


Bò tót | |
---|---|
Con đực | |
Con cái và con non | |
Tình trạng bảo tồn | |
Sắp nguy cấp (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Mammalia |
Bộ (ordo) | Artiodactyla |
Họ (familia) | Bovidae |
Phân họ (subfamilia) | Bovinae |
Chi (genus) | Bos |
Loài (species) | B. gaurus |
Danh pháp hai phần | |
Bos gaurus Smith, 1827 | |
Phạm vi phân bố bò tót |
Bò tót (Bos gaurus) (tiếng Anh: Gaur) là một loài động vật guốc chẵn thuộc Họ Trâu bò. Chúng có bộ lông màu tối và kích thước rất lớn, sống chủ yếu ở vùng đồi của Ấn Độ, Đông Á và Đông Nam Á. Chúng còn được gọi là bò rừng Mã Lai hay bò rừng bison Ấn Độ, mặc dù thực tế chúng không có mối liên hệ gần gũi với loài bò rừng bison ở châu Âu và Bắc Mỹ. Từ năm 1986, chúng đã được liệt kê là loài dễ bị tổn thương trong sách đỏ IUCN. Đến năm 2016, số lượng toàn cầu được ước tính tối đa là 21.000 cá thể trưởng thành. Số lượng đã giảm hơn 70% trong ba thế hệ gần đây và có thể đã tuyệt chủng ở Sri Lanka và Bangladesh. Trong các khu vực được bảo vệ tốt, số lượng của chúng đang ổn định và gia tăng.
Tại Việt Nam, bò tót được các dân tộc thiểu số gọi là con min, có nghĩa là 'trâu rừng' vì chúng có hình dáng giống trâu. Đây là loài lớn nhất trong tất cả các loài thuộc Họ Trâu bò trên thế giới, vượt trội hơn cả trâu rừng châu Á và bò bison châu Mỹ. Một con bò đực trưởng thành thường nặng đến hàng tấn. Ở Malaysia, chúng được gọi là seladang, và pyaung ပြောင် ở Myanmar.
Bò tót có thể sống hoang dã hoặc đã được thuần hóa. Các nhóm hoang dã và đã thuần hóa đôi khi được phân loại riêng, với bò tót hoang dã là Bos gaurus và bò tót thuần hóa là Bos frontalis. Trong truyền thông và thường thức, người Việt thường gọi giống bò đấu Toro Bravo (bò tót Tây Ban Nha) là 'bò tót', nhưng thực chất Toro Bravo không phải là loài bò tót mà là một giống bò nhà.
Đặc điểm sinh học
Bò tót có hình dáng như trâu ở phần đầu và giống bò ở phần thân sau. Chúng là loài động vật có kích thước cực lớn. Ở Ấn Độ và Mã Lai, bò tót được coi là biểu tượng của sức mạnh và sự vững chãi. Một con bò đực trưởng thành thường cao từ 1,8-1,9m, dài khoảng 3m. Trọng lượng trung bình của bò tót Ấn Độ khoảng 1,3 tấn, bò tót Mã Lai khoảng 1 tấn, và bò tót Đông Dương khoảng 1,5 tấn. Những cá thể lớn có thể cao tới 2,1 - 2,2m, dài 3,6 - 3,8m và nặng trên 1,7 tấn. Với kích thước này, bò tót đứng thứ ba về chiều cao trong các loài động vật, chỉ sau hươu cao cổ và voi, cao hơn cả năm loài tê giác. Về trọng lượng, bò tót đứng thứ năm trên cạn, sau voi, tê giác trắng, tê giác Ấn Độ và hà mã. Bò cái thường thấp hơn bò đực khoảng 20 cm và nặng khoảng 60 - 70% so với bò đực.
Bò đực có màu đen bóng, lông ngắn và thường trụi dần khi tuổi cao. Bò cái có màu nâu sẫm, những con sống ở môi trường khô và thưa còn có màu hung đỏ. Cả bò đực và bò cái đều có sừng, với sừng to, chắc và uốn cong về phía trước. Chiều dài trung bình của sừng bò đực từ 80 – 85 cm, còn sừng bò cái ngắn hơn, nhỏ hơn và uốn cong hơn. Trên trán, giữa hai gốc sừng có một chỏm lông màu vàng. Mũi sừng có màu xanh xám, chuyển dần sang xám đen rồi đen bóng ở những con bò già. Gốc sừng có màu xám đen với các lằn rãnh nằm ngang, gọi là răng. Phần giữa gốc sừng và mũi sừng có màu vàng nhạt.
Đuôi của bò tót chỉ dài đến khuỷu chân sau. Tất cả bốn chân từ khuỷu chân trở xuống có màu trắng, giống như đang đi tất trắng. Bò đực còn có một dải cơ bắp chạy dọc sống lưng đến quá bả vai và một cái yếm lớn trước ngực, tạo nên vẻ ngoài rất ấn tượng. Về mặt di truyền, trước đây người ta nghĩ rằng chúng có liên quan gần với trâu, nhưng các phân tích gen gần đây cho thấy chúng gần gũi với bò hơn, và bò tót có thể tạo ra con lai có khả năng sinh sản với bò. Người ta cho rằng họ hàng gần nhất của chúng là bò banteng và cho rằng chúng có thể sinh con lai có khả năng sinh sản.

Tập tính

Trong môi trường hoang dã, bò tót thường sống thành các đàn từ 8-10 cá thể. Các bò đực trưởng thành thường sống đơn độc hoặc tụ tập thành các nhóm nhỏ. Bò tót ưa thích ăn lá non, mầm tre non và cỏ non mới mọc ở các khu vực bị đốt cháy. Thời gian mang thai của bò tót khoảng 270 ngày, sinh con mỗi năm một lứa, mỗi lứa thường chỉ một con. So với bò rừng, bò tót có tính cách dữ dằn hơn và nguy hiểm hơn với con người. Khi bị tấn công, bò tót không phân tán như bò rừng mà sẵn sàng phản công kẻ thù. Chúng thường xuyên húc đổ các vật cản và có thể gây nguy hiểm đến tính mạng con người.
Có những con bò tót đã giao phối với bò nhà. Vào năm 2008, tại Việt Nam, người dân phát hiện một con bò tót đực mạnh mẽ từ rừng sâu di chuyển về làng và xua đuổi các con bò cái nhà tại các khu vực nương rẫy dưới chân núi Tà Nin. Vào mùa động dục, con bò tót này lại trở về và chiến đấu với các bò đực nhà trong bầy, đã hạ gục 7 con bò đực trưởng thành và tạo ra hơn 12 con bò tót lai với thể trọng vượt trội và các đặc điểm nổi bật về lông và sừng.
Đối thủ tự nhiên
Với kích thước khổng lồ và sức mạnh vượt trội, bò tót gần như không có kẻ thù trong tự nhiên ngoài hổ. Hổ là loài thú săn mồi duy nhất có khả năng tấn công một con bò tót trưởng thành, tuy nhiên chỉ những con hổ trưởng thành, to lớn và dày dạn kinh nghiệm mới dám đối đầu với bò tót. Có ghi nhận về một con hổ Bengal đã săn được bò tót Ấn Độ, con hổ này đã tiếp cận và tấn công con bò tót bằng một cú cắn chí mạng vào cổ họng, khiến con bò tót khổng lồ không thể chống cự và cuối cùng gục ngã.
Các phân loài


- Bos gaurus laosiensis hoặc Bos gaurus readei: Bò tót Đông Dương, có mặt ở Myanmar, Trung Quốc, Việt Nam, Lào và Campuchia. Đây là phân loài bò tót có kích thước lớn nhất, nhưng cũng là loài bị săn bắn nhiều nhất. Một con bò đực lớn có thể cao tới 2,2 m và nặng trên 2 tấn. Hiện tại, ở Việt Nam chỉ còn khoảng 300 con bò tót, chủ yếu tập trung tại vườn quốc gia Mường Nhé (Điện Biên), các khu rừng Tây Nguyên, vườn quốc gia Chư Mom Rây (Kon Tum) và vườn quốc gia Cát Tiên (Lâm Đồng), cũng như sân bay Phú Bài (Huế). Tuy nhiên, những đàn bò tót này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng cao do nạn phá rừng và săn bắn trộm.
- Bos gaurus gaurus (Ấn Độ, Nepal), còn được gọi là 'bò rừng bizon Ấn Độ', là phân loài phổ biến nhất. Phân bố tại Ấn Độ, Nepal và Bhutan. Có kích thước rất lớn, bò đực có thể nặng tới 1,7 tấn, mặc dù vẫn nhỏ hơn so với bò tót Đông Dương. Sừng của chúng thường cong hơn so với sừng bò tót Đông Dương.
- Bos gaurus hubbacki (Thái Lan, Malaysia) là phân loài bò tót nhỏ nhất. Bò đực của phân loài này không có yếm trước ngực.
- Bos gaurus frontalis, hay bò tót thuần hóa hoặc bò tót nhà, có thể là con lai giữa bò tót và bò nhà; chúng có khả năng sinh sản.
Hình ảnh





Chú giải

Liên kết tham khảo
- Khám phá bò tót khổng lồ ở rừng Cát Tiên
- Hãy bảo vệ những con bò rừng cuối cùng của Việt Nam Lưu trữ 2007-09-27 tại Wayback Machine
- Vụ việc bò tót Việt Nam bị kiểm lâm chặt đầu
- Bò tót xuất hiện ở Phong Nha-Kẻ Bàng
- Đàn 13 con bò tót xuất hiện tại rừng Khe Kỷ, Quảng Trị
Các loài động vật có tình trạng đang bị đe dọa tuyệt chủng ở Việt Nam |
---|