Top 19 mẫu văn nhập vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí, được tuyển chọn kỹ lưỡng, cùng dàn ý chi tiết, giúp các bạn học sinh lớp 9 hiểu rõ về nội dung và cảm nhận tình đồng đội trong bài thơ.
Với bộ sưu tập 19 mẫu văn nhập vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí, các bạn sẽ thấy được cách thể hiện và diễn đạt một cách sáng tạo qua góc nhìn của nhân vật trong bài thơ. Hãy cùng đọc bài viết dưới đây của Mytour:
Dàn ý cho việc nhập vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí
1. Mở đầu
- Trình bày vai trò của nhân vật nhập vai người lính và giới thiệu câu chuyện.
2. Nội dung chính
- Miêu tả về việc gặp gỡ và quá trình trở thành bạn đồng chí của các nhân vật lính.
- Thể hiện sự tương đồng trong hoàn cảnh sống và xuất thân của họ.
- Mô tả tình bạn đồng chí được hình thành qua việc cùng nhau chia sẻ khó khăn, sát cánh trong các trận chiến.
- Phác họa mối quan hệ bền chặt, sâu sắc giữa họ thông qua sự tương thân, tương ái và giúp đỡ lẫn nhau.
- Tả lại kí ức khó khăn cùng sự gắn bó đậm chất đồng đội.
- Miêu tả những khó khăn, nỗi đau của cuộc sống lính: cảm giác lạnh rét, trang phục rách rưới, chân không đôi giày.
- Thể hiện tinh thần đoàn kết, sự đồng cảm với nhau ở mọi hoàn cảnh: việc nắm tay nhau, cùng nhau tỏa ra nụ cười để động viên lẫn nhau.
- Nhớ lại những đêm thâm niên cùng đồng đội canh gác.
- Mô tả không gian: rừng hoang, phủ một màu sương muối.
- Đặt trong bối cảnh thời gian: đêm tối.
- Đồng đội đứng cạnh nhau để hoàn thành nhiệm vụ.
- Trong đêm tối, ánh trăng như dải sáng treo trên đầu nòng súng.
3. Kết thúc
- Phân tích cảm xúc về quá khứ và tình đồng đội.
Hóa thân thành người lính kể lại bài thơ Đồng Chí
Trải qua những thăng trầm trong quá trình chiến đấu, đất nước đã đạt được hòa bình, độc lập, thống nhất 2 miền Nam Bắc nhưng dư âm của những khoảnh khắc vĩ đại ấy vẫn tiếp tục tồn tại, suy ngẫm về những kỷ niệm bên đồng đội. Trong những ngày tháng gian khó đó, chúng tôi đã cùng nhau vượt qua muôn trùng gian nan, chia sẻ khó khăn, cùng nhau trải qua mọi khó khăn và trở thành tri kỉ của nhau. Hai từ 'Đồng Chí' vẫn luôn được ghi sâu trong trái tim tôi, không thể phai nhạt theo thời gian.
Những kí ức trong tôi hiện lên như một bộ phim kỷ niệm, diễn ra từ từ. Vào khoảng thời gian 1946-1947, tiếng súng Pháp vang lên như một lời khai chiến, bắt đầu cuộc xâm lược, bóc lột đất nước của họ. Trước sự tàn ác của thực dân Pháp, tôi đã chiến đấu để bảo vệ Tổ Quốc và đuổi giặc ra khỏi đất nước. Tưởng rằng chỉ có mình tôi, một người từng sống trong làng quê nghèo khó, nhưng các đồng đội khác cũng vậy, từ những người nông dân trở thành người lính.
Quê hương của anh là biển cả mặn chát, quê hương của tôi là đất đai cần cày cấy giữa những cục đá. Chúng tôi là những người lạ lùng, không quen biết nhau, không hẹn gặp nhau, nhưng lại định mệnh đưa đẩy chúng tôi gặp nhau, trong hoàn cảnh không phải là đẹp hay lãng mạn, mà là hoàn cảnh của những tiếng súng do thực dân gây ra. Chúng tôi là những người xa lạ không có hẹn ước gặp nhau nhưng lại gặp nhau và trở thành đồng đội trong cuộc chiến, cùng nhau chiến đấu vì tổ quốc. Đặc biệt hơn nữa, chúng tôi có cùng một lý tưởng, cùng một lòng yêu nước sâu sắc. Những người lính như chúng tôi phải đối mặt với những khó khăn nhất, cảm nhận được sự khắc nghiệt của thời tiết lạnh giá và sự thiếu thốn. Chúng tôi không có đủ chăn ấm để phủ lên nhau, nhưng chúng tôi lại cùng nhau phủ một chiếc chăn, để sưởi ấm cho nhau trong cái lạnh của thời tiết. Chúng tôi đã trở thành bạn của nhau từ bao giờ rồi, trở thành tri kỷ và gọi nhau là Đồng Chí!
Khắc nghiệt của cuộc chiến, tôi đã phải bỏ lại tất cả, ruộng vườn, quê hương, nơi tôi sinh ra và lớn lên, để bảo vệ tổ quốc yêu dấu. Không chỉ riêng tôi, mà cả những đồng đội khác cũng vậy. Đi xa nhà, ai cũng nhớ quê hương, gia đình và bạn bè, đặc biệt là khi ở trên chiến trường đầy khắc nghiệt. Mỗi đêm, tôi nhớ về quê nhà, muốn quay về nơi có tình thương, nhưng tôi phải cố gắng vì Tổ Quốc. Quê nhà đang mong chờ tôi bình an quay trở về. Nhớ lắm! Nhớ từng kỷ niệm với quê hương. May mắn khi có những đồng chí bên cạnh, chia sẻ và đồng cảm với tôi.
Ai đã từng trải qua những ngày lính mới hiểu được sự vất vả khó khăn đó. Nhớ nhất là giữa đêm tối, khi sương muối ẩm đọng lên áo, tôi đứng canh gác trong rừng sâu, sợ sương muối hơn cả lạnh. Nhưng với đồng đội, niềm hạnh phúc nhỏ nhoi là được ngắm vầng trăng ban đêm. Trong cái buốt giá, vầng trăng và đầu súng cùng bên nhau, đại diện cho hòa bình và niềm tin của người lính. Vầng trăng là nguồn sáng tinh thần, làm dịu đi sự tàn khốc của chiến tranh. Trăng không chỉ là món quà thiên nhiên mà còn là người bạn của người lính, là nguồn sáng niềm tin.
Trong cuộc chiến, ai cũng phải hy sinh. Tôi hạnh phúc và may mắn khi sống trong thời bình. Dù đã già, nhưng tôi không bao giờ quên những người đồng đội, những người lính cùng chiến đấu với tôi. Thanh xuân của chúng tôi là để bảo vệ Tổ Quốc, còn thanh xuân của các bạn là để xây dựng đất nước.
Hóa thân thành người lính kể lại bài thơ Đồng chí
Tôi là một chiến sĩ của đại đội thuộc Trung đoàn Thủ đô. Tham gia chiến dịch Thu đông năm 1947, tôi có những kỷ niệm đẹp bên đồng đội.
Tình đồng chí cao cả, thiêng liêng nhưng gần gũi, bình dị. Chúng tôi đơn giản là những người cùng chung xuất thân, cùng chung lí tưởng và khát vọng chiến thắng. Tình đồng chí nảy sinh từ việc chúng tôi chia sẻ nhiệm vụ, chung hoàn cảnh khó khăn và cùng nhau vượt qua những đêm rét buốt.
Một khi coi nhau là đồng chí, không có gì được giấu kín. Chúng tôi có thể cười với nhau trong mọi hoàn cảnh, dù áo tôi rách thì quần người khác cũng có vài mảnh vá. Có tình đồng chí, có bàn tay nắm tay ta thì mọi sự đều qua.
Nhớ những đêm canh gác, chúng tôi đứng giữa rừng hoang, sương muối, cùng nhau chờ giặc tới. Vầng trăng sáng làm dịu đi những khó khăn, tạo nên cái đẹp của tình người - tình đồng chí.
Dù đã xa rồi thời gian khắc nghiệt của chiến trường, nhưng tôi vẫn khắc khoải nhớ đồng đội của mình. Trái tim tôi vẫn in hình bóng họ, vẫn còn nhớ những kỷ niệm, khiến tình đồng đội vẫn sống mãi.
Hóa thân thành người lính kể lại bài thơ Đồng chí tốt nhất
Trong thời bình ngày nay, việc giải thích tình đồng chí với thế hệ trẻ là một thách thức. Tôi hy vọng câu chuyện dưới đây sẽ giúp họ hiểu được sức mạnh của tình đồng chí trong cuộc chiến.
Trong chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, tôi gặp những người lính cùng quê cùng cảnh ngộ. Tình đồng chí giữa chúng tôi nảy nở từ chung nhiệm vụ, chung hoàn cảnh khó khăn, và chung sự đoàn kết vượt qua mọi gian khó.
Dù sống trong rừng hoang, chúng tôi cảm nhận được sức mạnh của tình đồng chí. Cùng nhau vượt qua những khó khăn, chúng tôi trở nên bền vững hơn, mạnh mẽ hơn.
Tình đồng chí sưởi ấm lòng tôi mỗi đêm phục kích chờ giặc. Trong rừng hoang, chúng tôi không sợ khắc nghiệt thời tiết vì luôn có nhau.
Tình đồng chí là điều đẹp đẽ nhất trong cuộc sống người lính. Chúng tôi là những người lính thực thụ, cuộc sống của chúng tôi đầy thực tế và bình dị.
Kể lại câu chuyện về bài thơ Đồng Chí - Mẫu 1 từ góc nhìn của một người lính
Tham gia vào chiến dịch Việt Bắc năm 1947, tôi chứng kiến biết bao khó khăn, thiếu thốn trong cuộc kháng chiến chống Pháp. May mắn là tinh thần yêu nước và tình đồng chí đã giúp chúng tôi vượt qua mọi gian nan và đạt được chiến thắng.
Khi gia nhập quân ngũ, tôi nhận ra rằng mọi người lính đều có xuất thân từ hoàn cảnh nghèo khó. Tình đồng chí giữa chúng tôi bắt đầu từ sự tương đồng về xuất thân và hoàn cảnh khó khăn. Chúng tôi đã trở thành những người đồng đội, bạn tri kỉ nhờ chia sẻ và đoàn kết vượt qua mọi gian khó.
Xa quê nhưng vẫn nhớ nhà, chúng tôi bỏ lại ruộng vườn, gian nhà, quê hương để đến đây chiến đấu, bảo vệ sự bình yên cho xóm làng. Chúng tôi cùng nhau chia sẻ mọi gian khó, từ cái lạnh của rừng sâu đến những cơn ốm đói. Tình đồng chí là nguồn động viên mạnh mẽ giúp chúng tôi vượt qua mọi thử thách.
Nhớ nhất là những đêm giữa núi rừng hoang vu lạnh lẽo, sương muối ướt đẫm đôi vai áo, chúng tôi vẫn đứng sát cạnh nhau, chờ đợi giặc tới. Sức mạnh của tình đồng chí giúp tôi vượt qua mọi khó khăn, hiểm nguy. Vầng trăng sáng tỏ làm tôi tin vào thắng lợi của kháng chiến và hòa bình trên quê hương.
Bây giờ, ước mơ của tôi đã thành hiện thực, không bao giờ tôi quên những năm tháng hào hùng ấy. Đôi khi, tôi vẫn cùng những người lính xưa ôn lại kỷ niệm ngày xưa...
Tôi là một trong những người lính may mắn trở về sau những ngày kháng chiến gian khổ, đứng giữa sự sống và cái chết. Dù sống trong hòa bình, tôi vẫn khao khát được về thăm quê hương, nơi của tình đồng chí.
Là người cả trong một gia đình sáu anh em, cha mẹ tôi là những nông dân vất vả. Tôi mong muốn quê nhà giàu có hơn, đẹp hơn. Tham gia vào chiến tranh, tôi mong muốn đóng góp cho quê hương, cho dân tộc.
Tham gia quân đội và tham gia chiến trường Việt Bắc, tôi thấy sự vất vả của những người lính cụ Hồ. Gặp một người đồng đội cùng trang lứa, tôi cảm thấy gần gũi, như một sự gắn kết từ lần đầu tiên gặp mặt.
Hành quân đến Việt Bắc, tôi nhận ra khó khăn và vất vả của cuộc sống lính trận. Gặp một người đồng đội cùng trang lứa, tôi cảm thấy gần gũi, như một sự gắn kết từ lần đầu tiên gặp mặt.
– Chào bạn!
– Xin chào bạn!
Anh ấy dường như hơi ngại ngùng, chỉ cười một cách e dè. Được phân vào cùng một tiểu đội BK107, tôi không thể không muốn kết bạn với anh chàng lính trẻ. Đêm đến, tôi không thể ngủ, trong lòng nôn nao muốn kết bạn với anh. Tôi lại đến gần anh, thở mạnh một cái và thủ thỉ:
– Chiến tranh khá khốc liệt phải không?
Anh chàng trẻ trông hơi sững sờ, có lẽ do tôi quá tự tin. Nhưng không sao, tôi vẫn cười một mình. Nhìn anh với vẻ mặt mong đợi, tôi hy vọng sẽ được câu trả lời. Lần này, anh trẻ dường như đỡ ngại hơn.
– Bạn lên từ đâu vậy? Chắc chắn là từ miền Bắc đúng không?
– Vâng, tôi đến từ miền trời hẹp lên, tôi ước ao cho đất nước mình có độc lập! Còn bạn, bạn đến từ đâu?
Câu chuyện bắt đầu trở nên tự nhiên và thoải mái hơn.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Nam Định, nơi được biết đến với cái tên 'nước mặn, đất đắng', cuộc sống ở đó khá khó khăn! Mọi người phải lao động vất vả để kiếm sống.
Và từ đó, chúng tôi bắt đầu trò chuyện và trở nên quen thuộc hơn. Cùng nhau trải qua ngày làm nhiệm vụ, đêm ngủ chung chăn. Đứng bên nhau, hướng về phía xa xăm, tôi và người bạn lính đều mong ước rằng hòa bình sẽ trở lại, chiến tranh sẽ chấm dứt. Nếu không có chiến tranh, chắc chắn sẽ không có những giọt máu rơi, không có những giọt nước mắt, và không có tiếng khóc chờ chồng, chờ cha nữa.
Cuộc gặp gỡ lần đầu của chúng tôi thật tuyệt vời! Hôm nay được gặp lại người anh em ấy, chúng tôi đã cùng nhau ôn lại những kỷ niệm xưa, ngồi bên nhau nhớ lại kỷ niệm. Dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh, chúng tôi vẫn luôn nở nụ cười trên môi, kết thúc tuổi thanh xuân trong chiến tranh, chúng tôi ngày càng già đi, tóc bạc phơ mái đầu, nhưng sự hi sinh của chúng tôi thật đáng quý. Tôi mở cuốn ảnh lưu giữ tình bạn ra xem, cùng hàn huyên đủ chuyện trên đời, tình đồng chí
Được gặp lại nhau trong hòa bình, tình bạn xưa dâng trào trong trái tim mỗi chúng tôi, chiến tranh đã qua nhưng mọi thứ ngày ấy vẫn còn hiện hữu trong tâm trí chúng tôi. Làm sao chúng tôi có thể quên được nhau, quên được tình bạn ấy, thật tuyệt vời!
Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 3
Trải qua bao năm tháng gian khổ, vất vả, cuối cùng chiến tranh cũng đã qua đi. Hôm nay, ngồi trong căn nhà nhỏ, trong sự yên bình của đất nước, tôi đã có thể ngước nhìn lên ánh trăng sáng rực giữa bầu trời đêm. Ánh trăng gợi nhớ cho tôi về những kỷ niệm ngày cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến khu Việt Bắc. Đó là những đêm trăng dài cùng người đồng chí thân thương trải qua mà tôi vẫn nhớ mãi đến tận bây giờ.
Anh và tôi, gặp nhau trong chiến khu. Cả hai chúng tôi lúc ấy còn là những người trẻ, vô tư và tràn đầy nhiệt huyết. Quê hương anh “nước mặn đồng chua”, làng tôi nghèo “đất cày lên sỏi đá”. Chúng tôi đều có xuất thân từ những vùng đất khó khăn, cảnh ngộ nghèo khó như nhau. Mang theo vẻ hồn nhiên chân thật của người lao động, anh và tôi đã sớm thân quen với nhau.
Chúng tôi ban đầu là hai người hoàn toàn xa lạ, nhưng từ một cách nào đó, chúng tôi đã gặp nhau và trở nên thân thiết. Tình cảm giữa tôi và anh dường như ngày một phát triển qua những lần cùng thực hiện nhiệm vụ, sát cánh bên nhau trong chiến đấu. 'Súng bên súng, đầu kề sát đầu' cùng nhau tiến vào chiến trường hiểm nguy. Nhớ những đêm cùng đắp chung chăn dưới bầu trời lạnh giá. Đó là tình bạn tri kỉ giữa anh và tôi, một tình bạn giản dị và cao quý.
Anh và tôi đều có cùng một mục tiêu, là hai người rời bỏ quê hương để tham gia chiến đấu. Dù có nền tảng khác nhau, nhưng chúng tôi có cùng một ước mơ - ước mơ về sự độc lập của đất nước. Những đêm ấy, anh kể tôi nghe về quê hương của mình. Ruộng đất anh cày, anh dành cho người thân cận mình, trong khi nhà cửa phải để bị gió tàn phá. Anh chia sẻ với tôi những tâm tư riêng, mở lòng về mọi điều. Mỗi ngày trôi qua, tôi hiểu anh hơn, mối quan hệ giữa chúng tôi ngày một sâu đậm.
Chúng tôi đã cùng nhau trải qua bao gian khó của chiến tranh. Ở trong rừng, có một đợt dịch sốt rét lớn. Đồng đội của tôi đã mất rất nhiều, vì không có loại thuốc nào hiệu quả để điều trị. Chúng tôi biết từng cơn rét run, toàn thân ướt đẫm mồ hôi. Áo anh rách, quần tôi chỉ còn vài mảnh vá. Mặc dù mệt mỏi, nhưng chúng tôi vẫn luôn cười, vì không muốn anh lo lắng. Anh nắm tay tôi chặt, động viên tôi, đem đến sức mạnh để vượt qua bệnh tật.
Sau khi khỏi bệnh, anh và tôi tiếp tục nhận nhiệm vụ. Trong những đêm rừng sương muối, chúng tôi đứng canh gác bên nhau, chờ đợi giặc tới. Tình đồng chí của chúng tôi có thể sưởi ấm lòng trong cảnh rừng lạnh giá. Trong cuộc phục kích giữa rừng, chúng tôi có một người bạn khác, đó là vầng trăng. Súng và trăng, gần nhưng xa lạ, nhưng lại hoàn hảo kết hợp với nhau, giống như tình đồng chí của tôi và anh. Trong cảnh buốt giá, đầu súng và vầng trăng đồng lòng, đầu súng bảo vệ vầng trăng hòa bình.
Đất nước giờ đây đã độc lập, yên bình. Tôi có thể sống thoải mái không lo sợ chiến tranh. Nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về những ngày chiến đấu, nhớ về anh - người bạn tri kỉ của tôi. Tất cả những gian khổ của cuộc sống lính đều được vượt qua nhờ sự đoàn kết, ủng hộ của tình đồng đội. Đó là khoảng thời gian tôi sẽ mãi nhớ.
Trình diễn vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 4
Là một người lính tham gia vào cuộc chiến chống Pháp, những kí ức về những năm tháng ấy vẫn còn sâu sắc trong lòng tôi dù chiến tranh đã qua đi rất lâu.
Tôi sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo. Khi cuộc chiến chống Pháp đang ở đỉnh điểm, tôi đã đáp ứng lời kêu gọi và nhập ngũ. Trong thời gian ấy, tôi đã gặp và trở nên thân thiết với những người lính khác, cùng tuổi vàng trai tráng như tôi. Họ đến từ khắp nơi trên đất nước, hy sinh tất cả để bảo vệ tổ quốc.
Chúng tôi, từ những người lạ lẫm, đã trở thành người anh em thân thiết, cùng nhau sống và chiến đấu. Trong những thời điểm khó khăn và thiếu thốn, chúng tôi luôn san sẻ với nhau từng chút nhỏ. Dù bị sốt rét và đau đầu, chúng tôi vẫn đoàn kết và động viên nhau, gọi nhau là đồng chí thân thiết. Trong những trận tập kích giữa rừng, chúng tôi luôn cùng nhau chiến đấu dưới ánh trăng rọi xuống màn sương muối.
Giờ đây, tôi đã già yếu, còn đồng chí của tôi từ lâu đã yên nghỉ. Những ngày tháng oanh liệt, hy sinh đã qua, nhưng kí ức về chúng mãi còn trong tâm trí chúng tôi.
Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 5
Chiến thắng năm 1945 vừa qua chưa lâu, khi niềm hạnh phúc của sự độc lập chưa được thưởng ngoạn, tôi - người con nông dân của vùng quê nghèo khó, chưa kịp hưởng thụ, thì thực dân Pháp đã quay trở lại với cuộc xâm lược. Theo sự kêu gọi của chính phủ, tôi bỏ lại quê hương để tham gia cuộc kháng chiến, và chúng tôi mỗi người quyết tâm không để đất nước mình lần nữa chịu sự thống trị của thực dân Pháp.
Dù trước đây chỉ quen với cày cấy và làm vườn, nhưng giờ đây, mặc dù có chút lạ lẫm, nhưng tôi tin rằng với tinh thần yêu nước và quyết tâm của mình, không có gì là không thể. Chúng tôi vượt qua những con đường đầy gian khó, không sợ hãi vì có ánh trăng soi sáng đường đi. Tôi và những người đồng đội ở đây hơn ai hết là những người mong muốn đất nước được tự do, độc lập, và vì vậy, dù khó khăn đến đâu, chúng tôi vẫn sẵn lòng vượt qua.
Năm 1947, chúng tôi tham gia vào chiến dịch Việt Bắc cùng với nhiều quân đội khác, dù ban đầu chúng tôi không quen nhau, nhưng bây giờ đã trở thành những người đồng đội, anh em cùng một nhà, chia sẻ niềm vui và nỗi buồn. Tinh thần yêu nước đã gắn kết chúng tôi, và chúng tôi trở thành những tri kỉ không thể tách rời.
Vẫn nhớ những ngày ấy, chúng tôi sống trong thiếu thốn, thậm chí quân trang cũng không đủ, và hai người phải chia sẻ một tấm chăn. Rừng Trường Sơn nguy hiểm, có lần cả đơn vị tôi bị bệnh sốt rét, nhưng chúng tôi vẫn không ngừng cười. Mùa đông, rét cắm vào da thịt, người áo rách, người quần đầy mảnh vải, nhưng chúng tôi vẫn dựa vào nhau, truyền động lực và vượt qua mọi khó khăn. Có đêm, tôi và một người đồng chí tâm sự, anh kể về ruộng đồng ở nhà, về mẹ già, vợ trẻ, và con thơ, nhưng anh đã bỏ lại để ra trận chiến.
Dù cuộc sống gian khổ, khó khăn đến mấy, chúng tôi vẫn không ngừng tiếng cười. Trên núi rừng Trường Sơn u ám, dưới bầu trời lạnh lẽo, chúng tôi vẫn cảm thấy ấm áp. Cuộc chiến vẫn còn xa, những người lính vùng quê này vẫn phải xa quê hương một thời gian dài nữa. Dù có chút buồn bã, nhưng khi nhìn thấy lá cờ đỏ sao vàng tung bay, mọi lo lắng đều tan biến. Chúng tôi chấp nhận mọi gian khổ để giữ cho lá cờ đỏ sao vàng vẫy bay giữa bầu trời hòa bình. Sống và chiến đấu cho lý tưởng cao cả như vậy, đời lính chúng tôi không gì tuyệt vời hơn.
Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 6
Chưa kịp mừng vui sau chiến thắng Cách mạng Tháng Tám, thì năm 1946, thực dân Pháp đã quay lại tấn công nước ta. Dưới sự kêu gọi của Chính phủ, nhân dân cả nước đã hăng hái tham gia cuộc kháng chiến, quyết tâm không chịu sống dưới bóng của kẻ thù. Với tinh thần yêu nước, căm ghét thù địch, tôi cũng tình nguyện nhập ngũ. Sau khi được phân công, tôi đến trung đoàn thủ đô, trong sư đoàn 308, một đơn vị có lịch sử hào hùng. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ thủ đô, giúp dân di tản và bảo vệ chính phủ.
Là người nông dân, chỉ biết cày ruộng, làm vườn, chưa quen với súng nhưng tôi không ngần ngại tham gia chiến trường. Bởi lòng yêu nước, lòng can đảm, tôi quyết tâm đứng lên để tiếp tục truyền thống anh hùng của cha ông, viết nên những trang sử mới. Dù chưa được huấn luyện, tôi vẫn tự tin. Cuộc chiến sẽ dạy tôi mọi điều. Lòng yêu nước là động lực giúp tôi vững bước trên con đường chống lại kẻ thù.
Cuối năm 1947, tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều đơn vị khác. Chúng tôi được giao nhiệm vụ ngăn chặn quân địch tiến công lên căn cứ. Để hợp tác tốt, chúng tôi đã sáp nhập nhiều đơn vị, cùng hỗ trợ nhau trong nhiệm vụ và cuộc sống hàng ngày. Ban ngày, chúng tôi tiến hành truy kích. Ban đêm, đơn vị nghỉ ngơi. Chúng tôi luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi nguy hiểm dù kẻ thù còn ở xa.
Những lính từ những quê hương xa xôi, đều có tình yêu nước và căm thù giặc, đã tập hợp lại trong một đơn vị. Gần đây, tôi đã gặp một chiến sĩ quê ở miền duyên hải. Quê anh nước mặn đồng chua, gặp gian khó quanh năm. Anh mới gia nhập sau tôi, trong đợt tuyển quân vừa qua. Da anh ngăm đen, tay chai sần vì chải lưới, anh mang cái bản sắc quê hương đến chiến trường. Tôi không biết gì về chiến trường, còn anh còn 'ngây thơ' hơn tôi. Đội trưởng phải dạy anh sử dụng súng AK và lựu đạn hơn một tháng mới làm được. Tôi phải hướng dẫn anh nhiều hơn.
Từ những vùng quê xa xôi, chúng tôi, những chàng trai chưa có nợ nần anh hùng, đã gặp nhau ở đây. Tình yêu nước và ý chí chiến đấu tiêu diệt kẻ thù, giải phóng đất nước, đã níu chặt chúng tôi lại với nhau.
Phải nói rằng, chiến dịch rất gian khổ. Lúc đầu tổ chức kháng chiến, chúng tôi không có đủ quân trang và vũ khí. Lương thực, thuốc men và đồ dùng cá nhân còn thiếu thốn. Tôi chỉ mặc một bộ áo cánh, đầu không mũ, chân không giày. Mỗi bước đi trên lá khô làm tôi rùng mình. Rừng Trường Sơn đầy thú dữ, ma quái. Hôm qua, một đồng chí đã bị rắn hổ mang cắn chân. Đơn vị phải tìm thầy thuốc trong làng để chữa trị. Đồng chí ấy phải ở lại cho đến khi vết thương lành hẳn.
Việc ăn uống cũng vô cùng khó khăn vì chúng tôi đang trên đường truy kích kẻ thù. Các chiến sĩ quân y đã chăm sóc cho chúng tôi, nhưng không thể làm gì hơn trong tình thế này. Chúng tôi không than vãn hay kêu ca. Đêm ngủ nhiều khi phải rải lá khô để nằm, không có chăn màn, không có chiếu. Cái lạnh rừng núi căm cắt vào da thịt chúng tôi. Để giữ ấm, chúng tôi nằm sát cạnh nhau. Hơi ấm lan tỏa khiến tôi càng mến yêu tinh thần hy sinh vì nước của các anh.
Sợ nhất là bệnh sốt rét rừng. Kẻ thù chúng tôi có thể đánh bại, gian khổ chúng tôi có thể vượt qua, nhưng những cơn sốt rét rừng tàn bạo cứ âm thầm bào mòn cơ thể chúng tôi. Đó là một căn bệnh khủng khiếp, là thách thức lớn nhất mà chúng tôi luôn đối mặt. Đó là một kẻ thù vô hình đáng sợ. Tôi cũng từng mắc phải căn bệnh ấy. Cơn sốt làm tôi run rẩy khắp người, mồ hôi tuôn ra như tắm, ướt cả mấy lớp áo. Anh bạn ngồi lau cho tôi hết khăn này đến khăn khác, đôi mắt lo lắng như muốn khóc. Tôi mỉm cười động viên, anh cũng cười gượng.
Tưởng mình sẽ ra đi như bao người khác. Nhưng may mắn, tôi đã qua khỏi. Tôi sống nhờ sự chăm sóc tận tình của đồng đội. Khi tôi bất tỉnh, họ luôn ở bên tôi. Họ chăm sóc tôi từng chút một như thể tôi là người thân của họ. Họ dùng thuốc men cho tôi. Khi tôi hồi phục, sức khỏe yếu ớt, anh bạn tôi còn nấu cháo thịt thơm ngon cho tôi.
Không gì diễn tả hết sự gắn bó, lòng đồng chí thiết tha của chúng tôi. Sức mạnh ấy đã giúp chúng tôi vượt qua nhiều khó khăn. Tình đồng đội là nguồn sức mạnh vĩnh hằng trong trái tim lính.
Cùng nhau canh gác, chúng tôi kể chuyện cho nhau nghe. Anh bạn tôi kể về ngày ra đi. Tuổi trẻ chưa rời làng quê. Ra đi là một quyết định đau lòng nhưng cần thiết. Hứa với bản thân khi giặc đầu hàng, anh sẽ trở về.
Tôi cũng nhớ quê hương yêu mến. Nhớ gia đình, người thân. Nhưng đất nước cần tôi. Tôi ngẫm nghĩ dưới ánh trăng, vốn làm lòng tôi an tĩnh.
Tôi lặng lẽ nhìn về xa. Trên đỉnh núi, vầng trăng sáng. Vâng trăng thủy chung đã sáng trên quê hương và bây giờ sáng trên đường chiến đấu.
Trong những đêm trăng rừng tĩnh lặng, tôi luôn có đồng đội bên cạnh. Họ là những người đồng cam cộng khổ, thủy chung son sắt. Tôi tự hào khi đứng cạnh họ trong cuộc chiến này.
Nhiều đồng đội của tôi đã hy sinh. Họ là những anh hùng của thời đại. Tên tuổi của họ sẽ mãi được vinh danh.
Đóng vai người lính, tôi nhớ lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 7
“Chín năm chiến đấu ở Điện Biên
Nên vẻ đẹp thiên nhiên rực rỡ, vẻ đẹp lịch sử huyền thoại”
Câu thơ ấy đã gợi lên những kỷ niệm kháng chiến khó quên. Trong trận Điện Biên, bộ đội ta phải vượt qua muôn ngàn khó khăn để giữ vững quê hương.
Nghe lời kêu gọi của Bác Hồ, tôi cùng nhiều thanh niên khác lên đường bảo vệ non sông. Sự trở thành một người lính là niềm vui lớn với tôi, một người nông dân vốn xuất thân.
Khi đất nước gặp nguy, không ai có thể ngồi yên. Tôi cùng đồng đội quyết định hy sinh vì Tổ quốc và bảo vệ non sông.
Tây Bắc nổi tiếng với rừng thiêng, sốt rét rừng luôn là nỗi ám ảnh. Dù có vất vả, tình đồng đội giúp chúng tôi vượt qua mọi gian khổ.
Từ những khó khăn, chúng tôi hiểu và cảm thông cho nhau hơn. Dù thiếu thốn, chúng tôi vẫn cùng nhau vượt qua mọi gian khó.
Bên cạnh những khó khăn, cũng có những phút giây lãng mạn. Ánh trăng chiếu sáng rừng Việt Bắc, mang lại cảm giác thơ mộng và trữ tình.
Dù cuộc chiến đã trôi qua nửa đời, nhưng mỗi khi nhớ lại, lòng tôi vẫn rưng rức không thể nào diễn tả hết. Tình đồng chí, đồng đội là sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn trong cuộc kháng chiến.
Đóng vai người lính, tôi nhớ lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 8.
Mỗi khi đọc câu thơ của Tố Hữu, tôi nhớ về những kỷ niệm hào hùng của cuộc kháng chiến.
Nghe lời kêu gọi của Bác, tôi cùng những người khác lên đường đánh giặc. Xuất thân là nông dân, tình cảm và mục đích chung giúp chúng tôi gắn kết hơn.
Cuộc chiến khiến chúng tôi từ những người nông dân trở thành người lính, hy sinh vì Tổ quốc.
Tây Bắc, nơi rừng sâu nước độc, những cơn sốt rét vẫn ám ảnh tôi. Sự gắn kết giữa đồng đội trong cảnh khó khăn khiến chúng tôi cảm thông và thấu hiểu nhau nhiều hơn.
Bên cạnh khó khăn, đời lính cũng có những phút giây lãng mạn. Ánh trăng chiếu rọi khu rừng, tạo nên cảnh thơ mộng, trữ tình.
Mỗi khi nhớ lại cuộc chiến, tôi không thể kìm nén được niềm xúc. Tình đồng chí, đồng đội là nguồn sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua mọi gian khó.
Đóng vai người lính, tôi nhớ lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 9.
“Đoàn vệ quốc quân một lần ra đi
Nào có mong chi đâu ngày trở về
Ra đi ra đi bảo toàn sông núi
Ra đi ra đi thà chết chớ lui”
Mỗi khi nghe những giai điệu hùng tráng này, lòng tôi lại bùng cháy cảm xúc khó diễn tả. Tôi - một người lính trong chiến dịch chống Pháp năm ấy, nhớ những năm tháng gian nan đầy tình đồng đội, đồng chí.
Chúng tôi, những người lính từ miền quê xa lạ nhau, đến với đây với ước mơ giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Trước khi ra chiến trận, chúng tôi đã có những ước mơ riêng, nhưng chúng tôi hiểu rằng chỉ có tự do mới làm nên hạnh phúc thực sự.
Cuộc sống lính đầy gian khổ, hi sinh và mất mát. Nhớ mãi trận sốt rét giữa rừng hoang lạnh giá, sự đoàn kết và hy sinh của đồng đội.
Nhớ lại những tháng ngày đấu tranh nghiệt ngã với bệnh tật và thiên nhiên, lòng tôi đau xót đến nhói lòng. Đồng đội bên cạnh nhau, sẻ chia mọi gian khổ.
Chia sẻ tinh thần và vật chất trong cuộc sống gian khó của người lính. Dù áo sờn rách vai, quần tôi đã vá vài mảnh, nhưng anh đừng lo, khi tôi ấm, anh cũng ấm. Một chiếc chăn đủ cho cả hai ta, gió bấc ngoài kia có thể thét gào, nhưng trong này, tình thương ấm áp của tôi với anh vẫn rực sáng, nồng nàn.
Những người lính từ mọi miền quê hương, vượt qua khó khăn, đã tạo nên tình cảm tri kỉ đáng quý, đó chính là tình đồng chí. Hai từ 'đồng chí' đong đầy ý nghĩa, biểu hiện cho sự hiểu biết và tình đoàn kết cao đẹp.
Đặc điểm của người lính chính là sự kết nối bằng cách nắm tay nhau. Nắm tay để động viên, để hỗ trợ, để hứa hẹn chiến thắng và hạnh phúc. Cùng nhau vượt qua mọi gian khó, hẹn gặp lại với niềm vui thắng lợi.
Cuộc sống của người lính đơn giản nhưng ý nghĩa. Họ không cần những lời thơ hoa mỹ, chỉ cần hành động để thể hiện tấm lòng và ý chí kiên cường.
Nhớ mãi những đêm canh gác giữa rừng hoang giá buốt. Trời lạnh, gió rét, nhưng chúng tôi vẫn trung thành với nhiệm vụ, canh gác cho sự an toàn của đồng đội. Ánh trăng cao quá, sáng quá. Hình ảnh trăng cùng súng là biểu tượng của lý tưởng cách mạng và hy vọng vào chiến thắng.
Quê hương đã độc lập, thống nhất, chúng tôi trở về. Những người lính, đồng đội đã hi sinh vẫn ở lại, nhưng tình đồng chí của chúng tôi vẫn mãi vẹn và sâu đậm. Cảm ơn lời thơ 'Đồng Chí' của nhà thơ Chính Hữu đã thay lời lòng tôi gửi đến những người anh em. Tôi hy vọng máu và xương của chúng tôi sẽ được thế hệ sau trân trọng và phát triển, để xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh, giàu đẹp hơn.
Tôi đóng vai người lính, kể lại bài thơ 'Đồng Chí - Mẫu 10'
Tôi từng là một người lính tham gia kháng chiến chống Pháp. Câu thơ của Tố Hữu ghi lại thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc trong cuộc kháng chiến. Mỗi khi đọc, lại nảy lên nhiều cảm xúc trong lòng tôi, nhưng tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến chiến thắng của dân tộc.
Chúng tôi đa số là những anh lính nông dân từ những vùng quê nghèo khó.
– Quê anh ở đâu?
– Quê tôi ở vùng đồng bằng ven biển, nơi nghề cày cấy khó khăn!
– Tôi cũng thế. Quê tôi ở vùng đồi núi trung du, nơi 'Chó ăn đá, gà ăn sỏi', môi trường nghèo khó.
Chính sự đồng cảm với hoàn cảnh khó khăn khiến chúng tôi gần nhau hơn. Đó là sự gắn kết từ cùng chia sẻ, cùng hiểu biết về cuộc sống.
Chúng tôi không chỉ chung ý tưởng về nhiệm vụ bảo vệ đất nước. Chúng tôi cầm súng, bảo vệ sự độc lập tự do mà dân tộc đã đoàn kết chiến đấu để giành được.
Trong những thời khắc gian khổ, chúng tôi cùng nhau chia sẻ, gắn bó. Từ việc chia sẻ cơm, đắp chăn, tâm sự, chúng tôi trở nên thân thiết hơn. Chính điều này đã tạo nên mối liên kết sâu sắc giữa chúng tôi, từ tình bạn đồng đội đến tình đồng chí, biểu hiện cho sự đoàn kết và bình đẳng cao nhất trong mọi mối quan hệ.
Ôi! Tiếng gọi thiêng liêng 'Đồng chí'!
Là đồng chí của nhau, chúng tôi chia sẻ những tâm tư, nỗi nhớ quê hương xuất thân từ giai cấp nông dân. Ruộng nương và gian nhà là những điều quý giá nhất, nhưng chúng tôi đã phải bỏ lại chúng vì nghĩa vụ cao cả. Dù căn nhà giờ trống vắng, không còn bóng dáng gia đình, nhưng chúng tôi vẫn quyết định ra đi. Vì với chúng tôi, còn nước là còn nhà, và tất cả đều chung suy nghĩ như vậy.
Là đồng chí của nhau, chúng tôi chia sẻ những khó khăn về quân trang và sức khỏe. Áo rách và quần vá, chân không giày và đầu không mũ, dù giữa cái lạnh của núi rừng Việt Bắc, chúng tôi vẫn cố gắng giữ vững nụ cười lạc quan, sưởi ấm cả không gian giá buốt.
Hơn nữa, là đồng chí của nhau, chúng tôi chia sẻ tình cảm bền chặt nhất qua cái nắm tay. Nắm tay để truyền đạt hơi ấm, truyền đạt nghị lực để vượt qua mọi khó khăn. Đó cũng là lời hứa lập công trước khi bước vào trận đánh, một lời hứa không cần từ ngữ, chỉ cần sự hiểu biết. Tình đồng chí ấy khiến tôi mãi xúc động.
Nhưng có lẽ những kí ức về những đêm sát cánh trong chiến hào phục kích chờ đợi giặc tới in đậm trong tâm trí tôi nhất. Thời tiết khắc nghiệt, sương muối giá rét làm đầu ngón chân, ngón tay tê cóng. Nhưng chúng tôi vẫn cầm chắc súng, chủ động đợi giặc tới, sự vững vàng đã làm mờ đi mọi khó khăn. Đêm đó, trăng lơ lửng trên cao, xuống thấp dần, thậm chí treo đầu súng.
Chúng tôi chiến đấu để bảo vệ vầng trăng hòa bình, trả lại sự bình yên cho dân tộc và đất nước. Bên cạnh đồng đội, vầng trăng cũng là người bạn thân thiết của chúng tôi. Trăng soi rọi con đường hành quân, trở thành người bạn đồng hành chia sẻ niềm vui và nỗi buồn. Trước khi nổ súng, việc nhìn vầng trăng đã làm tinh thần chúng tôi trở nên kiên cường và cao đẹp. Với chúng tôi, súng và trăng là một cặp đồng chí, gợi lên nhiều suy tưởng thú vị. Súng và trăng, gần gũi và xa cách, chiến đấu và trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ, chất thép và chất thơ, chiến tranh và hòa bình, cứng rắn và dịu dàng, bổ sung cho nhau và khẳng định mục tiêu của cuộc chiến đấu.
Cuộc chiến đã lùi xa, hòa bình đã trở lại, nhưng cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã ghi dấu ấn sâu sắc trong lịch sử của dân tộc. Hy vọng thế hệ trẻ ngày nay sẽ tiếp tục kế thừa truyền thống của tổ tiên, học hỏi và xây dựng đất nước mạnh mẽ, cảnh giác trước mọi âm mưu xâm lược từ phía kẻ thù.
Đối với những người lính cách mạng như chúng tôi, chắc chắn không bao giờ quên được những năm tháng gian khổ trong cuộc chiến chống thực dân Pháp. Nhớ mãi những nỗi đau, nỗi vất vả, nhưng cũng không quên tình đồng đội, tình đồng chí bền chặt. Tình đồng chí, nguồn tự hào của chúng tôi, kể về những năm tháng kháng chiến đầy gian khổ nhưng cũng vô cùng hào hùng của dân tộc Việt Nam.
Tôi là một người nông dân, sinh ra ở miền núi trung du khô cằn, nơi 'đất cày lên sỏi đá'. Suốt đời, tôi chưa từng bước ra khỏi làng quê, tầm nhìn của tôi còn hạn chế, và tôi từng nghĩ rằng cuộc đời sẽ mãi yên bình tại quê hương thanh tịnh. Nhưng sự bình yên đó đã bị phá vỡ bởi âm thanh của những viên đạn tàn ác từ bọn Pháp. Họ xâm lấn, khinh thường tổ quốc ta và nhân dân ta. Sau khi hiểu được tầm quan trọng của cuộc cách mạng, theo lời kêu gọi toàn quốc của Bác Hồ, nhiều người nông dân như tôi đã gói lại áo vải lên đường chiến đấu. Ruộng đồng và nhà cửa đều để lại, chẳng quan trọng hơn cuộc chiến.
Chúng tôi chiến đấu để bảo vệ vầng trăng hòa bình, trả lại sự bình yên cho dân tộc và đất nước. Bên cạnh đồng đội, vầng trăng cũng là người bạn thân thiết của chúng tôi. Trăng soi rọi con đường hành quân, trở thành người bạn đồng hành chia sẻ niềm vui và nỗi buồn. Trước khi nổ súng, việc nhìn vầng trăng đã làm tinh thần chúng tôi trở nên kiên cường và cao đẹp. Với chúng tôi, súng và trăng là một cặp đồng chí, gợi lên nhiều suy tưởng thú vị. Súng và trăng, gần gũi và xa cách, chiến đấu và trữ tình, chiến sĩ và thi sĩ, chất thép và chất thơ, chiến tranh và hòa bình, cứng rắn và dịu dàng, bổ sung cho nhau và khẳng định mục tiêu của cuộc chiến đấu.
Khi nhập ngũ, tôi đã gặp nhiều người cùng hoàn cảnh với mình. Một đồng đội, cũng là người nông dân nghèo như tôi, quê anh thuộc vùng ven biển 'nước mặn đồng chua', nơi cả năm làm việc vất vả mà vẫn thiếu thốn, nghèo khổ. Sự đồng điệu về hoàn cảnh khiến chúng tôi gắn bó hơn. Những ngày tháng chiến đấu, chung trải qua cuộc sống gian khổ đã làm cho chúng tôi hiểu nhau hơn, trở thành tri kỷ đôi. Tôi nhớ mãi lời anh nói:
- Anh biết không, ở quê nhà tôi, còn có cha già, mẹ yếu, vợ con thơ... Mặc kệ tất cả để lên đường chiến đấu, nhưng tôi nhớ quê nhà với giếng nước gốc đa sân đình, gia đình, bạn bè. Ôi, nhớ quá!
Lời của anh cũng là của tôi, của nhiều lính chống Pháp. Tôi cũng nhớ quê nhà lắm, nhưng khi đất nước có chiến tranh, làm sao lòng yên phận cho riêng mình. Bác Hồ đã nói, bọn giặc rất tàn bạo, ta phải nhân nhượng chúng càng lấn tới, không thể hạnh phúc khi đất nước bị xâm lăng. Rồi tôi cũng sẽ chia sẻ với anh những nỗi niềm thầm kín. Tình đồng chí gắn bó với lí tưởng chiến đấu cho độc lập tự do dân tộc, đoàn kết hàng ngũ cách mạng. Khi đó, chúng tôi gọi nhau là đồng chí. Hai tiếng đồng chí thật thiêng liêng, nói lên sự gắn bó của chúng tôi trong cuộc sống lính.
Người đồng chí của tôi đã cùng tôi vượt qua mọi khó khăn, thách thức trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Khi tôi bị sốt rét rừng, anh đã chăm sóc tôi chu đáo, lấy khăn ướt lau trán tôi để hạ sốt. Khi tôi rét run, anh không ngần ngại nhường chiếc chăn duy nhất của mình cho tôi giữ ấm. Rồi anh cũng bị bệnh vì sốt rét rừng ở Việt Bắc, tôi cũng chăm sóc anh bằng cả tấm lòng. Làm sao có thể quên những ngày tháng khó khăn đó! Áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày nhưng chúng tôi vẫn mỉm cười vui vẻ, lạc quan. Chúng tôi yêu thương, hiểu nhau thật nhiều. Chỉ cần nắm tay nhau, chúng tôi hiểu mình có đồng chí bên cạnh, đồng cảm với nhau, cùng đoàn kết chiến đấu. Nắm tay nhau động viên nhau vượt qua khó khăn, đối với tôi, đó quý hơn lời nói. Có ai hỏi tôi kỷ niệm nào đáng nhớ nhất của tình đồng chí, tôi không cần phải suy nghĩ, đó là những đêm phục kích trong rừng sương muối, chúng tôi vẫn đứng cạnh bên nhau chờ giặc, tay cầm chắc súng, tinh thần vững mạnh vì có đồng chí bên cạnh. Lúc đó, mũi súng di động quan sát, đầu súng chênh chếch hướng lên trời. Ôi, ánh trăng, vầng trăng nơi núi rừng Việt Bắc mới sáng rõ làm sao! Ánh trăng lung linh như chiếc đĩa bạc, treo đầu súng. Mũi súng hướng đến đâu, trăng cũng theo đến đó. Giữa núi rừng tĩnh mịch, chỉ có chúng tôi: 'đôi bạn lính, súng và cả ánh trăng trên cao'. Chúng tôi như được gắn kết với nhau. Tình đồng chí đã tạo ra sức mạnh cho chúng tôi chiến đấu, quyết tâm giành thắng lợi cho Tổ quốc.
Người đồng chí ơi! Chúng ta đã cùng nhau viết nên những trang sử vinh quang trong quá trình bảo vệ đất nước. Từ chiến dịch Việt Bắc thu đông đến chiến dịch Điện Biên Phủ vẻ vang, hai tiếng đồng chí luôn cất lên trên bước đường hành quân của người lính. Quá khứ sẽ qua đi, nhưng lịch sử vẫn mãi ghi nhận những chiến công hào hùng của chúng ta trong cuộc chiến chống giặc. Chính tình đồng chí, tình yêu nước đã làm nên chiến thắng vang dội của những người lính gốc nông dân. Đó là sức mạnh của dân tộc. Tình đồng chí đã phát huy trong thời kỳ chống Mĩ và cả thời hòa bình. Hai tiếng đồng chí thật thiêng liêng, cao đẹp, luôn gợi nhiều xúc động trong tôi - người lính đã tham gia cuộc chiến chống giặc Pháp năm xưa.
Tham gia vào diễn kịch, tôi kể lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 12
Sau khi giành chiến thắng mùa thu năm 1945, không được trải qua niềm vui độc lập được bao lâu thì thực dân Pháp đã tái chiếm nước ta bằng vũ lực. Tôi, một người nông dân chân chất của vùng quê nghèo, đã tuân theo lệnh của chính phủ, để lại quê hương để tham gia kháng chiến với quyết tâm không để đất nước mình bị kẻ thù xâm lược lần nữa.
Quen với việc cầm cuốc, quen với công việc trên ruộng, bây giờ lại phải cầm khẩu súng, thật sự tôi chưa quen. Nhưng với tinh thần yêu nước và ý chí quyết tâm, tôi không ngần ngại tuân theo lời chỉ dẫn của anh em để hoàn thành nhiệm vụ một cách xuất sắc. Chúng tôi hành quân trên đường ra trận, những đêm trăng luôn chiếu sáng mỗi bước đi của chúng tôi. Dù chưa qua luyện tập, nhưng tôi tin rằng với lòng yêu nước, chúng tôi có thể vượt qua mọi khó khăn để giành được độc lập tự do.
Năm 1947, đơn vị của chúng tôi tham gia chiến dịch Việt Bắc cùng nhiều đơn vị khác. Những người chưa quen biết nhau bỗng trở thành những người anh em, đồng chí, cùng chia sẻ những niềm vui và nỗi buồn. Lòng yêu nước là sợi dây kết nối chúng tôi, biến chúng tôi thành những người tri kỷ không thể tách rời.
Tôi quen Kiên trong hoàn cảnh đó. Anh bạn quê miền biển sớm trở thành người anh em thân thiết với tôi. Anh chia sẻ với tôi về quê hương miền duyên hải của anh, nơi gắn liền với khó khăn. Tôi kể về làng quê nghèo của tôi, cả hai đều có chung một số phận khó khăn, cùng xuất thân từ người nông dân chân lấm tay bùn. Tôi luôn nhớ nụ cười hiền lành của anh, nụ cười ánh lên trong những hoàn cảnh khó khăn. Từ những phương trời xa lạ, chúng tôi trở thành những người bạn tri kỷ, chia sẻ từ miếng ăn đến giấc ngủ, từ nỗi nhớ quê hương đến niềm vui chiến đấu.
Thời điểm ấy, chúng tôi phải sống trong hoàn cảnh thiếu thốn. Vật dụng quân trang, quân dụng thường không đủ, đôi khi hai người phải chia sẻ chăn mền. Rừng Trường Sơn, nơi linh thiêng và hoang sơ, từng khiến cả đơn vị chúng tôi phải chịu đựng căn bệnh sốt rét rừng khốc liệt, đau nhức da thịt, nhưng chúng tôi vẫn không bao giờ ngừng cười. Trời vào đông, cát lạnh xé da thịt, áo tôi rách vai, quần anh rách mảnh vá, chân không có giày. Chúng tôi dựa vào nhau để trao đổi hơi ấm, nắm lấy tay nhau để thêm sức mạnh cho đồng đội vượt qua bệnh tật, để cùng nhau chiến đấu. Buổi tối như vậy, tôi và Kiên thường chia sẻ về những nỗi nhớ nhà. Anh tâm sự anh đã gửi bạn thân cày cấy ruộng nương, anh đã bỏ lại sau lưng căn nhà tranh, để lại mẹ già, vợ trẻ, con thơ để ra trận. Nói đến đây, tôi cũng không kìm được nước mắt, chỉ biết động viên anh, đồng thời cũng động viên chính mình vượt qua nỗi nhớ nhà.
Dù gặp khó khăn, nhưng nơi chúng tôi đóng quân không bao giờ thiếu tiếng cười. Nhớ lại khi tôi bị cơn sốt rét rừng quấn quýt, trong cơn mê, tôi nghe thấy tiếng anh em gọi nhau mang cho tôi miếng nước, thấy bóng Kiên đang ngồi bên cạnh với vẻ lo âu hiện lên trên khuôn mặt. Những lúc như vậy, tôi lại có thêm sức mạnh để đương đầu với căn bệnh hành hạ tôi. Rồi, có lẽ chính nhờ tình anh em mà tôi đã sống sót kì diệu cho dù có lúc tưởng như cánh cửa của cái chết đã mở ra trước mắt.
Anh chú, đêm nay lại đi gác nhỉ? Có thêm một buổi ngắm trăng cuối rừng mà! – Kiên nói với tôi với vẻ hóm hỉnh.
Trong không gian rừng núi của Trường Sơn đại ngàn, dưới cái lạnh của mùa đông với sương muối khắp nơi, bóng chúng tôi trở nên rõ ràng dưới ánh trăng. Không ai nói một từ, chỉ có tiếng gió rít qua lá cây, nhưng lòng tôi cảm thấy rất ấm áp. Cuộc chiến vẫn còn dài và chúng tôi, những người lính áo vải, có lẽ sẽ phải xa quê hương thêm một thời gian dài. Nhưng tưởng tượng cờ đỏ sao vàng của Tổ quốc tung bay dưới bầu trời, nhớ đến niềm vui giải phóng của đồng bào, đặc biệt là những người anh em đã sát cánh bên tôi, tất cả những khó khăn đều trở nên nhẹ nhàng. Sống và chiến đấu cho lý tưởng cao cả của dân tộc, không gì tuyệt vời hơn thế!
Tham gia vào diễn kịch, tôi kể lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 13
Sau Hòa Bình đã trở về, cuộc sống êm đềm bên con cháu. Nhưng mỗi khi nhớ lại cuộc chiến xưa, lòng tôi lại rực cháy như ngày hôm qua. Hôm qua, cháu tôi đọc bài thơ Đồng Chí, kí ức xưa ùa về.
Thuở ấy, tôi giống như bao thanh niên Việt Nam khác, đầy khí thế và lòng căm thù quân giặc. Nước Việt Nam của chúng ta từng trù phú nhưng giặc đến khiến chúng ta nghèo đói. Quê hương tôi đất đá cằn cỗi, người lính được huy động đánh giặc. Đi đánh giặc là mong ước của thanh niên thời ấy. Chúng tôi xuất thân từ nông dân nghèo, nhanh chóng trở nên thân thiết. Chia sẻ về nỗi nhớ quê hương, nỗi nhớ nhà, lo lắng cho gia đình, tất cả đều đẩy chúng tôi vượt qua.
Nhớ lại những năm tháng ấy, đó là những năm bom đạn ác liệt. Đồng đội đã hi sinh không biết bao nhiêu người. Tôi chỉ muốn nhớ về tình đồng chí, những người anh em từng cùng ra trận. Chúng tôi chia sẻ từng miếng ăn, đêm đến chia nhau tấm chăn mỏng. Nhìn đồng đội mồ hôi vã ra mà người vẫn run vì lạnh, tôi không kìm được nước mắt. Chính anh đã xé áo ra để vá cho tôi. Biết ơn anh vô cùng vì sự hi sinh ấy.
Trong quân đội, đồng đội là người thân. Chúng tôi chia sẻ từng miếng cơm, đêm đến chia nhau tấm chăn mỏng. Lần tôi bị thương, anh nắm chặt lấy tay tôi và động viên. Trăng treo trên đầu súng, hình ảnh ấy tôi không quên.
Năm ngoái tôi nghe tin đồng chí qua đời. Tôi đau lòng mà tuổi già không cho phép gặp được anh lần cuối. Nhân câu chuyện này, tôi gửi lời cảm ơn tới đồng chí của mình. Có anh, mới có tôi ngày hôm nay.
Trong vai lính, tôi kể về bài thơ Đồng Chí - Mẫu 14
Hòa bình trở về sau hai năm chiến tranh. Nhưng trong lòng vẫn còn nhớ những ngày kháng chiến gian khổ, hùng vĩ. Nhớ những đồng đội đã sát cánh bên tôi.
Năm 1945, chiến tranh bùng nổ. Nghe lời kêu gọi của Bác, tôi và các thanh niên trong làng đăng kí tham gia kháng chiến. Từ một nông dân, tôi trở thành lính để bảo vệ tổ quốc, gia đình và quê hương.
Chúng tôi đóng quân ở Tây Bắc. Nhớ những đêm rét cùng anh bạn, chúng tôi chia sẻ nỗi nhớ quê nhà, người thân. Mặc cho bão táp, chúng tôi vẫn kiên định bảo vệ quê hương.
Chiến tranh gian khổ đã để lại nhiều kỷ niệm đáng nhớ. Trải qua những ngày thiếu thốn, chúng tôi càng gắn bó, thân thiết hơn. Nụ cười và sự đoàn kết giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn.
Đặc biệt, nhớ nhất những khoảnh khắc kề vai sát cánh. Khi phục kích địch, chờ đợi dưới ánh trăng, trong rừng sương muối, chúng tôi đoàn kết bên nhau. Trăng chứng minh tình đồng chí keo sơn của chúng tôi.
Ngày tháng kháng chiến gian khó, may mắn có đồng chí đồng đội kề vai sát cánh. Tình đồng chí gắn bó truyền sức mạnh, góp phần vào chiến thắng.
Trong vai lính, tôi kể về bài thơ Đồng Chí - Mẫu 15
Sau Chiến dịch mùa thu năm 1945, thực dân Pháp tấn công tái xâm lược. Tôi và bạn bè quyết tâm bảo vệ đất nước, hy sinh cho tự do.
Tham gia chiến dịch Việt Bắc 1947, gặp gỡ người lính đồng đội. Dù từ nơi khác nhau, nhưng chúng tôi đồng lòng chiến đấu vì đất nước. Những lời chia sẻ về quê nhà, về tình yêu dành cho tổ quốc khiến tôi càng kiên định bước đi.
Tây Bắc luôn là vùng đất hoang sơ, nơi cảm giác gặp nguy hiểm không chỉ từ chiến trường mà còn từ cơn sốt rét. Những người lính tự xoay sở giữa rừng núi lạnh buốt, thiếu thốn về trang phục và thức ăn, nhưng bên nhau chúng tôi vẫn luôn lạc quan, sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn.
Dù gian nan, nhưng giữa không gian núi rừng hoang vu, chúng tôi vẫn có những khoảnh khắc lãng mạn dưới ánh trăng. Ánh trăng là người bạn đồng hành của chúng tôi, làm cho những giây phút đơn giản trở nên đẹp đẽ và yên bình.
Trong cuộc chiến, tôi luôn sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc, bởi tôi biết luôn có đồng chí đồng đội tri kỷ cùng tôi. Chúng tôi sẽ vượt qua mọi khó khăn, chiến đấu cho lí tưởng cao cả của dân tộc.
Đóng vai lính, tôi kể lại bài thơ Đồng Chí - Mẫu 16
Ngồi trên ghế đá mát lạnh, nhìn bầu trời xanh biếc, tôi nhớ về những ngày tháng ở chiến khu cùng đồng đội. Cùng bạn Tâm, chúng tôi chia sẻ niềm vui và nỗi buồn sau bao năm tháng.
Năm 1946, Pháp tiếp tục xâm lược đất nước với quy mô lớn và vũ khí hiện đại. Dù trẻ tuổi nhưng tôi đã quyết tâm tham gia cuộc chiến để giành lại độc lập cho quê hương. Ở chiến khu, tôi không cô đơn vì có những đồng chí chung niềm tin và mục tiêu.
Bằng hữu chúng tôi trở nên thân thiết hơn sau những buổi tối ngồi kể chuyện. Mỗi người đều mang trong lòng lo âu cho gia đình và quê hương, nhưng chúng tôi vẫn cười đùa để quên đi nỗi lo.
Túp lều trong rừng giá lạnh buốt và sương muối ẩm ướt, nhưng những đôi tri kỷ vẫn cố gắng chia sẻ chăn ấm cho nhau. Dù môi trường khắc nghiệt và dịch bệnh hoành hành, chúng tôi vẫn kiên cường vượt qua.
Vì đất nước, chúng tôi sẵn sàng hy sinh bản thân. Mặc cho gian khó và lo âu cho gia đình, chúng tôi không ngần ngại bước lên con đường gian nan này.
Trên con đường gian khổ, mặc cho nắng mưa, quần áo rách rưới và chân chai sần, chúng tôi vẫn không bao giờ từ bỏ. Bằng tinh thần đoàn kết và quyết tâm, chúng tôi vượt qua mọi thử thách.
Vào ban đêm, rừng phủ đầy sương muối lạnh cóng, làm cho cả hai tay lạnh buốt. Xung quanh bóng tối mịt mùng, những tán cây trở nên u tối, chỉ có ánh trăng bạc tỏa sáng làm loang sự tăm tối. Chúng tôi núp dưới bóng cây lớn, vai gánh súng thô sơ, sẵn sàng chờ đợi kẻ thù để tấn công. Đó là trận đấu dũng mãnh giữa dân quân Việt Nam và thực dân tàn ác.
Bây giờ, khi chiến tranh đã kết thúc, chúng tôi đã già đi nhưng những kỷ niệm về tuổi trẻ và những trận đánh không bao giờ phai nhạt trong lòng tôi, cũng như trong lòng mọi người. Những kỷ niệm về những cuộc trò chuyện, những bài hát về hy vọng chiến thắng của tổ quốc. Tất cả như một câu chuyện vẫn chưa kể hết, nhưng không bao giờ bị quên lãng.