đắng lòng mở ra câu chuyện bi thương về cuộc đời của Chí.
Chí Phèo đã từng trải qua sự bất hạnh từ khi sinh ra, thiếu thốn tình thương và gia đình. Hắn được một người đưa vào thế giới đầy nghịch cảnh, bị bỏ rơi giữa lò gạch cũ và được một bà già mù nhận nuôi. Thật trớ trêu khi bà mụ lại bị bán cho một người phụ côi, một người không có ai. Khi người phụ côi qua đời, Chí lại trở thành kẻ một mình.
Cuộc sống không may mắn tiếp tục đeo bám Chí. Hắn phải làm thuê để kiếm sống, mặc dù vậy, Chí vẫn là người chăm chỉ và tốt bụng. Giống như nhiều người khác, Chí chỉ muốn có một ngôi nhà bình yên, một gia đình nhỏ, không cầu giàu sang mà chỉ cầu ấm êm và tình thương. Nhưng ước mơ đó cũng trở nên xa vời với Chí, khi anh phải đối mặt với những bi kịch khủng khiếp nhất.
Làm việc cho Bá Kiến, Chí Phèo phải chịu đựng sự ghen tị vô căn cứ từ vợ của ông. Bị giam cầm trong tù suốt nhiều năm, Chí Phèo trở thành một người khác, mất cả hình dáng và nhân tính của mình, người ta chỉ nhìn nhận anh như một kẻ ác quỷ trong làng Vũ Đại.
Chí Phèo trở về với diện mạo kinh hoàng: 'Cái đầu bằng phẳng, răng trắng nhưng bạch hổ, khuôn mặt đen sạm nhưng kiêu kỳ, đôi mắt to tròn nhìn đáng sợ'. Với trang phục đen tối, áo sơ mi vàng, trên ngực, tay áo trang trí hoa phượng, ai nhìn thấy cũng phải kinh sợ. Dù vẻ bề ngoại xấu xí, thậm chí đáng sợ như vậy nhưng nếu tính cách của Chí là hướng thiện, thì người ta còn để ý. Nhưng khi Chí ra tù, tính tình của hắn đã thay đổi, hắn say rượu suốt ngày từ sáng đến tối, sau đó đến nhà Bá Kiến làm loạn, gây rối. Tưởng rằng sẽ làm sáng tỏ tội ác của bọn thất đức ấy nhưng chỉ vài lời dỗ dành, vài chén rượu, vài đồng bạc thù lao, Chí đã bị mềm lòng và làm thuê cho hắn: 'Chí Phèo không biết họ hàng như thế nào, nhưng cảm thấy thật nhẹ lòng....Nhưng không, ông Bá lại thể hiện tính toán, 'Không có ai tốt hơn tôi trong việc trị chữa bọn đầu bò ấy' để sử dụng Chí như một kẻ lưu manh, một đầu bò. Và Chí đã rơi vào bẫy của Bá Kiến, từ đó hắn đã làm hại bao nhiêu người, phá hoại cuộc sống của bao nhiêu gia đình lương thiện. Hắn đốt cháy nhà cửa, đòi tiền cho Bá Kiến và rồi tự cao thượng: 'có ai anh hùng bằng tôi ở làng này!'. Nhận được vài đồng bạc, vài mảnh đất, Chí càng hài lòng, rồi bắt đầu tham gia vào các vụ phạm tội, hiểm độc. Theo thời gian, hắn trở thành một kẻ không có danh tính, không tuổi tác, 'Bây giờ hắn trở thành kẻ không tuổi. 38 hay 39? 40 hay hơn? Khuôn mặt hắn không trẻ cũng không già, không còn là mặt người; đó là mặt của một sinh vật khác, liệu có ai từng biết tuổi của chúng không?'. Hắn không có thẻ căn cước, trong làng, họ coi hắn là người sống lưu vong, nhưng tội ác của Chí nếu được viết ra, chắc chắn sẽ dài và ghi chú 'Bao nhiêu hành động đàn áp, phá hoại, tấn công, âm mưu, họ giao cho hắn!'. Điều đau lòng là xã hội đã tạo ra những kẻ tàn ác, những kẻ chỉ vì lợi ích cá nhân mà thúc đẩy con người đến bờ vực tha hoá, dạy dỗ họ từ tội lỗi này đến tội lỗi khác. Chí trở thành kẻ tàn nhẫn do bàn tay tàn nhẫn của người khác tạo ra, Chí hiện không còn là Chí của ngày xưa, Chí không biết rằng bản thân mình giờ đây đã 'trở thành kẻ quỷ dữ trong làng Vũ Ðại'. Người ta tránh xa, sợ hãi hắn như tránh xa một thứ gì đó đáng sợ, kinh hãi.
Ban đầu dường như không ai có thể đánh thức tình người trong kẻ đã thay đổi. Nhưng chính lòng từ bi hay lòng thương xót của một cô gái xấu xí đã khiến Chí cảm nhận được tình yêu thương. Chí gặp Thị Nở trong vườn chuối khi hắn say sưa, sự thú vị mà hắn cảm nhận được từ một người 'ma chê quỷ hờn' khiến hắn 'run rẩy khắp cơ thể'. Và sau đêm đó, khi mở mắt, Chí bắt đầu cảm nhận lại mọi thứ xung quanh mà trước đó hắn chẳng quan tâm, chẳng biết. Trái tim hắn đầy bâng khuâng, lạ lùng: 'Hắn thức dậy như từ giấc mơ, hắn cảm thấy đắng miệng, lòng thấy buồn bã. Cơ thể run rẩy, không muốn nâng chân tay, hay là do say rượu, hắn hoảng sợ. Ruột gan lại nôn nao. Hắn sợ rượu như những người bệnh sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài trời thật vui vẻ! Tiếng cười nói của những người đi chợ. Thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá', sau đó hắn nhớ lại những ước mơ bình dị xưa kia của mình. Bát cháo của Thị đã cứu rỗi tâm hồn Chí, Chí bắt đầu nhận ra sự thật khắc nghiệt của cuộc sống, nghĩ về một tương lai đầy cô đơn, đói khổ, bệnh tật, hắn bắt đầu cảm thấy sợ hãi, sợ hãi đến tột cùng. Nhưng biết sợ mới là con người, biết sợ mới là chính mình trong Chí. Chí bắt đầu hồi sinh, bắt đầu nhận ra cuộc đời mình một lần nữa. Chí khóc than khi nắm lấy bát cháo, vì từ trước đến nay, miếng ăn của hắn chỉ là những gì hắn cướp bóc được, Thị là người đầu tiên tự nguyện chia sẻ bát cháo. Chí cảm thấy hối hận và ân hận, Chí khao khát, mong muốn trở thành một người lương thiện, có thể sống hạnh phúc cùng mọi người xung quanh: 'Lạy trời! Hắn muốn trở nên lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người! Thị Nở sẽ giúp hắn. Thị có thể sống hạnh phúc cùng hắn, vậy sao người khác lại không thể'.
Mặc dù lấp lánh trong lòng Chí có lương tri nhưng không thể đối phó được sự tàn bạo của xã hội vào thời điểm đó. Chí lại một lần nữa gặp phải bi kịch. Hắn ao ước được sống bên Thị nhưng lại bị Thị từ chối, những lời nói cay độc, sarky của bà khiến hắn tức giận và đau đớn hơn. Dù đã cố gắng nhưng mọi thứ đều không thay đổi được vì sự định kiến, sự đánh giá mà xã hội gán vào hình ảnh của Chí, họ khinh thường Chí, không chấp nhận Chí làm chồng. Nỗi đau khổ bủa vây, lòng căm thù tăng lên, Chí muốn sát hại bà nhưng bước chân lại hướng về nhà của Bá Kiến, vì Chí hiểu rằng, người đã đẩy hắn vào thảm kịch này không ai khác ngoài tên Bá Kiến độc ác. Chí đã giết chết Bá Kiến, kết thúc cuộc đời đầy đau khổ, bi thảm của chính mình. Một cái chết đáng thương, một cái chết để lại những suy tư, nỗi ân hận trong lòng người, cái chết lên án một xã hội thực dân đã đẩy những kẻ bất hạnh vào cảnh đau khổ. Đến khi qua đời, Chí vẫn than thở: 'Trời ơi! Hắn ao ước được làm người lương thiện, hắn muốn hoà bình”. “Không! Ai cho tao được là người lương thiện? Làm sao để xóa bỏ những vết sẹo trên gương mặt này? Tao không thể trở thành người lương thiện nữa. Đúng không? Chỉ có một cách... đúng không! Chỉ có một cách là... có lẽ bạn đã biết điều đó đúng không?'
Bằng cách đặt nhân vật vào tình huống điển hình, Nam Cao đã mô tả Chí Phèo một cách thành công. Qua nhân vật Chí Phèo, chúng ta hiểu thêm về nỗi khổ của người nông dân trước cách mạng, cảm thấy tức giận trước một xã hội mà ngay cả quyền sống, quyền làm người của con người cũng bị tước đoạt.
Một phân tích ngắn gọn về nhân vật Chí Phèo
Giai đoạn trước Cách mạng tháng 8 là một thời kỳ rất tối tăm trong lịch sử dân tộc, khi số phận của những người nông dân dưới thế lực của thực dân phong kiến trở thành chủ đề được nhiều nhà văn chú ý và khai thác sâu sắc. Nổi bật trong số đó là các tác giả như Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Nguyễn Công Hoan với Tinh thần thể dục 1, 2, hoặc Kim Lân với Vợ Nhặt,... Nhưng có lẽ chưa từng có ai nhìn thấy sự đau đớn, tuyệt vọng của người nông dân đến như trong các tác phẩm của Nam Cao, một nhà văn có lối viết chân thực và lạnh lùng của văn học hiện thực Việt Nam. Chí Phèo là một nhân vật rất đặc biệt và ấn tượng trong văn học, với số phận đầy bi kịch và những tâm trạng đau khổ tàn phá cả thể xác lẫn tâm hồn, từ việc trở thành một tên lưu manh, cho đến việc bị tha hoá thành một con quỷ dữ, và cuối cùng là cái chết đau đớn nhất, bị từ chối quyền sống.
Bi kịch của Chí Phèo bắt đầu từ khi hắn mới chào đời, một đứa trẻ đỏ hỏn bị bỏ rơi gần lò gạch cũ, chỉ được quấn một chiếc váy cũ rách rưới, đó là bi kịch của một cuộc đời mới bắt đầu đã đầy khổ đau. Hắn được đặt tên đơn giản nhưng ý nghĩa, tên là Chí, một cái tên dễ thương và đáng yêu. Đứa trẻ tội nghiệp đó không có phần may mắn được nhận nuôi bởi một gia đình tốt bụng, mà lại được đưa từ người này sang người khác, và cuối cùng lớn lên trong nghèo khó của làng Vũ Đại. Chí trưởng thành mạnh mẽ, hiền lành, chất phác, làm việc chăm chỉ làm ruộng cho gia đình Bá Kiến, kiếm sống bằng mồ hôi và công sức của chính mình. Không chỉ thế, anh còn có những ước mơ giản dị nhưng cao đẹp, ao ước có một gia đình hạnh phúc, làm ruộng cùng vợ, có một mảnh vườn xinh đẹp và vài con lợn. Điều thú vị thứ hai về Chí là tấm lòng tự trọng, sự liêm sỉ của anh, trước sự cám dỗ của bà ba - vợ của Bá Kiến, một chàng trai thanh niên như Chí không bao giờ suy nghĩ làm điều gì làm tổn thương người khác. Lương tâm của anh không cho phép anh thực hiện những hành động đê tiện ấy, dù đó là về thân thể hay về tiền bạc, trong tâm trí anh hiện lên một triết lý đáng trân trọng rằng “Ở tuổi hai mươi, con người không phải là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là thịt xác. Con người không thích bất kỳ điều gì làm mình tự trách”. Nhưng cuộc sống lương thiện, trong sạch ấy lại phải chịu sự bóp nghẹt dưới ách thống trị của một chế độ tàn ác, thực dân nửa phong kiến, bởi chính lòng lương thiện của mình.
Từ Chí trở thành Chí Phèo, chỉ vì bản tính xấu xa, đê tiện của những kẻ thống trị, một người đàn bà dâm đãng, một kẻ đàn ông nhát gan, bất lực như Bá Kiến không biết xử lý sự ghen tức của mình ra sao ngoài việc anh canh điền bất hạnh. Và vì vậy, Chí đột nhiên bị kết án vì tội trộm cắp, bị giam giữ trong tù 7, 8 năm, sống và chết cùng những quan tài không công bằng. Nhưng nhà tù đó không phải là nơi mà con người được cơ hội sống lại, được cải tạo, mặc dù Chí không làm gì sai. Nhưng nơi đó đã tra tấn, biến đổi con người ta thành một kẻ đáng sợ, thô bạo, biến Chí thành Chí Phèo, từ một người tự trọng, liêm sỉ thành một tên lưu manh, mất đi giá trị đạo đức, không còn biết gì về tự trọng nữa. Khiếp sợ làm sao, một chàng trai đang ở tuổi thanh niên mạnh mẽ, tràn đầy sức sống, nhưng giờ đây chỉ khiến mọi người cảm thấy e dè, kinh hãi trước một con người kỳ lạ, không giống ai “trông như thằng đặc trưng! Đầu trọc lóc, răng cạo trắng bóng, gương mặt đen đậm và rất nguy hiểm, đôi mắt sáng lên nhìn đáng sợ! Anh ta mặc quần áo đen, áo khoác vàng. Ngực phồng đầy những hình ảnh rồng, phượng cùng một vị tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông rất kinh dị!” Người ta không nhận ra anh canh điền hiền lành, chất phác ngày xưa nữa, mà trước mắt chỉ thấy một tên lưu manh, và rồi họ càng chắc chắn điều đó hơn khi thấy anh ta uống rượu, ăn thịt chó trên đường. Khi say sỉn, anh ta đi đến nhà Bá Kiến, chửi rủa, không ai dám đối đáp hoặc chửi lại, tạo ra một tình huống hài hước, khi một người đang uống say và ba con chó hung tợn! Rồi người ta càng ngạc nhiên khi thấy anh say sỉn lại đánh nhau với Lý Cường, con trai của Bá Kiến, rồi nằm gục xuống đất, đòi tiền, và cách anh ta nằm gục đó thật kinh khủng. Chí Phèo vỡ nát chai rồi tự mình rạch mặt, máu chảy đầy, sẵn sàng đấu tranh với Bá Kiến “Tôi chỉ dám chết cùng mày và cả nhà mày thôi”. Như vậy, có thể thấy rõ ràng rằng, Chí Phèo đã hoàn toàn bị biến đổi, trở thành một kẻ lưu manh thực sự, đầy cực đoan và đáng sợ.
Tưởng rằng sự liều mạng và hình ảnh dã man của Chí sẽ khiến Bá Kiến sợ hãi, nhưng thực tế lại là một lợi thế cho kẻ tinh quái như Bá Kiến, vì ông ấy đã quá quen thuộc với những người như Chí Phèo. Sự u mê và ít học của Chí đã khiến anh ta rơi vào con đường của sự tha hóa tới mức không thể cứu rỗi được. Bá Kiến chỉ cần vài lời ngọt ngào, vài đồng tiền là đã có thể lôi kéo Chí Phèo trở thành tay sai của mình, để anh ta thực hiện những hành vi đâm thuê, giết mướn, trở thành con quỷ đáng sợ của làng Vũ Đại. Nhưng thật đáng buồn khi Chí Phèo không nhận ra rằng mình đang làm việc cho kẻ thù, đang phục vụ cho cái ác, vẫn tiếp tục bán rẻ danh dự của mình chỉ để có vài đồng tiền mua rượu trong suốt hơn một thập kỷ. Dưới ánh mắt của làng Vũ Đại, Chí đã trở thành một điều gì đó kỳ lạ, không phải một con người có phẩm hạnh mà là một hình ảnh “kỳ lạ muốn chạm giò”. Anh ta từ một kẻ chỉ thích rượu chè đã trở thành một kẻ nghiện say, “say từ cơn này qua cơn khác, trở thành một cơn say dài, triền miên, ăn uống, ngủ say, thức dậy vẫn còn say, chửi rủa, đe dọa, uống say, rồi lại say nữa, say mãi không dứt”. Qua 15 năm, nhưng có bao nhiêu giá trị trong 15 năm đó, Chí Phèo đang tự mình chôn vùi cuộc đời mình với sự ủng hộ hoàn toàn của những kẻ thống trị phong kiến, thật đau lòng và đáng buồn.
Dường như bi kịch của Chí không dừng lại ở đó, trong xã hội thối nát này, con người không được tha thứ. Gặp gỡ với Thị Nở, là điểm quay lớn nhất trong cuộc đời Chí, từ khi anh bị giam giữ. Người phụ nữ xấu xa đó, đem đến cho Chí cái nhìn sáng sủa về thế giới xung quanh, tiếng chim hót, tiếng nói đùa, và ánh sáng mặt trời, mà anh đã bỏ qua gần 20 năm. Nhận ra cuộc sống bên ngoài, anh nhìn vào cơ thể yếu đuối của mình, nhận ra mình đã bước sang một thế giới mới mà không hề hay biết. Chí Phèo dự đoán tuổi già ốm đau, sự cô đơn, sợ hãi hơn sự đói khát, vì anh đã cô đơn từ lâu. Những lời yêu thương của Thị Nở làm nảy lên trong anh khát vọng hạnh phúc, khát vọng được sống trong một xã hội lương thiện, thực hiện những ước mơ của tuổi trẻ. Sau nhiều năm, tâm hồn lương thiện của Chí trở lại, anh khóc vì xúc động trước tình người của Thị Nở, và họ sẽ cùng nhau hướng về cuộc sống bình thường, trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại.
Một câu nói gay gắt từ bà cô, người phụ nữ ế chỏng trơ, đã phá hủy mọi hy vọng của Chí, đẩy anh vào vực sâu không lối thoát. Anh nhận ra xã hội và những định kiến sẽ không bao giờ tha thứ cho anh. Việc Chí Phèo giết Bá Kiến và tự sát có thể xem là cái kết hợp lý nhất cho những bi kịch của nhân vật. Đó là minh chứng cho tính người, bản chất lương thiện bất diệt trong tâm hồn Chí Phèo, và cũng là nhận thức của anh về bản chất của những kẻ cầm quyền, mà chỉ khi tiêu diệt họ thì bi kịch mới kết thúc.
Chí Phèo của Nam Cao là một tác phẩm xuất sắc, phản ánh sâu sắc số phận và khổ đau của người nông dân trong xã hội cũ, và sự tàn ác của giai cấp thống trị. Tác phẩm còn bộc lộ vẻ đẹp bất diệt của tấm lòng lương thiện, tình người trong tâm hồn nhân vật, dù bị giày vò, chà đạp bởi đủ thứ bất công.
Phân tích nhân vật Chí Phèo - Mẫu 1
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 1
Để lựa chọn tác phẩm phản ánh sâu sắc về thân phận của người nông dân trong xã hội cũ, không thể không nhắc đến Chí Phèo. Từ nhân vật anh Pha trong “Bức đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, qua chị Dậu, đến Chí Phèo của Nam Cao, mỗi nhân vật lại một mảng khổ đau riêng biệt. Chí Phèo không chỉ bán cả nhân tính mà còn nhân hình để trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhân vật này là biểu tượng của nỗi khổ của người nông dân và làm cho tác phẩm “Chí Phèo” vẫn sống động đến ngày nay.
Nhân vật Chí Phèo hiện lên với nỗi bi kịch của một nông dân bị đẩy vào con đường tội lỗi, không được đồng cảm và cự tuyệt quyền làm người. Nhà văn Nam Cao vẫn giữ được sự sắc sảo trong việc phác họa tấn bi kịch của Chí Phèo, khiến cho tác phẩm này vẫn làm xúc động lòng người hơn nửa thế kỷ sau.
Trong tác phẩm của Nam Cao, Chí Phèo không chỉ là biểu tượng của nỗi khổ của người nông dân, mà còn là một cái nhìn sâu sắc và mới mẻ về sự bóc lột và đau đớn của họ trong xã hội thời kỳ nửa thực dân, nửa phong kiến.
Chí Phèo, từ khi mới sinh đã gánh chịu nhiều bất hạnh. Nhân vật này đã trải qua những khoảnh khắc đắng cay, từ việc được một người góa mù nuôi đến việc bị bán cho bác phó cối. Cuộc đời đầy khổ đau của Chí Phèo bắt đầu từ khi còn trẻ, và bi kịch này tiếp tục kéo dài suốt 20 năm.
Trang đời thơ ấu của Chí Phèo được Nam Cao viết ra với cảm xúc sâu sắc. Anh bị bóp chân, đánh đập, và cuối cùng bị giam giữ chỉ vì một cái chuyện ghen tuông không đáng kể. Nhưng những bi kịch này đã biến anh từ một nông dân lương thiện thành một kẻ lưu manh, một con quỷ dữ trong làng Vũ Đại.
Chí Phèo sau khi ra tù, ngoại hình đã thay đổi đáng kể. Mô tả về ngoại hình của Chí là “đầu trọc lóc, răng trắng cạo sáng, mặt đen nhưng rất căng tròn, đôi mắt gườm gườm rùng rợn. Chí mặc quần nái đen, áo tây vàng, ngực và tay vẽ rồng phượng, giống như một tướng cầm chùy”... Tất cả đều tạo nên hình ảnh của Chí Phèo, người nay đã trở thành một tên ăn vạ chuyên nghiệp. Khi ra tù, Chí Phèo đã đến nhà Bá Kiến để “xử tội” và hành động của anh ta vô cùng kiêu căng. Nhưng chỉ cần một bữa rượu vài lời ngọt ngào, kèm theo một ít tiền của cụ Bá, Chí Phèo đã vui mừng và quên mất Bá Kiến đã đẩy anh ta vào tình cảnh như thế.
Bá Kiến, hiểu rõ rằng “Thứ nhất sợ người hùng, thứ hai sợ người dám hy sinh”, đã nịnh hót Chí Phèo để anh trở thành một tay lính mới của Bá. Chí Phèo, người đã bán linh hồn cho quỷ dữ, không lâu sau đã trở thành một con quỷ khiến ai cũng sợ hãi. Chí đã rơi vào vòng lưu manh, say sưa trong rượu và làm mất đi ý thức về thời gian và tuổi tác. Hình ảnh của Chí Phèo là một kẻ lạ lùng, với nhiều vết rạch trên khuôn mặt đáng sợ. Anh ta làm nghề thợ sát thủ để kiếm tiền, đồng thời say sưa với rượu. Chí đã phạm tội và bị dồn vào con đường tội lỗi. “Anh biết mình đã phá hủy bao cơ nghiệp, làm hỏng bao niềm vui, phá vỡ bao hạnh phúc, làm đổ máu và nước mắt của bao người lương thiện”.
Chí Phèo bị xã hội từ bỏ, thậm chí thẻ dân cư cũng không còn trong sổ. Mỗi khi xuất hiện, dân làng đều sợ hãi anh ta, thậm chí tránh xa anh ta. Chí Phèo trở thành kẻ bị xã hội loại bỏ, không được công nhận là người. Người ta giao tiếp với anh ta bằng tiếng chửi mắng. Nhưng không ai quan tâm đến Chí Phèo, anh ta bị xã hội từ chối nhận diện là con người.
Chí Phèo, thông qua nhà văn Nam Cao, phản ánh một thực tế phổ biến ở nông thôn dưới thời Pháp thuộc. Trong một xã hội bán nửa thực dân nửa phong kiến, nhiều người lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tội lỗi để tồn tại. Qua “Chí Phèo”, Nam Cao đã thể hiện sự tàn ác, đáng sợ trong xã hội cũ.
Khi gặp Thị Nở, Chí Phèo thay đổi. Thị Nở, mặc dù xấu xí nhưng tỏ ra rất hiền lành. Sau một đêm với Chí Phèo, sự chăm sóc của Thị Nở đã làm thay đổi anh ta. Sáng hôm sau, Chí Phèo tỉnh dậy trong trạng thái say, nhưng lần này anh ta có cảm giác khác lạ. Thị Nở chăm sóc và nấu cho anh một bát cháo. Điều đó làm cho Chí Phèo cảm thấy những điều mình chưa bao giờ được trải qua. Chí Phèo, kẻ sợ hãi của làng Vũ Đại, chỉ có Thị Nở mới nhận ra anh ta đúng là người.
Khi tỉnh dậy trong cơn say, Chí Phèo nghe thấy những âm thanh quen thuộc của cuộc sống mà anh đã lãng quên. Trái tim Chí đầy buồn bã, mong muốn được hòa nhập và trở thành người lương thiện. Anh nhớ lại ước mơ bình dị của mình, mong muốn có một gia đình nhỏ, làm ruộng và nuôi lợn. Thị Nở đã làm cho Chí nhận ra ý nghĩa của cuộc sống.
Nhà văn Nam Cao đã thông qua nhân vật Chí Phèo để phản ánh một hiện thực đau lòng: người lao động bị xã hội xa lánh. Chí Phèo, sau khi được Thị Nở chăm sóc, trở lại với bản tính lương thiện. Điều này là một lời kêu gọi đầy lòng xót thương của nhà văn.
Khi ý thức trở lại, Chí Phèo muốn thay đổi và trở lại lương thiện. Tuy nhiên, định kiến xã hội và mối quan hệ với Thị Nở đã khiến cho anh mất kiểm soát. Chí quyết định đối mặt với Bá Kiến và kết liễu cuộc đời mình. Cái chết của Chí Phèo là bi kịch, là lời kết thúc đầy ám ảnh về sự bất công trong xã hội.
Chí Phèo là biểu tượng của sự lưu manh hóa ở nông thôn. Tác phẩm lên án sự tàn bạo của xã hội và đánh thức nhận thức về nhân quyền. Câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo, “Ai cho tao lương thiện?”, đầy ý nghĩa và sâu sắc.
“Chí Phèo” không chỉ là một câu chuyện đầy tình cảm nhân đạo mà còn chứa đựng ý nghĩa triết lí sâu sắc. Tác phẩm thể hiện sự phê phán một cách độc đáo, xứng đáng với danh hiệu kiệt tác văn học.
Ôi Chí Phèo, tâm hồn trong sáng ấy bị xã hội tăm tối hủy hoại. Nhà tù thực dân đã cùng với kẻ cường hào lí Kiến giam giữ Chí, biến hắn từ một người tốt lành thành một con quỷ đáng sợ.
Sau bảy, tám năm ở tù, Chí trở thành một con quỷ đáng sợ với hình dạng khủng khiếp, răng trắng bóng, trông ghê rợn. Hắn được xăm đầy những hình thù kỳ quái, bản tính của hắn đã hoàn toàn biến mất. Giờ đây, hắn chỉ biết gieo rắc tội ác. Nhà văn đã sử dụng cụm từ “ghê rợn” hai lần để mô tả sự kinh hãi và đánh dấu sự khác biệt giữa hắn và những người dân lành mạnh trong làng. Hành động tàn ác của Chí thể hiện rõ trong cuộc sống hàng ngày. Khi không được phép mua rượu, hắn lấy mảnh chai vỡ đập vào mặt ăn vạ kêu la. Hắn trở nên càng tàn bạo hơn khi trở thành công cụ của bá Kiến, sẵn sàng thực hiện mọi lệnh bắt đầu từ gã.
Ở đây, Nam Cao đã phát hiện ra một khía cạnh mới trong đời sống của người nông dân Việt Nam trước Cách mạng. Nếu chỉ dừng lại ở việc mô tả cuộc sống khốn khổ, đau đớn của họ thì đã có Tắt đèn, đã có Bước đường cùng,… Nhưng mới mẻ của Nam Cao là việc chỉ ra sự biến chất từ người tốt thành người xấu trong bản chất của người nông dân. Họ ban đầu là một bản chất đơn giản, chân thành, tốt lành và tự trọng. Nhưng với bàn tay tài năng và sắc bén, nhà văn đã tiết lộ thủ phạm của sự độc ác đứng sau những kẻ lương thiện bị biến chất. Đó chính là kế sách ác độc của kẻ cường hào cùng với bạo lực của chính quyền thực dân. Chính họ đã làm suy yếu tinh thần và biến đổi những trái tim mong manh, tốt lành.
Sự tốt đẹp còn tồn tại sâu trong tâm hồn của Chí Phèo như một tiềm thức, giống như mặt trời có thể bị che khuất nhưng không bao giờ tắt. Sau giấc ngủ dài, nó bắt đầu thức dậy, đẩy Chí Phèo trở lại con đường của người tốt lành.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của Chí Phèo. Thị Nở như một ánh trăng trong đêm tối. Tình yêu của Thị Nở như dòng sông êm đềm dưới ánh trăng, mang lại cho Chí sự sống lại và thức tỉnh bản chất tốt đẹp trong hắn. Tình yêu là một biệt dược, có khả năng làm lành những vết thương nặng nề nhất. Sự tỉnh giấc của Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở đầy sức sống. Thị Nở đã làm cho Chí nhận ra bản thân mình. Chí Phèo sống lại với mong muốn có một gia đình, một cuộc sống bình dị. Nước mắt và nụ cười trên môi Chí khiến quá khứ u ám tan biến. Chí mong muốn quay lại thế giới của những người tốt lành: “Hắn muốn làm hòa với mọi người”, và Thị Nở sẽ giúp hắn làm được điều đó.
Những bài văn đã làm sáng tỏ câu chuyện và đưa ra quãng đời u tối của Chí Phèo. Mỗi hành động, mỗi lời nói của anh đều đọng lại trong lòng người. Đó là lúc Chí Phèo nhận ra mục tiêu sống của mình, một mục tiêu nằm nơi mà xã hội chê trách và tẩy chay. Ước mơ giản dị ấy có thể khiến bất kỳ ai cũng phải suy ngẫm về giá trị của cuộc sống.
Nhưng bi kịch của Chí Phèo không dừng lại ở đó, khi Thị Nở từ chối lời cầu hôn của anh, coi anh như một kẻ không xứng đáng. Đó là cách nhìn của xã hội đối với Chí Phèo. Anh bị xã hội ruồng bỏ, tuyệt vọng. Chí Phèo đã chìm trong say rượu, điên loạn và cuối cùng, quyết định kết thúc cuộc đời mình.
Cách Nam Cao kết thúc cuộc đời của Chí Phèo không chỉ là một cái kết cho một nhân vật, mà còn là một lời tố cáo xã hội, một xã hội không công bằng, đã lấy đi quyền sống của những người lương thiện. Dù vậy, Chí Phèo không từ bỏ niềm tin vào sự thiện lương, anh thà chết còn hơn sống như một kẻ xấu xa.
Nam Cao đã giải thích nguyên nhân bi kịch của Chí Phèo thông qua cả mặt khách quan và chủ quan. Xã hội đã đẩy con người vào tình cảnh khó khăn. Những người lương thiện như Chí Phèo đã không còn lựa chọn nào khác ngoài con đường lưu manh. Nam Cao cũng để lại câu hỏi cho độc giả, liệu có ai đáp lại được ý muốn của Chí Phèo, của những người bất hạnh trong xã hội này.
Hình tượng Chí Phèo là một trong những biểu tượng đầy ý nghĩa, đầy cảm xúc trong văn học Việt Nam. Anh là biểu tượng cho sự khát vọng hoàn lương, cho cuộc cách mạng dân tộc và giai cấp. Đến ngày nay, Chí Phèo và những nhân vật tương tự vẫn là nhắc nhở cho chúng ta biết trân trọng hơn những gì mình đang có và cống hiến cho xã hội một cách tích cực.
Chí Phèo - Biểu tượng 3
Chí Phèo là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của văn học hiện thực Việt Nam thế kỷ XX. Nam Cao đã khắc họa một cách sâu sắc về cuộc sống nghèo khổ ở quê Việt trước Cách mạng, nơi mà những người dân hiền lành bị đẩy vào đường cùng và trở thành lưu manh. Chí Phèo là biểu tượng cho nhóm người này, một hình ảnh đặc trưng cho người nông dân nghèo bị bó buộc trong xã hội cũ.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, một tác phẩm đại diện cho văn học hiện thực Việt Nam. Nam Cao đã tái hiện lại cuộc sống ở làng quê Việt trước Cách mạng tháng Tám, nơi mà người dân chịu đựng nghèo đói và sự bóp méo từ phía xã hội. Chí Phèo là kết quả của một xã hội với những định kiến và quy tắc áp đặt từ các quan lớn. Anh sống trong môi trường đó và cuối cùng trở thành nạn nhân của nó.
Không có một tác phẩm nào trong văn học Việt có cách mở đầu đặc biệt như Chí Phèo của Nam Cao. Thay vì một mở đầu lãng mạn, câu chuyện bắt đầu bằng tiếng chửi, mô tả hình ảnh của Chí Phèo - một người trước đây là tốt bụng.
Chí Phèo không được mô tả như những nhân vật khác với những đặc điểm về hình dáng. Thay vào đó, anh được tái hiện thông qua hành vi và ngôn từ. Anh luôn xuất hiện trong tình trạng say rượu và chửi bới, tạo nên một hình ảnh độc đáo trong làng quê.
Tuy nhiên, khác biệt với những người say rượu thường ngày hay gây rối không lý do, Chí Phèo lại chửi một cách hợp lý, hợp lý đến lạ thường. Dường như tiếng chửi của anh, mặc dù nghe có vẻ vô lý, nhưng lại mang lại cảm giác logic, đúng đắn với một kẻ say rượu đang bất mãn với cuộc sống. Anh chửi từ những điều tổng quát nhất đến những điều cụ thể nhất, từ trời đến đất, từ làng xóm đến cá nhân, từ vô lý đến hợp lý. Chí chửi không ngừng, nhưng mọi người đều phớt lờ vì anh là một 'con quỷ' khiến ai cũng kinh sợ.
Nam Cao đã thành công khi chỉ cần vài từ chửi để tạo ra hình ảnh Chí Phèo. Chúng ta có thể tưởng tượng ra một kẻ lưu manh, rách áo, bị xa lánh, luôn say sưa và cô đơn. Chỉ những người như vậy mới có thể chửi đời, chửi trời, chửi cả làng mà không ai để ý. Nhưng sâu bên trong, chửi cũng là cách cuối cùng để Chí giao tiếp với cuộc sống, để anh nhận ra mình không cô đơn.
Sự xuất hiện của Chí Phèo làm chúng ta tò mò, vì sao anh lại trở thành người như vậy? Liệu anh đã từng là một kẻ nghiện rượu, một tên lưu manh từ khi sinh ra? Hoặc có lẽ, có lý do gì đó đã dẫn anh đến đây?
Chí Phèo - từng là một người lương thiện. Có ai nghĩ rằng một kẻ như Chí, một kẻ lúc nào cũng say sưa, lúc nào cũng làm việc xấu, lại từng là một người tốt lành không? Nhưng thực tế là vậy, Chí Phèo cũng đã từng là một người nông dân hiền lành, tốt bụng như bao người khác.
Chí Phèo mồ côi từ nhỏ, không ai biết hắn là ai. Anh được tìm thấy bên một cái lò gạch cũ, mặc một chiếc váy đụp. Mặc dù mất cha mẹ, nhưng anh được làng xóm yêu thương. Tình yêu thương ấy đã làm cho Chí trở nên tốt bụng, nhưng cuộc sống không dễ dàng với anh.
Dù là người lương thiện và hiền lành, Chí Phèo vẫn giữ lòng tự trọng như bao đấng mày râu khác. Khi bị gọi tới 'bóp chân' bởi bà Ba của Bá Kiến, anh cảm thấy nhục nhã nhưng vẫn làm theo miễn cưỡng. Anh có ý thức về nhân phẩm và tự tôn của mình, nhưng phải làm những việc không hợp lý khiến anh cảm thấy bất an.
Chí Phèo từng là người nông dân lương thiện như bao người khác. Anh có ước mơ, lòng tự trọng và ý thức đạo đức. Anh làm việc chăm chỉ, bằng mồ hôi và công sức của mình để sống. Nhưng cuộc sống trong tù đã thay đổi anh từ một người hiền lành thành một con người khác.
Chí Phèo đã trở thành một kẻ khác sau khi ra tù. Anh đã thay đổi hoàn toàn về ngoại hình và tâm tính. Nhưng liệu có ai nhớ đến người Chí Phèo trước kia, người hiền lành và chất phác?
Lý do Chí Phèo vào tù là do Bá Kiến ghen tỵ. Anh bị bắt vì một tội không phải của mình. Cuộc sống trong tù đã biến anh từ một người tốt bụng thành một kẻ khiếp sợ.
Sau khi ra tù, Chí Phèo đã thay đổi hoàn toàn. Anh không còn là người như trước nữa. Ngoại hình và trang phục của anh khiến mọi người sợ hãi. Anh đã trở thành một người khác, mất đi cái danh tính của mình.
Nhưng không chỉ làm thay đổi ngoại hình, nhà tù còn biến Chí trở nên gớm ghiếc và kinh hoàng trong mắt người dân. Chí đã từ một người làm việc chăm chỉ để kiếm sống thành một kẻ lưu manh chính hiệu, sống bằng cách cướp giật và hành nghề ăn vạ. Cuộc sống trong nhà tù đã cướp đi bản tính hiền lành của Chí.
Sau khi thất bại trong một lần ăn vạ, Chí trở thành tay sai cho Bá Kiến, tham gia vào các hành vi phạm pháp. Người dân xa lánh Chí, vì hắn đã bán linh hồn cho quỷ dữ. Chí đã mất đi cả danh tính và nhân tính.
Chí là nạn nhân của nhà tù thực dân và xã hội đương thời. Anh là ví dụ cho việc một người nông dân chân chất bị đẩy vào con đường xấu xa và mất đi lòng lương thiện. Nếu xã hội công bằng hơn, Chí có thể không đi vào con đường này.
Nam Cao đã thành công khi tạo ra hình ảnh đặc trưng của Chí Phèo, luôn sống trong say rượu và làm nghề ăn vạ. Hình ảnh này đã ghi sâu vào ý thức của thế hệ chúng ta, khi nghĩ đến ăn vạ, người ta thường nghĩ đến Chí Phèo.
Dù đã rơi vào con đường tội lỗi, nhưng Chí vẫn được Nam Cao cho một cơ hội mới thông qua Thị Nở. Mối tình này không chỉ hấp dẫn mà còn là một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo, nâng cao tầm vóc của tác phẩm.
Chí Phèo gặp được Thị Nở, phù hợp hoàn toàn với cái tên của anh ta. Thị Nở được mô tả là một người phụ nữ xấu xí và ngây thơ, đã vượt qua tuổi 30 mà vẫn độc thân vì vẻ ngoài xấu và ngu dốt. Khi Chí gặp Thị ngủ quên bên bờ sông sau khi uống say, họ đã có một mối quan hệ. Ban đầu, Thị chỉ thúc đẩy bản năng đàn ông trong Chí, nhưng sau đó, tình yêu và sự chăm sóc của Thị đã đánh thức bản tính lương thiện trong Chí, biến anh từ một con quỷ trở thành một con người thực sự.
Lần đầu tiên sau khi tỉnh dậy, Chí không say. Anh nhận ra rằng đã sáng từ lâu và nghe tiếng chim hót, tiếng cười từ chợ, tiếng gõ mái chèo của người đánh cá. Điều này làm anh nhận ra sự cô đơn và tuổi già của mình. Gặp gỡ với Thị Nở là một điểm sáng trong cuộc đời u ám của Chí, giúp anh nhận ra sự buồn bã và mất mát trong cuộc sống của mình.
Chí Phèo giờ đây tỉnh táo và nhận thức được những cảm xúc như lo sợ về tuổi già, bệnh tật và cô đơn. Anh đã trở lại với bản chất của mình và cảm thấy khao khát được sống một cuộc sống lương thiện. Khi nhận bát cháo từ Thị Nở, anh cảm thấy xúc động vì lần đầu tiên có ai đó chia sẻ với anh.
Tình yêu và sự chăm sóc từ Thị Nở đã làm Chí Phèo nhận ra giá trị của sự lương thiện và khao khát được sống cuộc sống đơn giản và chân thật. Anh mơ ước về một cuộc sống êm đềm cùng với Thị Nở, trong một xã hội thân thiện với những người lương thiện.
Chí Phèo đã trở lại với bản chất của mình dưới tác động của tình yêu và lòng nhân từ của Thị Nở. Anh khao khát được trở lại với cuộc sống của một người nông dân lương thiện và hy vọng vào một tương lai tốt đẹp hơn, nơi mà anh có thể sống hòa mình trong xã hội bằng phẳng và thân thiện.
Tác phẩm của Nam Cao thể hiện sức mạnh của tình yêu, biến con người trở nên tốt đẹp hơn dù gặp phải sự chế giễu và sự hắt hủi của xã hội. Thị Nở, một người phụ nữ xấu xí, đã làm thay đổi Chí Phèo từ một con quỷ trở thành một người có lòng nhân từ, điều này là một biểu hiện của tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Nam Cao đã tạo ra một câu chuyện về Chí Phèo với những tình tiết bất ngờ và không ngừng biến đổi. Mặc dù có vẻ như câu chuyện đã kết thúc, nhưng Nam Cao vẫn mở ra những khía cạnh mới.
Mặc dù nhiều người xem cuộc đời của Chí Phèo là bi kịch do số phận hoặc trò chơi của tạo hóa, nhưng thực tế không hoàn toàn đúng. Bi kịch thực sự của Chí là khi anh thức tỉnh và muốn bắt đầu lại, nhưng lại bị từ chối một cách lạnh lùng.
Sau khi tỏ tình với Thị Nở, Chí Phèo hy vọng sẽ có một cuộc sống gia đình êm đềm, nhưng đối mặt với định kiến xã hội, anh gặp phải sự từ chối đau đớn. Thị Nở, một phụ nữ đã qua tuổi, không chấp nhận cho Chí Phèo một cơ hội mới.
Định kiến xã hội về tuổi tác và tiền sử của con người đã làm mất đi hy vọng của Chí Phèo, đẩy anh vào bi kịch cuộc đời. Sự xấu xa của xã hội đã không cho phép anh được làm mới cuộc đời của mình.
Khi Thị Nở rời đi và từ chối Chí Phèo, anh nhận ra rằng xã hội sẽ không bao giờ chấp nhận anh. Anh chợt nhận ra mình đã hi vọng vô ích, không còn đường trở lại nữa.
Trong tuyệt vọng, Chí Phèo tìm đến rượu nhưng lại tỉnh táo hơn, cảm thấy đau đớn hơn với số phận của mình. Anh khóc cho cuộc đời đầy khổ đau và hy vọng được là người lương thiện một lần nữa.
Mặc dù trước đây anh đã định đâm chết Thị Nở, nhưng sau khi tỉnh táo, anh nhận ra sự đau khổ của mình và quyết định đối mặt với Bá Kiến để tìm lại nhân phẩm của mình.
Những người đã trải qua tuyệt vọng không thể trở lại con đường tội ác, và Chí Phèo cũng vậy. Anh quyết định kết thúc cuộc đời của mình để giữ lại linh hồn lương thiện.
Chí Phèo chết với niềm hy vọng cuối cùng là được sống là một người lương thiện. Câu hỏi cuối cùng của anh đặt ra cho Bá Kiến khiến mọi người đều cảm thấy xót xa và day dứt.
Cái chết của Chí Phèo và việc giết Bá Kiến mang ý nghĩa sâu xa. Việc này thể hiện sự trả thù vì những kẻ cường hào như Bá Kiến đã đẩy người nông dân vào tuyệt vọng, buộc họ phải bán linh hồn để sống. Chí Phèo chết trước ngưỡng cửa cuộc sống lương thiện, là bi kịch của người nông dân.
Nam Cao thành công khi vẽ hình Chí Phèo từ một người nông dân trở thành con quỷ. Ông cũng thành công khi tạo ra những mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội, làm sâu sắc nội tâm nhân vật.
Nam Cao tinh tế khi phản ánh nỗi đau của Chí Phèo và kết án chế độ phong kiến. Ông cũng kêu gọi cho số phận của người nông dân được cải thiện.
Chí Phèo là một kiệt tác trong văn học Việt Nam, đặc biệt là với tâm lý nhân vật được xây dựng rất tỉ mỉ. Nam Cao đã tạo ra một biểu tượng đầy ý nghĩa cho những người nông dân bị tha hóa trong xã hội.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 4
Chí Phèo – bi kịch của một người nông dân nghèo bị tha hóa trong xã hội cũ, một con người điển hình. Tình yêu Thị Nở giúp hắn thức tỉnh và thoát khỏi bi kịch.
Chí Phèo là kiệt tác của Nam Cao, vẽ nên bức tranh sống động về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8 với tất cả sự tăm tối và bi kịch.
Chí Phèo đại diện cho bi kịch của những người nông dân bị tha hoá trong xã hội cũ, nhưng họ vẫn giữ niềm khao khát sống lương thiện.
Chí Phèo sinh ra trong cái lò gạch cũ, lớn lên trong tình thương của người nghèo, nhưng lại trở thành con quỷ dữ của làng. Tình yêu và bi kịch gắn liền với cuộc đời hắn.
Nam Cao tài tình khi xây dựng tâm lý nhân vật, như lúc Chí Phèo tỉnh dậy và cảm nhận cuộc sống xung quanh lần đầu tiên.
– Khi những kỷ niệm xưa trỗi dậy, Chí Phèo ước mơ về một gia đình nhỏ, nơi anh chồng cày ruộng, vợ dệt vải... Dù chỉ là ảo mộng mơ hồ, nhưng cảm giác cô đơn và buồn bã tràn ngập anh.
+ Sự biến đổi tâm lí của một con quỷ hướng về hòa bình và lương thiện.
Trong truyện ngắn Chí Phèo, quá trình từ bị cự tuyệt quyền sống là một dấu hiệu đã bắt đầu từ lâu, diễn ra đồng thời với quá trình bị bóp méo. Tiếng chửi ngay từ đầu tác phẩm là minh chứng rõ ràng cho điều này. Chí Phèo tỏ ra tức giận với cuộc sống và xã hội, nhưng chỉ nhận được sự im lặng. Tình yêu của Thị Nở đã làm thức tỉnh anh, bắt đầu bi kịch thực sự.
Một Chí Phèo tỉnh đã tiêu diệt một Chí Phèo say mê. Anh đã chết về thân, nhưng trong lòng độc giả vẫn còn sống một Chí Phèo quyết tâm sống một cuộc sống lương thiện. Khi ý thức về nhân phẩm trỗi dậy, anh không thể chấp nhận cuộc sống cũ nữa. Chí Phèo chết trong bi kịch, trên ngưỡng cửa của sự trở lại. Điều này không phải là hành động của một tên lưu manh, mà là sự vùng lên của một người nông dân tỉnh lại. Đây là sự tố cáo sâu sắc về sự tha hóa của xã hội, và những bi kịch đó sẽ tiếp tục diễn ra.
Nhân vật Chí Phèo - Mẫu 5
“Chí Phèo” (1941) là một truyện ngắn đặc sắc của nhà văn Nam Cao viết về đề tài nông dân trước Cách mạng. Nó là một tác phẩm có thể 'làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời', đã đưa Nam Cao lên vị trí hàng đầu trong lớp các nhà văn hiện thực phê phán 1930-1945. Tác giả đã thành công trong việc tạo ra một nhân vật điển hình, nhân vật Chí Phèo, phản ánh một tấn bi kịch mang ý nghĩa sâu sắc nhất của văn học Việt Nam.
Bi kịch của Chí Phèo là câu chuyện về một nông dân bị đẩy vào con đường tội lỗi và lưu manh, bị từ chối quyền sống như một con người, hoặc nói cách khác, là số phận bi thảm của một con người muốn làm người mà không thể. Nam Cao đã miêu tả tấn bi kịch của Chí Phèo một cách sắc sảo và biến hóa, từ việc kể chuyện đến việc phê phán triết lý, từ cảm xúc đến đau đớn đầy nghệ thuật, gợi lên xúc cảm của độc giả suốt nửa thế kỷ qua.
Nam Cao không nói về sự tàn bạo của sự thu thuế, cũng không nói về sự tức giận, thay vào đó ông khám phá những khía cạnh mới về số phận của người lao động bị đè bẹp. Ông có cái nhìn sâu sắc, độc đáo về nỗi đau khổ đa chiều của người nông dân nghèo bị bóc lột trong xã hội thực dân phong kiến.
Chí Phèo gặp bất hạnh ngay từ khi mới sinh ra, 'trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp để bên cạnh lò gạch bỏ không'. Anh thả ống lương 'rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù', sau đó bị bán cho bác phó cối. Chí lớn lên trong cảnh bơ vơ, không cha mẹ, không người thân, không mái ấm, không mảnh đất nào để gọi là nhà. Đến khi 20 tuổi, Chí Phèo làm canh điền cho ông lí Kiến.
Cuộc đời thơ ấu và thanh niên của Chí Phèo có thể coi là 20 năm chịu đựng nhiều khổ đau không lối thoát. Bi kịch của anh bắt đầu từ việc bà Ba ông lí, dù còn trẻ nhưng 'lại cứ mệt mỏi, bắt anh bóp chân, xoa bụng, đánh lưng gì đấy'. Chí không phải là vật cản, nhưng anh cảm thấy xấu hổ và sợ hãi. Chỉ vì một chút ghen tuông. Bá Kiến đã kín đáo thống kế với quan lại để đưa Chí lên huyện, bắt anh phải ngồi tù bảy tám năm. Nhà tù thực dân đã biến Chí Phèo từ một nông dân lương thiện, hiền lành thành một tên lưu manh, một con quỷ trong làng Vũ Đại.
Bị giam trong nhà tù, Chí Phèo bỗng trở nên khác biệt. 'Cái đầu trọc lóc, răng trắng nhưng mặt thì đen nhưng đầy mạnh mẽ, đôi mắt đáng sợ.' Hắn mặc quần đen, áo vàng, cơ bắp cơ thể đã trở nên rắn chắc hơn, cả ngực và tay trổ hình rồng, phượng như của một vị tướng cầm chùy. Đó là hình ảnh của Chí Phèo khi hắn ngồi uống rượu và ăn thịt chó tại chợ từ trưa đến tối, cho đến khi say mèm. Hắn hành động dữ dội: đi thẳng đến nhà của Bá Kiến, chửi 'mồ mả tổ tiên đến đảo lên mất', đập chai vào cổng, rạch mặt, kêu gào. Chí Phèo trở nên cực kỳ tức giận và ngang ngược. Nhưng chỉ một buổi uống rượu, vài lời nịnh nọt, và một ít tiền mặt từ cụ Bá đã làm Chí Phèo hết sức vui vẻ. Hắn mơ hồ nhớ về việc mình 'còn có người thân' với Lí Cường! Mấy ngày sau đó, Chí lại gây hỗn loạn bằng cách đốt cháy quán rượu của bà mụ, và đến nhà cụ Bá để xin được giam vào tù 'vui quá!'. Chỉ sau sáu ngày từ khi Chí trở về làng, hắn lại đến nhà của Bá Kiến lần thứ hai để gây rối: 'Mặt đen lên, đôi chân không ổn định, môi bầm mà run rẩy'. Hắn đe dọa: phải giết một số người rồi cụ Bá mới bắt hắn vào tù. Cụ Bá cười, vỗ vai Chí Phèo một cái, khiến hắn như bị mê hoặc. Sau đó, hắn đến nhà của Đội Tảo để thu nợ cho cụ Bá. Không có vụ chém giết nào xảy ra. Chí Phèo rời đi với một ít tiền bạc, tự hào: 'Trong làng này, không ai sánh kịp với tôi'. Từ đó, Chí Phèo trở thành 'đầy tớ' của Bá Kiến. Hắn có một tổ ấm, năm sào đất ở bãi sông, mọi thứ đều thuộc về hắn khi hắn chỉ mới bảy hoặc tám tuổi. Nhưng từ đó, Chí mất hết phương hướng, trở thành tay sai trung thành của Bá Kiến. Hắn bán linh hồn mình cho quỷ, và không lâu sau đó, hắn cũng trở thành một con quỷ ghê tởm. Hắn chìm sâu vào tội lỗi và tăm tối. Hắn mất dần khả năng nhận biết thời gian, không biết mình đã sống bao nhiêu năm. Năm qua năm, tuổi qua tuổi, 'ba mươi tám hay ba mươi chín? Bốn mươi hay hơn nữa?'. Gương mặt của Chí Phèo giờ đây trở nên 'như gương mặt của một loài vật lạ' với màu 'vàng vàng mà lại muốn xám đi với bao nhiêu vết sẹo dọc và ngang', vết thương từ lần bị đánh. Cuộc đời hắn đầy gian nan và tội lỗi, 'bao nhiêu tội ác, độc ác, tàn bạo, bao nhiêu người đã bị hắn làm đau đớn để hắn có thể sống'.
Chí Phèo đã bị cả xã hội bỏ rơi. Thẻ xã của hắn không có trong sổ, người ta xem hắn như một người lạ, một người lưu tán không trở về làng từ lâu. Mọi người đều sợ hắn, 'tránh mặt mỗi khi hắn đi qua'. Hắn chửi rủa, nhưng ai cũng coi như 'nói cho bóng mặt nghe', giống như 'người say rượu hát'. Hình ảnh của Chí Phèo 'chửi rủa khi đi' tạo ra cảm giác kinh hoàng về bi kịch của một người điên khùng, mất trí đang trải qua cảm giác cô đơn và tuyệt vọng. Hắn chửi mãi, 'chửi cho đã' nhưng không ai đáp lại. Hắn bị bao quanh bởi sự tĩnh lặng kinh hoàng. Một lúc sau, mười họa 'ba con chó dữ đối diện với một người say rượu'. Hắn đã bị xã hội loại bỏ, không được coi là một con người.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh một hiện thực rất phổ biến ở nông thôn Việt Nam thời Pháp thuộc: nhiều người lao động lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường tội lỗi và lưu manh, họ phản kháng, làm liều mạng để tồn tại. Năm Thọ 'đầu bò đầu bướu' đi mất tăm, lại có Binh Chức trở về, Binh Chức chết và Chí Phèo xuất hiện. Có thể thị Nở không sinh ra Chí Phèo tại lò gạch? Các kẻ cường hào, một mặt làm người dân khốn khổ, mặt khác 'phải đối mặt với bọn đầu bò, những người sẵn lòng cầm dao đâm người hoặc chính họ'. Miễn là bọn hào lí, tàn ác, bóc lột dân lành tồn tại, thì người lao động lương thiện vẫn sẽ bị đẩy vào con đường tội lỗi và lưu manh, phải kiếm sống bằng cách giết người, đâm chém, cướp bóc. Xã hội đã lấy đi tất cả của họ, cả bộ mặt và linh hồn, phá hủy nhân tính và từ chối quyền làm người của họ. Nhân vật Chí Phèo là minh chứng cho cái hiện thực tàn bạo đó trong xã hội cũ.
Đoạn văn Nam Cao kể về chuyện Chí Phèo uống rượu với Tự Lãng là một tình tiết làm rõ thêm bi kịch cô đơn, điên khùng, đau đớn đến cùng cực của một kẻ bị xã hội cự tuyệt quyền làm người. Tự Lãng có “bộ râu lờ phờ”, làm nghề thầy cúng và hoạn lợn. Vợ chết đã bảy, tám năm con gái chửa hoang trốn đi. Lão cũng cô đơn như Chí Phèo. Như “đôi tri kỉ cuồng” uống rượu dưới trăng. Chúng uống sạch ba chai, “ngả vào nhau mà cười”. Say rượu, lão Tự “bò như cua”. Chí Phèo vật lão ra mà vuốt râu lão. Chí phanh ngực, vừa đi vừa gãi, lần đường tìm về mảnh vườn và cái lều của hắn. Chính trong đêm trăng ấy, Chí đang “bứt rứt quá, ngứa ngáy quá” thì hắn bắt gặp thị Nở đang nằm ngủ “cái mồm mụ há hốc lên trăng mà ngủ”. Chí Phèo đã xông tới người đàn bà “xấu ma chê quỷ hờn” đó một cách… Chí Phèo! Cuộc làm tình của Chí Phèo lúc đầu chỉ mang tính bản năng sinh vật ở một gã đàn ông say rượu với một người đàn bà ngoài ba mươi tuổi “ngẩn ngơ như những người đần trong cổ tích" mà thôi! Nhưng thật kì lạ, sau đó, sự chăm sóc giản dị đầy ân tình và sự yêu thương mộc mạc, chân thành của thị Nở đã đánh thức dậy bản chất lương thiện của người lao động trong kẻ từng rạch mặt ăn vạ và đâm thuê chém mướn này. Chí Phèo bị cảm, thị Nở đã “quàng tay vào nách hắn” và “hắn đu vào cổ thị, hai người lảo đảo đi về lều”. Bát cháo hành của thị Nở làm cho Chí Phèo gần như thay đổi hẳn. Lần đầu tiên hắn được nếm mùi cháo: “trời ơi cháo mới thơm làm sao!". Cũng lần đầu tiên hắn được chăm sóc bởi một bàn tay “đàn bà”. Mấy chục năm qua, hắn muốn ăn thì phải dọa, phải cướp, thế mà “lần này là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho”. Và cũng là người đàn bà độc nhất trong làng Vũ Đại nhận biết bản chất lương thiện của Chí Phèo. Thị nhìn Chí Phèo ăn cháo hành rồi thốt lên: “Ôi sao mà hắn hiền”… Chỉ có thị Nở mới cảm nhận được: “hắn cười nghe thật hiền…” mà thôi!
Đoạn văn miêu tả tâm trạng Chí Phèo sau đêm “gặp gỡ” thị Nở cho thấy Nam Cao là bậc thầy về nghệ thuật phân tích tâm lí nhân vật. Sự thức tỉnh của linh hồn trong Chí Phèo được tác giả kể lại thật xúc động, nhiều xót thương. Sáng hôm ấy, Chí Phèo tỉnh dậy “lòng bâng khuâng mơ hồ buồn”. Tiếng chim hót vui vẻ, tiếng người đi chợ cười nói, tiếng anh thuyền chèo gõ mái chèo đuổi cả… Những tiếng quen thuộc ấy hôm nào chả có, nhưng hôm nay Chí mới nghe thấy. Lòng hắn buồn “chao ôi là buồn!”, Lương tâm hắn bị lay động. Tiếng vọng của đời thường đã đánh thức linh hồn Chí. Hắn nhớ lại những ngày xưa, một thời từng mơ ước, cái ước mơ bình dị của những người dân cày nghèo khổ “có một gia đình nho nhỏ, chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải”, nuôi lợn làm vốn liếng, khá giả thì mua dăm ba sào ruộng. Càng hồi tưởng càng buồn càng lo âu. Ngoài bốn mươi tuổi đầu, Chí cảm thấy “đã tới cái dốc bên kia cuộc đời”, và hắn lo, hắn sợ “đói rét và ốm đau, là cô độc, cái này còn đúng sợ hơn đói rét và ốm đau”. Chí Phèo vừa húp cháo hành vừa trìu mến nhìn thị Nở, rồi hắn vẩn vơ nghĩ gần nghĩ xa. Lâu nay hắn chỉ đâm chém và cướp giật. "Nếu không còn sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì đã sao?". Thằng lưu manh “chỉ mạnh về liều”. Sẽ có một lúc nào đó “không thể nào liều được nữa” thì bấy giờ mới nguy!
Nam Cao đã cho chúng ta thấy, Chí Phèo vốn là một người lao động cùng khổ lương thiện “cái bản tính của hẳn ngày thường bị lấp đi”. Cùng với “tình yêu” sự săn sóc của thị Nở, “trận ốm thay đổi hắn về sinh lí, cũng thay đổi về tâm lí nữa” của Chí Phèo. Đó là một cái nhìn sâu sắc với tâm lòng xót thương đầy tình người của nhà văn này đối với những con người nghèo khổ, lương thiện bị xã hội xô đẩy vào con đường lưu manh, tội lỗi.
Linh hồn thức tỉnh, bản tính bị lấp đi dần dần lộ ra. Chí Phèo bỗng thấy “thèm lương thiện, muốn làm hòa với mọi người biết bao!”. Hắn khao khát được mọi người “sẽ lại nhận hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện". Đàn bà cũng như thị Nở “không có men như rượu”, nhưng Chí "say thị lắm!”. “Với một vẻ mặt rất phong tình”, hắn bảo thị Nở: “Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui”. Câu nói ấy là một câu nói “tình tứ”, đã biểu lộ chân tình cái khao khát muốn được làm người, “thèm lương thiện” và “muốn làm hòa với mọi người” của Chí Phèo. Có nghe hắn chửi, có nhìn thấy hắn rạch mặt, ăn vạ, có mục kích hắn say rượu vác dao đi đâm người… thì ta mới thấy xúc động vô cùng trước những khao khát, bình dị ấy của Chí Phèo, của con người đau khổ bất hạnh!… Câu trả lời của thị Nở sẽ quyết định số phận của hắn.
Như một kẻ chết đuối giữa vực sâu, Chí Phèo nhận ra rằng việc anh ấy nghĩ rằng đã bám vào thị Nở nhưng thực ra chỉ là giấc mơ hão huyền. Chí Phèo say rượu mặc dù, vào ngày thứ sáu, thị Nở đã quyết định ngừng tình cảm và muốn hỏi xem Chí Phèo có chắc chắn với tâm trạng của mình không. Con đường trở lại cho Chí Phèo dường như đã bị đóng lại ngay sau khi mới mở ra. Người phụ nữ đã làm thị Nở nghĩ rằng Chí Phèo 'như con ma dại'. Cô không muốn cháu mình 'kết hôn với một kẻ chỉ biết rạch mặt và ăn xin'. Mặc dù phản đối của bà, nhưng cách nhìn của bà cũng là cách nhìn chung của cả làng Vũ Đại đối với Chí Phèo. Ngoại trừ Bá Kiến và thị Nở, không ai dám đối mặt với Chí Phèo. Mọi người đều coi anh là một 'quỷ dữ'. Chí Phèo rơi vào tình cảnh đau đớn và cô đơn, và nỗ lực hòa mình với xã hội là vô ích. Anh 'ngạc nhiên' khi nghe thị Nở nói và đuổi anh đi. Anh 'ngớ người' khi cố gắng nắm tay cô nhưng bị đẩy ra và ngã.
Chí Phèo trải qua những cảm xúc tuyệt vọng và đau đớn. Anh đập đầu vào hòn đá và nghĩ đến việc giết thị Nở và mẹ cô ấy. Anh uống rượu để quên đi nhưng càng uống càng tỉnh táo, để cảm nhận sâu sắc nỗi đau của mình: quyền làm người đã bị xã hội từ chối. Cuối cùng, anh 'ôm mặt khóc nức nở' trước khi say mê và đi. Anh mang theo một con dao và nói lảm nhảm: 'Tao phải giết nó'. Trong buổi trưa nắng, Chí Phèo đến thăm Bá Kiến với ý định đòi lại quyền lương thiện của mình. Câu hỏi 'Ai cho tao lương thiện?' đẩy mạnh sự uất hận và đau khổ. Anh đã giết Bá Kiến và tự tử. Anh đã chết với lòng thức tỉnh về nhân phẩm của mình. Anh không thể sống như một kẻ lưu manh nữa, và quyết định rời bỏ cuộc sống này trong tiếng kêu gào đau đớn và oán trách.
Chí Phèo là biểu tượng của sự tha hóa ở nông thôn, một minh chứng cho sự tàn nhẫn của xã hội khiến người nông dân rơi vào cuộc sống đen tối, mất đi cả bản dạng và linh hồn của mình. Câu hỏi 'Ai cho tao lương thiện?' chứa đựng nỗi uất hận và đau đớn không thể nào giảm nhẹ. Trong những khốn khổ mà Chí Phèo phải chịu đựng, sự tha hóa của xã hội và những mâu thuẫn giai cấp trở nên rõ ràng. Truyện 'Chí Phèo' không chỉ đề cập đến tình cảm nhân đạo mà còn đặt ra câu hỏi triết học sâu sắc, đòi hỏi sự sáng tạo nghệ thuật đặc biệt, là một kiệt tác đích thực.
Chí Phèo - Một biểu tượng của sự tha hóa ở nông thôn
Khi đọc về Chí Phèo, người ta thấu hiểu rằng anh là biểu tượng của sự tuyệt vọng nhất của người nông dân trong một xã hội bị áp bức, bị hủy hoại từ cả nhân tính đến thân phận. Trong mọi nỗi đau khổ mà Chí Phèo phải chịu đựng, không thể không nhắc đến bi kịch bị từ chối quyền làm người của anh.
Chủ đề nhân đạo liên quan được thể hiện rõ trong tác phẩm Chí Phèo.
Chí Phèo trải qua một chuỗi bi kịch đau đớn, không có lối thoát. Sự cự tuyệt quyền làm người kéo dài, với mỗi bi kịch mới đều đau đớn hơn bi kịch trước đó.
Chí Phèo từng trải qua cuộc đời cô đơn và bế tắc. Dù được sinh ra trong hoàn cảnh khó khăn, anh vẫn khát khao có một gia đình bình thường, nhưng số phận không mỉm cười với anh.
Bá Kiến đã thúc đẩy Chí vào tù, nơi anh trở thành một người hoàn toàn khác biệt. Quyền tự do của Chí bị tước đoạt, biến anh thành một kẻ thù trong mắt xã hội. Anh trở thành công cụ của Bá Kiến, đắm chìm trong cơn say và bất lực.
Nếu không nhận ra cuộc sống trong khổ đau, con người sẽ khó lòng tìm được sự đỡ đau khi mất đi quyền tự do mà không hề biết.
Thị Nở từng là tia hy vọng nhỏ bé trong cuộc đời Chí Phèo, nhưng sau đó lại trở thành nguyên nhân khiến anh mất đi hy vọng. Xã hội tàn nhẫn không chấp nhận Chí là một người lương thiện, và Chí tự nhận lấy sự sống đau đớn hơn là sống đục dưới bóng tối.
Dù đã qua đời, nhưng Chí Phèo vẫn là biểu tượng của sức sống và giá trị nhân văn. Chí không chỉ đại diện cho những nỗi đau của người nông dân, mà còn là biểu tượng của sự khùng điên và tối tăm trong xã hội.
Bi kịch của Chí Phèo có nguyên nhân từ cả xã hội lẫn bản thân anh. Khi quyền con người bị xúc phạm, bi kịch của Chí trở thành biểu tượng của nỗi đau của toàn nhân loại.
Phân tích Chí Phèo rất sâu sắc
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 1
Nam Cao bắt đầu sáng tác từ trước năm 1940, nhưng chỉ sau khi truyện ngắn Chí Phèo xuất hiện, ông mới được biết đến như một tác giả thực tế nổi bật. Chí Phèo, như một dấu ấn khó quên, làm cho nhân vật này trở nên sống động và ám ảnh trong lòng người đọc.
Với tác phẩm Chí Phèo, Nam Cao đã chứng minh mình là một trong những tác giả hàng đầu của phong trào văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám 1945. Khác với những nhà văn khác, Nam Cao không chỉ tập trung vào việc phản ánh cuộc sống cực khổ của nông dân, mà còn nhấn mạnh vào nỗi đau của nhân văn bị tổn thương. Chí Phèo là minh chứng cho cái nhìn sâu sắc của Nam Cao về cuộc sống của người nông dân.
Chí Phèo, một thanh niên hiền lành và lương thiện, bị xã hội đẩy vào bước đường cùng. Mặc dù sống trong cảnh nghèo khó và thiếu thốn, nhưng Chí vẫn giữ vững bản nguyên bản thân mình. Tuy nhiên, với sự ghen ghét và tù đày, Chí đã biến thành một con người khác hẳn.
Sự ghen tuông và tù đày đã biến đổi Chí từ một người hiền lành thành một con quỷ của làng Vũ Đại. Đây là bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời anh. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa hơn là xã hội đương thời với những thế lực tàn ác luôn áp đặt lên những người nông dân yếu đuối như Chí.
Ra tù, Chí biến thành một người hoàn toàn khác, với tên gọi mới là Chí Phèo: Anh trở về làng, vẻ ngoài đã thay đổi, không ai nhận ra anh. Trông anh giống như thằng nào từ giang hồ ra, đầu trọc, răng cạo trắng, mặt đen và ánh mắt u ám. Anh mặc quần nái đen và áo tây vàng, ngực trần đầy hình xăm rồng phượng cùng với một tướng cầm chuỳ. Nhà tù thực dân đã biến anh từ một người hiền lành vô tội thành một kẻ lưu manh, côn đồ.
Trở về làng, Chí Phèo không còn hiền lành và nhẫn nhục như trước. Anh đã học được rằng để sống sót, phải trở nên dữ dằn và tàn ác. Anh thường uống rượu để trở nên tàn bạo hơn, thậm chí đâm chém người trong cơn say. Bá Kiến đã biến anh thành con dao trong tay đồ tể.
Chí Phèo là biểu tượng cho bi kịch của những người nông dân bị hủy hoại tâm hồn và nhân phẩm. Anh không nhận ra rằng mình đã trở thành một con quỷ, tàn phá nhiều mạng sống và hạnh phúc của người khác. Dân làng không ai muốn gần gũi với anh, họ coi anh như một kẻ đáng sợ.
Chí Phèo là minh chứng cho sự tàn ác của xã hội thực dân và đồng thời là biểu hiện của giá trị nhân đạo mới của Nam Cao trong việc nhìn nhận số phận của người nông dân.
Nam Cao đã lột tả một cách chân thực bi kịch tinh thần của người nông dân. Mặc cho sự biến chất của Chí Phèo, trong tâm hồn anh vẫn còn đèn lửa thiện lành và khát khao được làm người. Anh đứng giữa hai thế giới Thiện và Ác, và người ta chỉ nhìn thấy bản chất xấu xa của anh.
Khi tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn ao ước được hòa mình vào cộng đồng. Tình yêu với Thị Nở đã hồi sinh Chí Phèo, thức tỉnh lương tri và khát vọng làm người. Lần đầu tiên, hắn sợ cô đơn và muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm, những âm thanh quen thuộc vọng đến tai hắn, khiến hắn thèm được làm một con người bình thường và hy vọng Thị Nở sẽ mở cánh cửa cho hắn.
Nhưng cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Thị Nở - đại diện cho dân làng - từ chối anh. Từ hy vọng, Chí Phèo rơi vào tuyệt vọng và nhận ra số phận bất hạnh của mình. Hắn uống rượu để quên đi nỗi đau nhưng không thành công. Hắn muốn làm người nhưng cả làng Vũ Đại từ chối anh. Hắn không thể tiếp tục làm quỷ dữ khi ý thức về bi kịch của cuộc đời trỗi dậy.
Để cứu tâm hồn, Chí Phèo phải từ bỏ thể xác. Hắn chết để sống lại như một người lương thiện. Cái chết của Chí Phèo gây ám ảnh cho người đọc.
Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm sao để con người sống đúng với bản năng trong một xã hội tàn bạo?
Với truyện ngắn Chí Phèo, Nam Cao đã nâng cao tầm nhìn nhân đạo khi nhìn nhận người nông dân trước Cách mạng. Tác giả đi sâu vào bản chất con người và xây dựng nhân vật Chí Phèo rất độc đáo. Ý nghĩa xã hội của Chí Phèo vẫn còn sống động cho đến ngày nay, tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong văn chương Việt Nam.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 2
Trong việc đánh giá các tác phẩm của Nam Cao, Nguyễn Hoành Khung nhấn mạnh: “Trong việc viết về những nông dân, người đọc thường gặp những nhân vật thô lỗ và những tình huống nhục nhã. Mặc dù có những đặc điểm đó, nhưng chính những nhân vật này làm nổi bật sự hiện thực và quan điểm nhân đạo của Nam Cao.”
Chí Phèo là một trong những nhân vật có tính cách phức tạp, nhưng qua cách tác giả miêu tả và những khổ cực mà anh phải trải qua, giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm được thể hiện rõ nét.
Tuổi thơ của Chí Phèo bất hạnh: Sinh ra không biết cha mẹ, lớn lên trong cảnh cô đơn nhưng được lòng mọi người trong làng. Anh mang trong mình ước mơ nhỏ nhoi về một gia đình hạnh phúc.
Lớn lên, Chí Phèo trở thành chàng trai tốt bụng và có vẻ đẹp hoàn hảo. Nhưng sau khi làm việc cho nhà Bá Kiến và bị giam cầm vô tội, anh đã trở thành một người hoàn toàn khác biệt về cả ngoại hình lẫn tính cách.
Chí Phèo - Mặt Ấy
Sau khi rơi vào bẫy của Bá Kiến, Chí Phèo mất phương hướng và không biết ai là kẻ thù thật sự. Ông ta bị giam cầm vô tội, sau đó lại trở thành công cụ của kẻ thù. Cuộc sống của Chí Phèo tràn ngập bi kịch, ông chỉ biết làm những việc xấu xa và đánh nhau. Mặt mày hắn đã vùi sâu trong say sưa và hắn đã làm rất nhiều người khóc thương.
Cuộc đời Chí Phèo trôi qua trong những bi kịch, hắn không biết bao nhiêu tuổi mình là. Hắn đã phá hủy nhiều gia đình, đập vỡ nhiều hạnh phúc và gây ra biết bao nhiêu đau thương. Người ta tránh né hắn mỗi khi hắn đi qua, thậm chí chính hắn cũng quên mình là ai.
Tuy nhiên, trong tâm hồn của Chí Phèo vẫn còn chút ánh sáng lương thiện, chỉ cần một cơ hội nhỏ là có thể bừng sáng. Và cuộc gặp gỡ với Thị Nở cùng sự chăm sóc ân cần từ cô đã làm thức tỉnh phần đức tính tốt của Chí Phèo.
Chí Phèo - Mặt Ấy
Chí Phèo - Mối Hy Vọng
Hy vọng sống một cuộc sống lương thiện của Chí Phèo bị vùi dập khi Thị Nở bỏ rơi ông, chỉ vì lời nói của bà cô. Ông cảm thấy bị tổn thương sâu và nhận ra rằng không còn cầu nối nào mang ông trở lại với cuộc sống của những người lương thiện.
Từ những lời cuối cùng, mọi bi kịch nội tâm của Chí được tiết lộ. Ông thấy bản thân không thể trở thành người lương thiện và trở nên đầy căm hận. Dù ông nhận ra Thị Nở là kẻ gây ra nhiều bi kịch, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, ông vẫn biết ai mới là kẻ thật sự phải gánh chịu mọi bi kịch.
Cuối cùng, Chí đến nhà Bá Kiến và giết ông ta trước khi tự kết liễu cuộc đời mình. Trong bế tắc, ông chọn cái chết để kết thúc mọi bi kịch.
Chí Phèo - Mối Hy Vọng
Chí Phèo - Biểu Tượng của Người Nông Dân
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 3
Chí Phèo là tác phẩm vĩ đại nhất của Nam Cao về người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhà văn đã khắc họa một bức tranh chân dung của người nông dân gặp khó khăn, không có lối thoát. Sự biến đổi thành lưu manh là điều tất yếu, là cách giải thoát. Thông qua Chí Phèo, Nam Cao truyền đạt những giá trị nhân văn sâu sắc mà không thể quên.
Chí Phèo không bắt đầu bằng lời nói mà bằng tiếng chửi. Đó là tiếng chửi đau đớn, vật vã của một con người nhận thức bi kịch của mình. Chí chửi đời, chửi trời, chửi làng Vũ Đại và mọi người xung quanh.
Tiếng chửi của Chí Phèo được đáp lại bằng sự im lặng, tạo nên một bầu không khí đáng sợ. Chí đã bị đẩy ra khỏi xã hội của con người, nơi mà ông không còn được coi là con người.
Khi nhìn lại quá khứ của Chí, người đọc không thể kìm nước mắt trước số phận đáng thương của anh. Từ khi mới sinh ra, Chí đã bị bỏ rơi ở gần cái lò gạch cũ giữa cánh đồng phủ sương mù đêm đông. Sau đó, dân làng đã nhặt anh về nuôi nấng. Tuổi thơ của anh đầy bất hạnh, sống trong cảnh tủi cực, phải đi làm ở đâu đó, rồi lại chuyển sang nhà khác, và 20 tuổi thì phải làm công ở nhà Bá Kiến.
Đó là thời kỳ đẹp nhất trong cuộc đời Chí, bởi đó là thời kỳ của sự lương thiện, của những ước mơ tươi đẹp. Chí tự trọng, không thích những điều mà người ta cho là nhục nhã. Khi bị bắt làm việc không công bằng, Chí vừa làm vừa rùng mình, cảm thấy nhục hơn là vui. Chí cũng giống như bao người khác, anh cũng có ước mơ đơn giản: “có một gia đình nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải.”
Nhưng đớn đau là, xã hội bất công đã đè nén ước mơ đó của Chí khi còn non nớt. Một cơn ghen tuông của Bá Kiến đã đẩy anh vào tù. Tù nhân thực dân đã giúp lão Bá Kiến biến Chí Phèo từ một người nông dân lành lặn thành một tên lưu manh, một kẻ phạm tội.
Nhà tù thực dân đã phá hủy hình ảnh và tính cách của Chí. Sau khi ra tù bảy tám năm, Chí không còn là người canh tác hiền lành như trước. Trước mắt mọi người, anh trở thành một kẻ lưu manh với một dáng vẻ rất đáng sợ “đầu trọc, mặt đen, hai mắt nhìn gớm, ngực rộng, trên ngực có những hình xăm với một vị tướng cầm súng, cả hai tay cũng thế”.
Tâm hồn của Chí cũng bị xã hội hủy hoại. Giờ đây Chí Phèo, say sưa trong cơn say, đã trở thành công cụ đắc lực của Bá Kiến, phản bội lợi ích của dân làng Vũ Đại, đối đầu với những người lao động cần cù. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí trở thành “kẻ ác quỷ của làng Vũ Đại”.
Thật đáng tiếc, chỉ trong một thoáng chốc, Chí đã quên đi nơi mình được dưỡng dục và yêu thương. Giờ đây, Chí sống trong cơn say và máu, làm đau lòng bao nhiêu người lương thiện: “Hắn đã phá hủy bao nhiêu cảnh hạnh phúc, làm chảy máu và rơi nước mắt của biết bao nhiêu người lương thiện”.
Hắn làm những điều đó trong cơn say, ăn uống, ngủ nghỉ, thức dậy vẫn say… đánh đập, gây tổn thương, giết người trong cơn say để rồi lại chìm sâu vào say đắm không lối thoát. Chưa từng có lúc nào hắn tỉnh táo đủ để nhận ra sự tồn tại của mình bởi vì “những trạng thái say đắm của hắn trào dâng từ cơn này sang cơn khác, tạo nên những cơn say dài vô tận”.
Đó là cuộc sống bị ép buộc, ước mơ và khát vọng bị kìm hãm, người nông dân bần cùng bị biến thành kẻ lưu manh. Một cuộc sống tối tăm, không mảnh ánh sáng. Nhà văn dành cho nhân vật cảm thông, đầy cay đắng và đau đớn. Đó là vẻ đẹp của lòng nhân ái và tình yêu của nhà văn dành cho những số phận như Chí Phèo.
Nam Cao không trách móc Chí Phèo, ngòi bút của ông dành cho nhân vật vẫn đong đầy tình thương. Ông phát hiện ra sâu thẳm trong nhân vật là bản tính tốt đẹp, chỉ cần một chút yêu thương là có thể sống dậy, sống mãnh liệt. Sự xuất hiện của Thị Nở trong tác phẩm mang lại một ý nghĩa đặc biệt.
Con người có thể trở nên xấu đến “ma quỷ”, nhưng kỳ diệu là, ánh sáng duy nhất có thể soi sáng trong bóng tối của tâm hồn Chí Phèo, thức tỉnh bản tính nhân đạo nơi anh, làm sáng lên một trái tim đã ngủ quên qua bao ngày tháng đau khổ. Tình yêu ngắn ngủi với Thị Nở đã khơi dậy ngọn lửa cuộc sống trong lòng Chí một cách không ngờ.
Chí tỉnh giấc, ngạc nhiên trước ánh sáng rực rỡ, tiếng chim hót vang vọng, tiếng thuyền chài, tiếng lao xao của chợ… Những âm thanh quen thuộc mà hôm nay Chí mới nghe được.
Cuộc sống làm sống dậy ước mơ trai trẻ của Chí: “có một gia đình nhỏ, làm ruộng, dệt vải, nuôi lợn nuôi…”.
Trong giây phút tỉnh táo, Chí cảm thấy “tuổi già, đói rét, ốm đau và cô đơn – điều này sợ hơn đói rét và ốm đau”. Liệu Chí có hối hận về những hành động đã làm? Không biết, nhưng lòng hắn đầy buồn bã. Nếu không có Thị Nở, có lẽ hắn đã khóc.
Bàn tay nhân từ của Thị Nở và tình yêu của cô đã đánh thức một phần nhân tính trong Chí. Bát cháo hành đã giúp hắn tỉnh táo hơn. Nhìn bát cháo, lòng Chí đầy xúc động. Hắn ăn cháo hành và cảm thấy mãn nguyện với vị ngon.
Lần đầu tiên nhận được sự quan tâm của một người phụ nữ. Trước đây, chỉ có sự giật cướp và đe dọa. Bây giờ, sự quan tâm và tình yêu đã làm thay đổi hắn. Nhìn Thị Nở, hắn muốn khóc, cảm động đến mức “muốn làm nũng với Thị như làm nũng với mẹ…”
Chí Phèo được yêu thương, lòng anh tràn ngập tình yêu cuộc sống. Anh ấy khao khát sự hòa thuận và hạnh phúc cùng Thị Nở.
Nhờ tình thương của Thị Nở, Chí trở lại làm người, với tất cả năng lực của mình. Dù chỉ là tình thương dở hơi, nhưng cũng đủ để khơi dậy bản tính lương thiện trong Chí Phèo.
Thị Nở rời xa Chí Phèo, đành phải đối mặt với sự cô đơn. Chí nhận ra mình không thể quay trở lại với lương thiện. Cánh cửa trở về với xã hội loài người đã đóng lại.
Thị Nở là tia sáng cuối cùng trong cuộc đời tối tăm của Chí. Nhưng khi nó tắt, cuộc đời Chí chìm vào bóng tối. Xã hội thực dân đã cướp đi quyền tự do của Chí Phèo.
Chí tìm đến rượu, nhưng rượu không phải lúc nào cũng giúp anh quên đi. Uống rượu, Chí càng tỉnh táo hơn, nhận ra bi kịch của cuộc đời mình. Anh ôm mặt khóc khi nghe mùi cháo hành. Sự tỉnh táo đã đẩy Chí đến hành động bất ngờ, đến thẳng nhà Bá Kiến.
Chí hiểu rõ hơn bất cứ lúc nào: kẻ làm cho anh trở thành quỷ, kẻ gây ra khổ đau này là Bá Kiến. Sự căm thù đã từng giấu kín trong tâm hồn Chí, anh càng nhận ra tội ác của kẻ cướp đi quyền tự do, cướp đi bản ngã của mình. Chí Phèo đến nhà Bá Kiến, yêu cầu được làm người:
– Tao muốn trở thành người lương thiện– Ai cho tao làm người lương thiện?
Những câu hỏi này chứa đựng nỗi đau không tả được. Chúng là biểu hiện của nỗi đau sâu thẳm trong tâm hồn, là phản ánh của bi kịch cá nhân. Chúng gây tổn thương vào bộ mặt của xã hội không công bằng. Chúng làm đau lòng người đọc về sự đắng cay của cuộc sống trong xã hội cũ.
Sau khi trả thù Bá Kiến, Chí Phèo kết thúc cuộc đời mình. Cái chết bi thảm của Chí là lời kết án cho xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu gọi về quyền tự do và yêu thương: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người!
Chí Phèo là một tác phẩm kinh điển bởi nó chứa đựng tư tưởng và tình cảm lớn lao mang giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc từ tác phẩm của Nam Cao. Sự kết hợp giữa hiện thực sắc bén và tinh thần nhân đạo cao quý đã làm cho Chí Phèo trở thành một tác phẩm bất hủ, luôn có khả năng đánh thức trí tuệ và khơi dậy những cảm xúc tốt đẹp trong lòng độc giả mọi thời đại.
Phân tích về Chí Phèo - Mẫu 4
“Khi Chí Phèo bước ra từ trang sách của Nam Cao, ta nhận ra đây là biểu tượng tuyệt vời nhất cho khổ đau của người nông dân trong xã hội thuộc địa: bị áp bức, bị hủy hoại từ tâm hồn đến bề ngoài.” (Nguyễn Đăng Mạnh). Chí Phèo vẫn là một hiện tượng đặc biệt trong văn học và cuộc sống, là một sáng tạo độc đáo của Nam Cao, qua đó, hiện thực được phơi bày, tư tưởng được khai quật.
“Chí Phèo” đã làm cho tên tuổi Trần Hữu Tri trở thành Nam Cao. Dù là một nhà văn hiện thực đến sau, khi nền văn hóa nông dân đã được khai phá nhiều lần, Nam Cao vẫn tạo ra những tác phẩm tuyệt vời.
Theo tôi, “Chí Phèo” là tác phẩm sâu sắc nhất về người nông dân do tính hiện thực và tư tưởng của tác giả. Nam Cao đưa Chí Phèo vào trung tâm cuộc đời trong tình trạng say sưa và chửi rủa – một hình ảnh ấn tượng và gây ám ảnh: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, cứ rượu xong là hắn chửi.” Hắn – cách Nam Cao gọi Chí Phèo – là một kẻ đắm mình trong rượu và giao tiếp với đời bằng lời tục tĩu.
Tiếng chửi thô tục, từ chửi trời, chửi đời, đến chửi cả dân làng Vũ Đại, chửi bất cứ ai không chửi lại hắn, và kết thúc bằng lời chửi mẹ ai đã sinh ra hắn. Tiếng chửi như trở thành quy tắc sống của kẻ say, Nam Cao đã cho chúng ta thấy sự tồn tại cụ thể nhất của nhân vật, thấy được sự lưu manh trong con người hắn, và một phần trong bi kịch của Chí Phèo.
Trong lời chửi dường như có sự cô độc. Ở làng Vũ Đại, không ai đáp trả, chỉ có tiếng sủa của ba con chó dữ. Chí Phèo có bị xã hội lạnh lùng và xa lánh? Tại sao mọi người lại sợ hãi và tránh né Chí? Những câu hỏi mà Nam Cao đặt ra từ đầu truyện đã dẫn dắt ta đi sâu vào tìm hiểu về nhân vật…
Chí Phèo ban đầu là một thanh niên hiền lành, tốt bụng nhưng lại bị bọn hào hiệp ở làng Vũ Đại đẩy vào tình huống khó khăn nhất. Là đứa trẻ mồ côi từ khi mới sinh ra, Chí được một bác phó cối nhặt về nuôi. Bác phó cối qua đời, Chí buộc phải cố gắng tự lập, dọn đi từ nhà này sang nhà khác.
Không cha không mẹ, không đất đai, Chí lớn lên như một cỏ dại, không ai ban tặng cho một chút yêu thương. Dù không có gia đình, không được giáo dục, nhưng Chí vẫn biết phân biệt đúng sai, yêu thương và nhục nhã. Mỗi lần bị vợ của bác lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ cảm thấy tự ái chứ không phải tình yêu.
Giống như nhiều nông dân nghèo khác, Chí mong ước có một cuộc sống gia đình bình dị và ấm cúng: “Chồng cuốc làm ruộng, vợ dệt vải. Họ còn nuôi một con lợn làm vốn. Nếu có tiền, họ mua một ít ruộng để làm”. Nhưng tâm hồn thiện lương của Chí nhanh chóng bị nghiền nát và không thể nào hồi phục được. Đó là lúc Chí bị Bá Kiến giam giữ chỉ vì một cơn ghen tuông ngu ngốc, bi kịch lưu manh bắt đầu từ đó.
Sau khi ra tù, Chí đổi khác về hình thức và tính cách. Từ một người mạnh mẽ làm ruộng, Chí trở thành một con người “kỳ lạ như quái vật”, với “đầu trọc, răng trắng, mặt sần sùi, đôi mắt lạnh lùng. Mọi người coi hắn như một con quỷ. Sau ngày ra tù, hắn sống trong trạng thái say rượu. Ăn uống trong trạng thái say, ngủ trong trạng thái say, đánh nhau, tự gây thương tích, chửi rủa, đe dọa trong trạng thái say.
Càng đau đớn hơn, sự tha hóa không chỉ hiện lên bề mặt, mà còn đang từ từ ăn sâu vào tâm hồn khi Chí đã tự bán linh hồn cho Bá Kiến. Trở về làng Vũ Đại, một nơi nơi cuộc sống đầy bất công, cái mạnh lớn nuốt chửng cái nhỏ bé, Chí Phèo không còn là người hiền lành và kiên nhẫn như trước nữa. Hắn đã hiểu được luật lệ của cuộc sống: những người hiền lành thường bị bóc lột đến mức không thể gượng đầu lên được.
Để sống sót, cần phải trở nên dữ dằn, tàn nhẫn, và tàn bạo. Chỉ sau những lời mời dụ ngọt ngào của tên bạo chúa lộng lẫy như Bá Kiến, Chí đã trở thành một tay sát thủ, sẵn lòng giết người để kiếm sống. “Hắn không biết hắn đã phá hủy bao nhiêu cuộc sống, phá tan bao niềm vui, làm đổ bội nước mắt của bao người hiền lành”. Chí Phèo đã thực hiện đúng âm mưu của gia tộc Bá Kiến: “Dùng kẻ dại để loại bỏ kẻ dại”. Con người trong Chí dường như đã bị tiêu tán, và linh hồn quỷ ám đã chiếm lĩnh và hủy hoại hắn.
Tuy nhiên, chính từ bi kịch đó, ta thấy được bản chất, tấm gương của cả một xã hội – một xã hội thiếu nhân tính với những con người mất đi phẩm chất, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng gọi là “bầy chó”. Ở đó, có những kẻ ác bá như Bá Kiến nắm giữ quyền lực tuyệt đối, có thể kết thúc cuộc sống của những người hiền lành bất cứ lúc nào, có nhà tù của thực dân biến một người tốt thành một con quỷ, có những người như dân làng Vũ Đại bỏ mặc và từ chối một người như Chí Phèo.
Dường như Chí đã sa đọa và chìm sâu vào bi kịch của mình, nhưng Nam Cao vẫn giữ niềm tin và lòng nhân đạo khi “cố gắng hiểu” tâm hồn của một kẻ mà phần lớn đã bị áp đặt. Đó là lúc Chí gặp Thị Nở – một phụ nữ xấu xí và đầy oán hận của làng Vũ Đại. Sau một đêm với thị, Chí thức dậy và nhiều điều mới mẻ đã được khơi gợi. Hồi sinh ý thức về không gian, thời gian, về tình yêu và tiếng nói con người.
Lần đầu tiên trong đời, Chí nghe thấy “tiếng chim hót vui vẻ bên ngoài. Tiếng cười nói của những người đi chợ. Thuyền chài gõ nhẹ mặt nước khi đi săn cá”. Cũng lần đầu, hắn nhận ra tuổi tác của mình, và cảm thấy “đã già và cô đơn”, nhớ về quá khứ và những ước mơ trong tuổi trẻ, cũng như lo lắng cho tương lai “đầy cô đơn, đói khát và bệnh tật”. Con người ấy lần đầu tiên có những cảm xúc thật sự, thức dậy về tri thức và đạo đức.
Hắn biết sợ, biết hối cải trước bát cháo ấm, nhưng có đôi khi biết ăn năn về tội ác của mình. Bàn tay của một người phụ nữ đã giúp hắn trở lại con người lương thiện, để rồi Chí Phèo lại mong muốn được quay trở lại xã hội loài người.
Hắn tin rằng “Thị Nở sẽ đưa hắn trở lại”, rằng “Thị có thể làm cho mọi thứ trở nên tốt đẹp hơn”. Ước muốn của Chí trở lại làng là một nguồn động viên mạnh mẽ. Đôi mắt và lòng nhân từ của Nam Cao đã phát hiện ra mầm sống mới trong tâm hồn của một người lương thiện, bị xã hội đày đọa.
Tuy nhiên, hiện thực vẫn là hiện thực. Ngòi bút trung thực của Nam Cao đã nhắc nhở về sự tồn tại của những định kiến cổ hủ, khiến cho con người không thể sống yên bình. Một lần nữa, Chí Phèo gặp bi kịch khi bị bà cô Thị Nở từ chối hoàn lương. Lời phê phán của bà đã khiến Chí trở thành nạn nhân của lòng tham và thất vọng.
Sự phản đối của làng là một cản trở lớn đối với ước mơ hoàn lương và hạnh phúc của Chí Phèo. Trạng thái mơ màng và đau đớn đã khiến hắn trở thành một kẻ thực sự thương tâm và đáng tiếc.
Thị Nở ra đi, mở cánh cửa trở về xã hội loài người. Chí Phèo tìm đến kẻ thù lớn nhất của mình để tìm lại công bằng và chấm dứt cuộc đời. Cái chết là giải pháp tốt nhất cho Chí Phèo, để cả xã hội cảm thấy tỉnh táo và để câu hỏi “Ai sẽ dạy tôi làm người lương thiện?” vẫn đượm đầy ý nghĩa.
Để thành công trong việc phát triển nhân vật, không thể không nhắc đến tài nghệ thuật phân tích tâm lý tinh tế của Nam Cao, sự linh hoạt trong cấu trúc dựa trên tâm trạng và việc sử dụng độc thoại, đối thoại phù hợp. Ngòi bút của Nam Cao đã thể hiện một kiểu người, một số phận trong xã hội, khiến cho Chí Phèo vẫn là một cái tên nổi tiếng khi nhắc đến Nam Cao.
Phân Tích Chí Phèo - Mẫu 5
Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao đã ghi nhận một thành công xuất sắc trong việc miêu tả cuộc sống của người nông dân, là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của trào lưu hiện thực phê phán. Hình tượng Chí Phèo thành công chứng tỏ tài năng nghệ thuật độc đáo của Nam Cao và giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm này.
Bối cảnh hiện thực của truyện ngắn Chí Phèo là xã hội nông thôn Việt Nam nghèo đói trong những năm bốn mươi. Trong môi trường u ám này, nhiều người nông dân bị đẩy vào đường cùng, sống như lưu manh, không ít người phải chịu đựng những điều kinh khủng. Tính cách của Chí Phèo là biểu tượng cho những người trong thời đại đó.
Ngay từ khi xuất hiện, Chí Phèo đã được mô tả như một người thường chửi rủa khi say rượu. Sự lựa chọn này không phải là ngẫu nhiên. Chí Phèo chửi ai? Chí Phèo tức giận, chửi thề là phản ánh sự bất mãn với tự nhiên, với xã hội.
Chửi cả làng Vũ Đại, Chí Phèo thể hiện sự đối lập với quê hương. Chửi bất cứ ai không chửi lại, Chí tỏ ra đối lập với tất cả (vì không ai dám chửi lại hắn!). Chửi những ai đẻ ra hắn, Chí Phèo tự đối lập với nguồn gốc, tồn tại của mình. Việc tìm kiếm sự liên kết với xã hội chỉ thông qua lời chửi không thể thành công. Chí Phèo sống như một con vật. Điều đó làm cho cái cái chết của Chí Phèo trở nên cô độc và đáng thương. Mong muốn trở lại làm người của Chí Phèo bị từ chối mạnh mẽ, phản đối từ xã hội. Số phận đáng thương của Chí Phèo là minh chứng cho số phận của những người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Chí Phèo từng bị đuổi khỏi gia đình, cuộc sống, chỉ hy vọng vào lòng trắc ẩn của người qua đường. Ở Vũ Đại, Chí Phèo là “thằng khốn nạn hơn cả dân chúng; không cha không mẹ, không mảnh đất để dựa dẫm”. Cả cuộc đời Chí Phèo “không bao giờ được chăm sóc bởi một bàn tay phụ nữ”, thậm chí cả ước mơ sống chung với một người phụ nữ xấu đến ma chê quỷ hờn cũng không thể thực hiện được.
Chí Phèo tồn tại trong sự khinh bỉ và sợ hãi của mọi người. Và Chí Phèo cũng chết trong sự cô đơn. Không gì đau đớn hơn là khi chết mà không được một giọt nước mắt, chết mà người ta lại mừng! Ước mơ trở lại làm người của Chí Phèo bị từ chối thẳng thừng, phủ nhận từ xã hội. Số phận bi kịch của Chí Phèo là biểu tượng cho số phận của những người cố cùng dưới đáy xã hội cũ.
Hiện tượng Chí Phèo là một điều vô cùng đặc biệt nhưng không phải là ngẫu nhiên, cá biệt. Thông qua tính cách điên rồ, số phận bi kịch của Chí Phèo, tác phẩm đã phản ánh quy luật suy giảm con người của xã hội thực dân nửa phong kiến. Điều gì đã khiến Chí Phèo đi vào con đường tội lỗi? Ai đã biến Chí Phèo thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại?
Con quỷ dữ đó từng là một người hiền lành, tốt bụng. Từ khi còn nhỏ “bị đày khỏi nhà, cuộc sống, chỉ mong chờ vào lòng nhân từ của người qua đường” đến khi trưởng thành “làm việc cật lực cho ông Lí Kiến”, Chí Phèo đã sống cuộc sống lao động khó khăn của người nông dân ở nông thôn. Anh nông dân tốt bụng đó đã mơ ước một cuộc sống giản dị hạnh phúc trong công việc.
Một hình tượng sống động luôn là một “con người” (như Hêghen nói). Đó là một cá tính đặc biệt, rõ ràng, không thể nhầm lẫn. Hình tượng của Chí Phèo vừa mang tính tổng quát cao, vừa có sâu sắc phổ biến và đồng thời mang những đặc điểm riêng biệt. Ít ai có “lịch sử” đặc biệt như Chí Phèo.
Ít ai trải qua cuộc đời đầy bi kịch như người này. Chí Phèo là một cái tên rất đặc biệt từ khi sinh ra, lớn lên và cho đến khi qua đời. Chí Phèo độc đáo từ bên ngoài đến bản chất, từ cách nói chửi đến cách hành động. Một hình dạng không phải là con người hoàn toàn; cũng không phải là con vật, đầy những vết thương từ những lần ăn vạ. Một lối nói chửi điên cuồng, nỗi uất ức thật … Chí Phèo.
Thật đúng, từ cách uống rượu đến cách đốt nhà hàng khi không được uống, thậm chí là cách “nói ngọng” với Thị Nở và cách tấn công kẻ thù rồi tự kết liễu cuộc đời mình. Hình tượng của Chí Phèo để lại ấn tượng sâu sắc với người đọc. Mặt tiêu biểu, khái quát về số phận của Chí Phèo hiện lên qua những đặc điểm cụ thể, độc đáo của anh ta; ngược lại, những đặc điểm riêng, độc đáo trong tính cách của Chí Phèo phản ánh sinh động cảnh ngộ, số phận của một tầng lớp dân chủ nghèo.
Tuy nhiên, sự kết hợp hoàn hảo giữa sự chung và riêng ở hình tượng Chí Phèo không chỉ thể hiện ở đó. Trong việc xây dựng hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã nhận ra và tôn trọng bản chất tốt lành ở người nông dân nghèo. Phần sau của tác phẩm, nhân vật này được biểu hiện là một con người đang được tái sinh. Trong ngữ cảnh này, Chí Phèo là biểu tượng của sự chống đối mạnh mẽ và hy vọng, dù thất vọng, nhưng lại rất quý trọng ở tầng lớp lao động bị áp bức.
Năm ngày sống cùng Thị Nở như một tia sáng hiện lên trong cuộc sống tối tăm u ám của Chí Phèo trước khi anh qua đời. Cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên với Thị Nở (vận mệnh kỳ lạ dưới sự sắp đặt khéo léo của Nam Cao) không chỉ kích thích bản năng sinh lý của đàn ông mà quan trọng hơn, đã thức tỉnh người đàn ông thiện lương bị che lấp trong thế giới tăm tối của Chí Phèo.
Phần mô tả về quá trình tái sinh đầy xúc động của Chí Phèo và bi kịch đau đớn trong tâm hồn sau đó, khi anh trở thành điều tốt nhất trong tác phẩm Chí Phèo. Đó là bài hát về sức mạnh kỳ diệu của tình người, của tình yêu. Sự quan tâm chu đáo của Thị Nở, tôi hành nóng của Thị Nở thực sự đã mang lại hương vị ngọt ngào của tình yêu, khiến Chí Phèo biết khóc, biết cười như một con người.
Thị Nở không chỉ là tình yêu mà còn là lối sống, là cây cầu dẫn Chí Phèo trở lại xã hội bằng phẳng, thân thiện của con người. Để thấu hiểu niềm vui tái sinh của Chí Phèo, để thấu hiểu vai trò quan trọng của Thị Nở, ta phải cảm nhận được nỗi đau, sự tuyệt vọng của Chí Phèo khi cây cầu đó bị “rút ván” đột ngột.
Khi Thị Nở đột ngột quay lưng, Chí Phèo ban đầu không hiểu vì anh đang “say” với nguyện ước trở lại làm con người. Khi hiểu ra, Chí Phèo với cảm giác uống rượu. Nhưng lạ thay, càng uống lại càng tỉnh, “Tỉnh ra, chao ôi, buồn! Hơi rượu không sặc sụa, hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo nành. Hắn ôm mặt khóc rưng rức …”. Có lẽ, trong cuộc đời hơn bốn mươi năm của Chí Phèo chỉ có một lần khóc như thế!
Người đàn ông khốn khổ đến lúc này mới được thưởng thức hương vị cháo hành thì không thể nào quên … Không thể trở lại làm quỷ dữ nữa, Chí Phèo đành phải đối mặt với cái chết. Nhưng trước khi chết, phải trả thù kẻ thù thật sự của mình! Rốt cuộc, một Chí Phèo tỉnh đã giết chết một Chí Phèo say.
Chí Phèo đã chết nhưng trong tâm trí người đọc, anh vẫn còn sống, đòi lại quyền sống, đòi lại lương thiện. Sự mô tả về quá trình hồi sinh rồi bị từ chối quyền trở lại làm con người để đến hành động trả thù, tự sát mạnh mẽ của Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện một cái nhìn nhân đạo sâu sắc về con người.
Trong văn học hiện đại Việt Nam, Chí Phèo là một hình tượng độc đáo không thể phủ nhận. Cuộc đời đầy bi kịch, đau thương của Chí Phèo là biểu tượng cho số phận thảm hại của những người nông dân bị bần cùng, bị biến thành lưu manh mà không có lối thoát trong xã hội cũ, dưới sự áp bức tàn bạo, xảo quyệt của giai cấp thống trị.
Với hình tượng văn học kinh điển này, Nam Cao đã lên tiếng lật tẩy bản chất tàn ác của cơ chế xã hội đè nặng, làm hủy hoại con người, đồng thời thể hiện niềm tin sâu sắc vào bản chất tốt đẹp của con người.
Phân Tích Chí Phèo - Mẫu 6
Nam Cao là một trong những tác giả nổi bật nhất trong thời kỳ 1945 – 1954. Dưới bút tích cực của mình, ông đã minh họa một cách vô cùng chân thực về cuộc sống, số phận và những nỗi đau của người nông dân. Các tác phẩm như Chí Phèo, Lão Hạc, Một bữa no... là điển hình cho điều này.
Có một điểm chung trong các tác phẩm của ông là sau khi kết thúc, độc giả vẫn có thể cảm nhận rõ ràng những nỗi đau của con người trước cách mạng tháng Tám, vẫn còn ẩn hiện đâu đó, và từ đó, giá trị nhân văn mà tác giả muốn truyền đạt qua từng tác phẩm cũng được thể hiện rõ ràng.
Chí Phèo là tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Nam Cao, nói về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Từ hình tượng nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã tài tình tái hiện một hình ảnh bi thương của người nông dân bị tha hóa đến mức tột cùng bởi xã hội thực dân phong kiến đầy thối nát, khiến họ không còn lối thoát nào ngoài cái chết.
Chí Phèo không xuất hiện một cách bình thường, người ta nhận ra anh ta qua cách anh ta chửi bới: “Anh ta đi đâu cũng chửi… Chí 'chửi đời, chửi trời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi mọi người'. Tiếng chửi đó chính là 'thuốc giảm đau' của Chí giữa cuộc sống khó khăn ấy. Anh ta chửi người ta mà không ai đáp trả.
Anh ta chửi để thể hiện sự đau đớn mà cuộc sống gây ra. Chửi cũng là một cách giao tiếp, nhưng anh ta chỉ nói một mình, giữa đám đông, ai cũng tránh xa anh ta, bỏ anh ta một mình, như cách mà anh ta bắt đầu cuộc đời từ khi còn nhỏ.
Nhìn lại cuộc đời của Chí Phèo, từ khi mới sinh ra đã bị bỏ rơi, lớn lên nhờ sự che chở của làng Vũ Đại, sau đó trở thành anh tá làm ruộng với ước mơ bình thường như mọi người, nhưng lại bị Bá Kiến giam vào tù. Khi trở về làng Vũ Đại, Chí đã không còn là chính mình nữa. Anh ta bị hủy hoại từ bên trong và bên ngoài. Không còn ai nhận ra Chí của ngày xưa, là người hiền lành, đơn giản, bây giờ chỉ còn là thằng Chí Phèo, thích gây rối với mọi người, uống rượu say sưa, và suốt ngày chửi bới…
Bây giờ người ta nhìn thấy anh ta như thế nào? Một tên lưu manh với vẻ bề ngoài ghê gớm, “cái đầu trọc, khuôn mặt đen và cứng nhắc, hai mắt gầm gừ, trông rất sợ người… ngực lấp ló với những hình xăm rồng phượng và một người tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế.
Nhà tù thực dân như một cảnh địa ngục trần gian thực sự, biến một người nông dân hiền lành và tốt bụng như Chí trở thành một kẻ lưu manh đáng ghét như 'quỷ dữ của làng Vũ Đại'. Làng Vũ Đại, từng che chở hắn, giờ đây đều căm ghét hắn. Hắn hận, hận cuộc sống và xã hội, yêu thương từng bước đẩy hắn vào bước đường tuyệt vọng.
Từ đó, Chí Phèo sống trong rượu và máu, trong nước mắt của những người dân bất hạnh: 'Hắn đã phá hủy biết bao nhiêu cảnh hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người dân vô tội'. Hắn làm điều đó trong cơn say, ăn uống, ngủ, thậm chí thức dậy vẫn còn say... đánh đập, cắt rạch, giết người trong tình trạng say để rồi lại say vào say mãi mãi.
Nam Cao đã vô cùng tài tình khi đưa Chí Phèo trải qua mọi đau khổ này, để người đọc cảm nhận được tình cảm với xã hội khắc nghiệt thời đó. Có lẽ Chí đáng được thương hơn là trách. Anh ta đáng được sự thông cảm hơn là sự xa lánh.
Bút của Nam Cao vẫn dành tình yêu cho nhân vật của mình. Ông vẫn để Chí Phèo cảm nhận được tình yêu. Tình yêu dành cho Chí qua mọi phẫn nộ mà xã hội mang lại.
Sự hiện diện của nhân vật Thị Nở trong tác phẩm có ý nghĩa rất đặc biệt. Kẻ xấu xa, ghen tị đó lại là nguồn hy vọng cho Chí đến với sự lương thiện. Lần đầu tiên trong cuộc đời, Chí tỉnh giấc. Bất ngờ nhận ra ánh sáng ngoài kia, nghe tiếng chim hót vui vẻ, tiếng thuyền chài đánh cá trên sông, tiếng ồn ào của người mua bán ở chợ...
Những tiếng vang đó ngày xưa đã tồn tại. Nhưng hôm nay, Chí mới nghe thấy. Buồn thay! Cuộc sống đã đánh thức trong tiềm thức xa xôi của Chí những ước mơ xưa: 'có một gia đình nhỏ. Chồng cày ruộng, vợ dệt vải. Họ nuôi một con lợn để làm vốn. Khá giả mua ruộng để làm'. Rồi trong phút tỉnh táo ấy, Chí đã nhận ra 'tuổi già, đói đẹt, ốm đau và cô đơn - điều này đáng sợ hơn cả đói đẹt và ốm đau'
Bao ước mơ tuổi trẻ dần trỗi dậy trong Chí, anh nhận ra mình cũng muốn yêu và cần được yêu, cần những điều bình dị như mọi người. Và bàn tay ân cần của Thị Nở cùng với tình yêu của cô đã thức tỉnh phần người trong Chí. Bát cháo hành là 'liều thuốc giảm đau' giúp Chí thức tỉnh. Nhìn thấy bát cháo, lòng Chí Phèo đầy xúc động và suy tư.
Anh ấy ăn cháo hành và cảm thấy mãn nguyện với hương vị ngon lành của nó. Có lẽ đây là lần đầu tiên anh ấy được một người phụ nữ chu toàn. Trước đây chỉ biết giật cướp và đe dọa. Hôm nay, bàn tay ân cần và tình yêu đã làm cho anh thay đổi. Nhìn Thị Nở, anh ấy muốn khóc, anh ấy cảm động và 'anh ấy cảm thấy mình như một đứa trẻ, muốn nũng nịu với Thị như với mẹ… Ôi, anh ấy thật là hiền lành'.
Vậy là, chỉ có tình yêu mới có thể khiến Chí trở về làm Chí, làm người nông dân hiền lành như ngày nào. Chỉ có bát cháo hành của Thị Nở mới có thể làm cho Chí tỉnh táo. Suốt nhiều năm qua, Chí chưa từng thực sự cảm thấy mình là chính mình như lúc này. Sức mạnh của lòng vị tha, của tình yêu con người, đó là điều vô hình nhưng lại vô cùng to lớn
Tuy nhiên, hạnh phúc nhỏ nhoi cuối cùng cũng không mỉm cười với Chí. Thị Nở vừa mang lại hi vọng thì cũng là lúc cuộc đời Chí đối mặt với những thử thách. Bà của Thị Nở, biểu hiện của định kiến xã hội, đã đến và lấy đi phần lương thiện cuối cùng của Chí.
Chao ôi, thật đáng thương cho Chí đến cùng!!! Rượu ngon hay những lời chửi thề cũng không làm giảm đi nỗi đau của hắn. Hắn nhớ, nhớ mùi vị cháo hành của Thị Nở, rồi hắn ôm mặt khóc đắng. Xã hội ấy, đến cuối cùng vẫn cướp đi những hy vọng cuối cùng của hắn để trở về con đường lành mạnh.
Phẫn uất, Chí cầm dao, định đến nhà Thị Nở. Trong ý định, Chí còn muốn tấn công nhưng ý thức về thân phận và bi kịch đã khiến hắn đổi ý, dẫn hắn đến nhà Bá Kiến. Trong lúc đó, Chí nhận ra, kẻ đã lấy đi tất cả của hắn chính là Bá Kiến. Hắn cướp đi tuổi trẻ của một người nông dân chất phác. Cướp đi cuộc đời của Chí, để lại cho hắn một thân hình ma quái và một tâm hồn không còn nguyên vẹn.
– Tao muốn trở thành người lương thiện
– Nhưng ai cho tao làm người lương thiện?
Câu hỏi đó như xoáy sâu vào lòng người. Khi gấp lại trang sách, chúng ta vẫn còn chìm đắm trong suy tư. Phận người trong xã hội cũ, sống trong hàng ngàn khó khăn, bị tha hóa, bị đè nén, bị mất đi nhân cách và phải tự kết liễu cuộc sống là lối thoát duy nhất.
Nam Cao đã mang lại sự kết hợp sâu sắc giữa hiện thực đau thương và nhân đạo tinh tế trong tác phẩm Chí Phèo. Bằng ngòi bút sắc sảo nhưng đầy nhân văn, ông đã phản ánh rõ những đau khổ của tầng lớp xã hội thời đó, nhưng vẫn chứa đựng sự đồng cảm sâu sắc.
Chí Phèo của Nam Cao là một trong những tác phẩm gây tiếng vang lớn nhất từ thời đó đến nay. Hình ảnh của Chí Phèo đại diện cho hàng trăm số phận khác nhau, dù đầy đau thương nhưng vẫn xứng đáng được yêu thương.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu 7
Trước Cách mạng tháng Tám, nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán về số phận người nông dân đã ra đời như Tắt đèn của Ngô Tất Tố với chị Dậu, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan với anh Phan,... và không thể không nhắc đến Nam Cao với hàng loạt tác phẩm xuất sắc về người nông dân Việt Nam. Trong số đó, nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên nổi bật.
Chí Phèo từng là một thanh niên hiền lành, lương thiện, là đứa trẻ bị bỏ rơi từ khi mới lọt lòng. Hắn được nuôi dưỡng bởi một bác phó ciu, nhưng sau khi bác phó qua đời, hắn trở nên cô đơn và khao khát tình thương. Cuộc đời Chí thay đổi khi hắn bị Bá Kiến đẩy vào con đường tội ác chỉ vì sự ghen tuông bạo lực.
Khi Chí ra tù, hình ảnh của anh biến đổi hoàn toàn, nhân cách bị biến dạng đến mức kinh hoàng. Từ một chàng trai khỏe mạnh và hiền lành, Chí trở thành một người 'đặc biệt như thằng săng đá', với 'đầu trọc lóc, răng cạo trắng, khuôn mặt căng tròn, ánh mắt sắc bén'. Mọi người coi Chí như một quỷ dữ, xa lánh anh, và anh bị trục xuất khỏi mọi nơi. Chí chìm sâu vào những trạng thái say sưa, ăn uống và ngủ nghỉ trong trạng thái say, thậm chí anh còn tự tổn thương bản thân, gây rối, đe dọa mọi người. Quay trở lại làng Vũ Đại, nơi đầy đất quần đấu đá, đổ đường, con người bị đè nén đến thở không nổi, Chí Phèo không còn sống hiền lành như trước. Anh trở nên hung dữ, tàn bạo, và chỉ cần lời dụ dỗ của tên địa chủ tàn bạo như Bá Kiến, Chí đã trở thành một kẻ thuê nợ, một tay giết người thuê, thực hiện mọi việc mà không sợ ai. Chí làm theo kế hoạch của cha con nhà Bá Kiến là 'Dùng một kẻ thối để xử lý những kẻ thối'. Dường như Chí của ngày xưa đã chết đi, Chí hiện tại không khác gì một con quỷ hung ác, một linh hồn độc ác đang phá hoại bên trong Chí Phèo.
Mỗi chi tiết tiếp tục làm rõ hơn bản chất của xã hội lúc bấy giờ - một xã hội thiếu nhân đạo với những người không biết yêu thương, một xã hội mà Vũ Trọng Phụng miêu tả như 'chó đểu'. Những người địa chủ như Bá Kiến nắm giữ toàn bộ quyền lực, thậm chí có thể quyết định số phận của người khác, khi cuộc sống của con người không được đảm bảo.
Trong từng chi tiết, Nam Cao đã khắc họa một Chí Phèo có tính cách phức tạp, và thể hiện rõ sự thay đổi của anh. Khi gặp Thị Nở, Chí bắt đầu nhận ra giá trị của tình người và hiểu ra rằng anh còn một phần tốt đẹp trong bản thân. Qua đêm đó, Chí nhận ra ý nghĩa của cuộc sống và cảm thấy hạnh phúc khi được sống bình yên. Chí tràn đầy hy vọng vào một cuộc sống mới và tin rằng Thị sẽ là người dẫn đường cho anh. Sự hi vọng và mong muốn hoàn lương lại nhen nhóm trong anh, và anh dần thức tỉnh ra khỏi trạng thái đau khổ và hỗn loạn.
Tuy nhiên, hiện thực vẫn cứng nhắc, và Nam Cao không thể thoát khỏi những định kiến và tư tưởng cũ kỹ của xã hội. Dù mong muốn hoàn lương, Chí lại bị từ chối và rơi vào tình cảnh đau khổ hơn khi Thị Nở từ chối anh. Trong trạng thái say sưa và yêu đương, Chí trở thành một người tội nghiệp và đáng thương. Việc Thị Nở quay lưng cũng là lúc cánh cửa hoàn lương của Chí đóng lại. Anh trở lại trạng thái say sưa và tìm đến Bá Kiến, người đã hủy hoại cuộc sống của mình, để trả thù và kết thúc cuộc đời mình. Mặc dù cái chết là bi kịch, nhưng nếu sống trong một xã hội với những giá trị đạo đức bị đảo lộn, cái chết có thể là lựa chọn tốt nhất để bảo vệ lương tri và lương tâm của mình. Cái chết của Chí là một sự thức tỉnh, một cách để chứng minh sự thối nát của xã hội. Câu hỏi 'Ai cho tao lương thiện?' vẫn còn đọng lại và gây ám ảnh không nguôi.
Để tạo nên một 'Chí Phèo' thành công, ngoài nội dung, ý nghĩa của tác phẩm, còn cần phải xây dựng nhân vật một cách rõ ràng, phân tích tâm lý, sử dụng ngôn ngữ một cách linh hoạt và thể hiện thông điệp một cách sâu sắc. Bằng ngòi bút hiện thực, Nam Cao đã mang lại cho độc giả những cảm xúc chân thực nhất, và có lẽ vì vậy mà khi nhắc đến Nam Cao, người ta sẽ luôn nghĩ đến Chí Phèo trước tiên.
Nhân vật Chí Phèo trong trang văn của Nam Cao đã phản ánh đời sống khó khăn, đau đớn của người dân nông thôn trước cách mạng tháng 8 một cách sâu sắc.
Một phân tích chi tiết về Chí Phèo
Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao viết về cuộc sống của người nông dân trước cách mạng tháng 8, là một tác phẩm nổi bật trong văn học Việt Nam.
Chí Phèo là một kiệt tác của Nam Cao, mô tả cuộc sống khó khăn của người dân Việt Nam trước cách mạng tháng 8 với sự tăm tối và đau đớn.
Nam Cao không đi sâu vào các vấn đề về thuế mà tập trung vào số phận của người lao động bị áp bức trong xã hội thực dân.
Nhân vật Chí Phèo đã để lại ấn tượng mạnh mẽ với độc giả từ cách mô tả của Nam Cao.
Cuộc đời đầy bi kịch của Chí Phèo bắt đầu từ việc bị bỏ rơi và trải qua nhiều khó khăn trong xã hội khắc nghiệt.
Số phận lênh đênh của Chí Phèo và cuộc đời khổ cực của người nông dân trước cách mạng tháng 8 đều là biểu hiện của sự thực về đời sống vật chất và tinh thần của họ.
Bị lợi dụng và bị giam giữ trong nhà tù, Chí Phèo trở thành nạn nhân của sự hủy hoại của xã hội thực dân.
Tính tốt của Chí Phèo đã bị xã hội thối nát biến đổi, từ một người lương thiện thành một kẻ bị lợi dụng và đánh mất lòng tự trọng.
Sau một thời gian dài ở tù, Chí Phèo trở về làng Vũ Đại nhưng đã biến thành một kẻ đầy ác ý và đáng sợ.
Nam Cao đã đưa ra một cái nhìn sâu sắc về cuộc sống của người nông dân Việt Nam, với việc phát hiện ra sự lưu manh hóa và tha hóa trong xã hội khắc nghiệt.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã làm cho Chí Phèo tìm lại được bản nguyên của mình và có hy vọng vào một cuộc sống tươi đẹp hơn.
Những giọt nước mắt và nụ cười của Chí Phèo đã thể hiện lòng chân thành và mong muốn hòa bình, sống hạnh phúc bên gia đình.
Những trang văn này đã làm sáng tỏ cho cuộc đời tăm tối của Chí Phèo và truyền đạt một thông điệp ý nghĩa về giá trị của cuộc sống đối với mỗi con người.
Sau khi trở về làng Vũ Đại, cuộc sống của Chí Phèo vẫn tiếp tục bi kịch khi tình cảm với Thị Nở không được chấp nhận.
Chí Phèo đối diện với sự tuyệt vọng trong cuộc sống và cuối cùng đã quyết định kết thúc mọi đau khổ bằng cách tự kết liễu mình.
Kết thúc câu chuyện, Chí Phèo không chỉ là nạn nhân của xã hội thối nát mà còn là biểu tượng cho lòng tin vào sự tốt đẹp trong con người.
Tác phẩm của Nam Cao gợi lên sự thương cảm sâu sắc đối với những số phận bị tha hóa trong xã hội đầy bất công và khốn khổ.
Hình tượng của Chí Phèo cùng với những nhân vật khác trong văn học Việt Nam là lời nhắc nhở về cần phải đấu tranh cho quyền sống và quyền làm người của mỗi cá nhân.
Phân tích về nhân vật Chí Phèo - Mẫu 9
Nam Cao là một nhà văn hiện thực lớn, người có tấm lòng nhân đạo cao cả. Tác phẩm 'Chí Phèo' của ông là một minh chứng cho sự tài năng và tầm nhìn sắc sảo về hiện thực xã hội.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí Phèo và Thị Nở đã làm cho Chí tỉnh rượu, hiểu rõ hơn về bản thân và ước mơ về một cuộc sống đơn giản, hạnh phúc.
Sự chăm sóc của Thị Nở đã khiến Chí Phèo cảm thấy ngạc nhiên và xúc động, khiến hắn khóc trong niềm vui và bất ngờ.
Cuộc gặp gỡ với Thị Nở đã đánh thức lại lòng nhân từ và ước mơ bình dị trong con người Chí Phèo, khiến hắn cảm thấy ngạc nhiên và xúc động.
Đây là lần đầu tiên Chí nhận được sự chăm sóc từ một người phụ nữ, điều hiếm có đối với anh từ khi trở về làng. Cảm giác bất an xen lẫn niềm vui khiến Chí phải trầm tư và hối tiếc về những hành động ác của mình.
Chí Phèo, mặc dù đã trải qua nhiều biến cố, nhưng vẫn giữ trong lòng khao khát được sống một cuộc sống lương thiện. Sự xót xa và tình người đã làm cho anh nhận ra giá trị quý báu của lòng nhân từ.
Cuối cùng, Chí Phèo đã chấp nhận cái chết để giải thoát cho bản thân khỏi cuộc đời bi kịch và để tố cáo sự bất công của xã hội. Sự hy vọng bị cự tuyệt đã đẩy anh đến đỉnh điểm của tuyệt vọng.
Cái chết của Chí Phèo không chỉ là sự kết thúc bi thảm mà còn là một lời tố cáo về sự bất công và áp bức của xã hội, cũng như là biểu hiện của niềm khát khao cháy bỏng của anh về một cuộc sống lương thiện.
Qua đó, nhà văn gửi gắm lời van xin cấp bách: xin hãy giải cứu con người, bảo vệ quyền tồn tại của từng cá nhân trước những thế lực xấu xa trong cuộc sống. Điều này thể hiện sâu sắc triết lý và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Đoạn văn không chỉ thành công về nội dung mà còn về mặt nghệ thuật: kết cấu truyện rất chặt chẽ, logic; tình tiết lôi cuốn, phong phú và đầy kịch tính; ngôn ngữ sinh động, linh hoạt. Có thể nói, đoạn văn về sự tỉnh thức của linh hồn Chí Phèo sau khi gặp gỡ Thị Nở là một đoạn viết tuyệt vời, tràn đầy chất thơ và tập trung vào triết lý nhân đạo sâu sắc, bất ngờ của Nam Cao. Và một câu hỏi lớn được đặt ra: làm thế nào để con người sống một cuộc sống đích thực? Điều này không chỉ Bá Kiến không hiểu được mà còn cả xã hội của thời đó cũng không thể trả lời. Sự nghiệt ngã, ám ảnh của câu hỏi đó cũng là nét đặc sắc nhất của 'Chí Phèo', là một trong những tác phẩm văn xuôi xuất sắc nhất của văn học hiện đại Việt Nam.
Phân tích Chí Phèo - Mẫu số 10
Tình yêu – một chủ đề quen thuộc nhưng không bao giờ cũ trong văn chương. Đã có rất nhiều nhà văn, nhà thơ lấy tình yêu làm nguồn cảm hứng sáng tạo cho tác phẩm của mình. Họ tôn vinh, ca ngợi tình yêu như một nguồn lực thiêng liêng. Tuy nhiên, Nam Cao đã đem lại cái nhìn khác biệt, với tình yêu đầy khổ đau của Chí Phèo và Thị Nở trong tác phẩm 'Chí Phèo', một câu chuyện về người nông dân trong xã hội cũ, ông đã đem lại một cái nhìn hoàn toàn mới. Trong đó có niềm hạnh phúc, cũng có niềm đau khổ. Nhưng trên hết, tình yêu ấy còn là thông điệp sâu sắc mà nhà văn muốn truyền đạt đến mọi tầng lớp xã hội. Tình yêu ấy, dù đẹp đến đâu, cũng đau đến đấy, khiến cho những người trong cuộc như Chí Phèo phải đấu tranh và cuối cùng là kết thúc cuộc đời mình. Nhưng ít nhất, trước khi chết, Chí Phèo cũng đã được trải nghiệm hương vị của tình yêu dù chỉ trong những khoảnh khắc ngắn ngủi.
Chí Phèo chỉ là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi tại nhà máy gạch cũ và được người dân trong làng nuôi nấng. Lớn lên, Chí làm việc ở nhà của Bá Kiến nhưng lại bị bà chủ ghen tỵ hại chết, khiến Bá Kiến ganh tị và đẩy anh vào tù. Những năm tháng trong tù cùng với lòng thù hận đã biến Chí từ một chàng trai hiền lành, tốt tính trở thành một kẻ ác quỷ khi trở lại làng quê. Chí đắm mình trong rượu chè. Cho đến một ngày, Chí gặp Thị, tình yêu giữa họ nảy nở và liên kết hai con người lại với nhau. Nhưng trong lúc hạnh phúc thì Thị nghe lời bà cố kỉ rời bỏ Chí, khiến Chí một lần nữa chìm vào cảnh tuyệt vọng. Sự hận thù trong lòng Chí bùng lên và anh quyết định giết chết Bá Kiến trước khi tự kết liễu cuộc sống của mình để trở thành người tốt.
Những biến cố trong cuộc đời Chí giống như một tấm bản đồ đầy gập ghềnh. Và trong số đó, những khoảnh khắc ở bên cạnh Thị Nở chính là những thời điểm tươi đẹp nhất, sáng sủa nhất trên tấm bản đồ với những nét vẽ đầy đặn, không gian lúc lên lúc xuống.
Cuộc gặp gỡ giữa Chí và Thị chỉ là một sự tình cờ giữa hai người lạ lẫm. Chí thì lúc tỉnh lúc say, thậm chí là hầu như không bao giờ tỉnh. Còn Thị cũng ngờ ngợ, hờn dỗi. Vào lúc đó, nhà văn lại tặng cho cô một “vẻ đẹp” “kinh tởm” mà ông miêu tả trong vài từ như “xấu ma chê quỷ hờn”. Nhưng kỳ lạ thay, sự xấu đó lại khiến một người đàn ông chết mê chết mệt khi gặp gỡ. Có thể do bản năng, do ham muốn vật chất mà họ bị cuốn vào nhau. Nhưng sau khi thỏa mãn, họ lại dành cho nhau những cảm xúc thực sự “kỳ lạ”. Kỳ lạ đến mức người phụ nữ dở hơi đó đã xác định rằng đây chính là cuộc sống “vợ chồng”. “Hai từ vợ chồng nghe có vẻ ngượng ngùng nhưng mà thật tuyệt vời”. Đó là tâm trạng của người mới yêu, đang yêu và đang hạnh phúc.
Sau cuộc gặp đó, Chí trở nên ốm. Một cơn ốm nặng mà nếu không có Thị, Chí sẽ không qua khỏi. Mặc dù Thị có dở hơi, nhưng trái tim cô vẫn thật là thanh cao khi cô dành cho Chí một bát cháo hành với hy vọng giúp Chí mau khỏe. Có lẽ Thị là người cuối cùng còn lại trong xã hội này nhận ra Chí. Hoặc có thể do Thị quá ngơ ngác nên không phân biệt được người lành hay quỷ dữ nên mới chấp nhận Chí là con người. Nhưng dù sao đi nữa, sự quan tâm ân cần của Thị đã mang lại một làn gió mới cho cuộc đời của Chí. “Bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bừng tỉnh như người tỉnh dậy sau một cơn say rượu dài. Giống như những người tỉnh dậy sau say, hắn cảm thấy đắng miệng, lòng u buồn mơ hồ. Người này rụt rè, không muốn vận động. Có phải do đói rượu không? Khi nghĩ đến rượu, hắn run lên một tí.
Hắn sợ rượu giống như người ốm sợ cơm. Tiếng chim hót ngoài kia vui tươi quá! Có tiếng cười nói của những người đi chợ. Anh thuyền chài vỗ mái chèo bắt cá. Những âm thanh quen thuộc ấy ngày nào cũng có mà. Nhưng hôm nay hắn mới nghe được… Ôi trời ơi, thật buồn!”. “Tỉnh dậy, hắn thấy hắn già mà vẫn cô đơn. Buồn thay cho cuộc đời! Có phải là như vậy không? Hắn đã già rồi chăng? Đã qua cả bốn mươi tuổi đầu… Dù sao, đó không phải là tuổi mà người ta bắt đầu chuẩn bị. Hắn đã đến đoạn đường cuối của cuộc sống. Ở những người như hắn, đã trải qua biết bao nhiêu đau khổ, đắng cay, gian khổ mà vẫn chưa bao giờ ốm, một cơn ốm có thể coi là dấu hiệu cho thấy cơ thể đã mất đi rất nhiều.
Đó là một cơn mưa gió cuối thu, cho biết mùa đông đã đến. Chí Phèo dường như đã thấy trước tuổi già, cảm giác lạnh và ốm đau, cùng với sự cô đơn, điều này còn đáng sợ hơn cả sự cảm giác lạnh và ốm đau”. Những suy nghĩ của Chí cho thấy rằng Chí hoàn toàn có sự nhận thức và sự hiểu biết. Chỉ là trước đây, do chìm đắm trong rượu quá nhiều nên Chí không còn bận tâm đến nữa. Một người đã trải qua nhiều biến cố trong cuộc đời, dòng suy nghĩ của anh ta đã chín chắn và thông suốt hơn nhiều. Chí cảm thấy hối tiếc về cuộc sống, nhận ra tình trạng hiện tại của cuộc đời mình và cần phải sống thế nào. Chí buồn vì đã dành cuộc đời mình cho rượu bia quá nhiều. Và cũng hận khi đã lạc hậu bản thân trong lòng thù hận. Những suy nghĩ ấy đã làm cho Chí tỉnh lại và sống lại ước mơ nhỏ bé nhưng thánh thiện ngày xưa của mình.
Chí ước mơ có một gia đình nhỏ. Chồng cày cuốc, vợ dệt thêu. Cuộc sống ấy có thể nghèo khó, có thể thiếu thốn nhưng sẽ đầy hạnh phúc. Và bây giờ, Chí muốn tiếp tục ước mơ ấy cùng Thị Nở. Chí sẽ bắt đầu lại từ đầu, hòa mình với mọi người. Chí đang tỉnh táo. Nếu trước đây Chí say và đắm chìm vào Thị vì Chí không nhận ra rằng người phụ nữ ấy vừa dở hơi vừa xấu xí, xấu đến mức ma chê quỷ hơn. Nhưng lúc này, khi hoàn toàn tỉnh táo, Chí không chỉ chấp nhận Thị mà còn yêu Thị. Vì chỉ có tình yêu mới có thể biến những điều xấu xí thành đẹp.
Chí nhận thấy Thị rất có duyên. Và Chí rất hạnh phúc khi được ở bên Thị. Chí không say đâu. Và chính vì Chí tỉnh táo nên Chí mới cảm nhận được hương vị của cuộc sống, của tình yêu. Những chi tiết này giúp ta khám phá thêm một khía cạnh khác của Chí. Đó là lòng nhân ái to lớn của Chí. Bởi trong làng, ai cũng nhìn nhận Thị bằng ánh mắt khinh thường và cho rằng Thị chỉ là một người dở hơi. Và thật ra, Thị thật sự là người dở. Cũng chính vì dở đó mà Thị đã khiến cho Chí mê mẩn. Nhưng khi tỉnh táo, tình hình đã thay đổi. Lúc này, Chí là người thông minh và hoàn toàn bình thường. Nhưng Chí không chê trách Thị, cũng không từ bỏ Thị. Ngược lại, Chí muốn cùng Thị đi hết quãng đời còn lại, xây dựng ước mơ chưa bao giờ hoàn thành của mình…
Nhưng sau đó, hạnh phúc đó không kéo dài được lâu, những kế hoạch của Chí cũng tan biến khi Thị quay về sau khi nghe lời người bà cô rũ bỏ Chí. Chí ở lại một mình trong căn nhà đầy kỷ niệm về tình yêu của mình. Thất vọng, đau khổ và lòng oán hận lại trỗi dậy. Nhưng lần này, Chí đã tỉnh rồi, Chí không đi xin tha như trước nữa. Chí đến trực tiếp nhà Bá Kiến để đòi lại quyền sống của mình. Sống nhưng lại là chết. Chết để bảo vệ phẩm chất lương thiện của mình. Chí giết Bá Kiến và kết thúc cuộc đời của mình. Quyết định đó, chắc chắn đã khiến Chí đau khổ lắm. Nhưng với Chí lúc này, đó là cách duy nhất để không trở lại cuộc sống khắc nghiệt như trước kia nữa.
Như vậy, sau khi gặp Thị Nở, cuộc đời Chí đã liên tiếp xảy ra hai biến cố lớn. Một là tỉnh – tỉnh dậy sau những thời kỳ say sưa. Tỉnh để sống, để yêu và hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ấy không kéo dài được lâu thì biến cố thứ hai lại xảy ra khi Thị từ bỏ Chí, khiến Chí hối tiếc không ngừng. Trong tuyệt vọng, Chí giết Bá Kiến và chấm dứt cuộc sống của mình. Không phải tình cờ mà Nam Cao đã tạo ra những khía cạnh tâm lý sâu kín cho Chí, trong đó chứa đựng những thông điệp sâu xa mà ông muốn truyền đạt tới người đọc.
Thứ nhất là hình ảnh về người nông dân nghèo khổ, bất hạnh bị xã hội đẩy đưa đến bước đường cùng. Thậm chí, cả niềm vui của bản năng con người họ cũng không có. Thậm chí khi có, nó cũng nhanh chóng biến mất chỉ vì định kiến xã hội.
Thứ hai, nhà văn muốn tôn vinh nhân phẩm, phẩm chất của con người. Dù bị say, nhưng khi tỉnh dậy, Chí vẫn luôn mang trong mình một tấm lòng trong sáng và tinh khiết. Đặc biệt, Thị Nở – bên trong người phụ nữ xấu xí như quỷ hờn ấy lại chính là một tâm hồn cao quý. Gần như Thị cũng đã gặp số phận giống Chí. Hai con người gặp nhau, cùng chia sẻ cảm xúc và giúp nhau khám phá lại bản thân mình.
Thứ ba, Nam Cao đã khám phá cho người đọc một khía cạnh mới của tình yêu. Đó là tình yêu không chỉ dừng lại ở thể xác mà còn là sự đồng cảm của hai tâm hồn. Yêu không phải vì ngoại hình, cũng không phải vì giàu có. Yêu chỉ vì yêu, chỉ vì trái tim. Nhưng dù yêu nhau đến đâu, tình yêu vẫn không thể vượt qua hiện thực. Ở đây, hiện thực của Chí Phèo – Thị Nở là những định kiến khắc nghiệt về một kẻ quỷ dữ được gọi là Chí Phèo.
Thứ tư, là sự tỉnh táo, sự nhận thức sâu sắc trong tình yêu. Tình yêu có thể gặp nhiều biến cố, nhưng điều quan trọng nhất là tinh thần và suy nghĩ. Ở đây, sau khi tỉnh dậy, Chí vẫn giữ vững tình cảm với thị. Ngay cả khi bị thị từ chối, Chí vẫn hoàn toàn tỉnh táo. Đó là lý do mà Chí quyết định giết Bá Kiến và tự kết liễu cuộc đời.
Như vậy, chỉ qua một đoạn văn ngắn kể về cảm xúc của nhân vật Chí Phèo sau khi gặp Thị Nở, Nam Cao đã truyền đạt những thông điệp sâu sắc tới người đọc. Dù Nam Cao đã ra đi, và cuối cùng Chí Phèo cũng qua đời, nhưng những cảm xúc của một người tỉnh giấc sau cơn say đã đánh thức lòng tự giác của người đọc, giúp họ trân trọng những gì mình đang có trong cuộc sống và trong tình yêu.