Bò trắng xanh Bỉ, còn được biết đến với tên gọi Bò BBB (Blanc-Blue-Belgium - Blanc Bleu Belge) hay bò 3B hoặc bò cơ bắp, là một giống bò thịt cao cấp có nguồn gốc từ Bỉ. Được lai tạo từ năm 1919 bằng cách kết hợp bò địa phương của Bỉ với bò Shorthorn (Pháp), giống bò này nổi bật với cơ bắp phát triển vượt trội, đặc biệt ở vùng đùi sau. Bò BBB có ngoại hình đẹp mắt, khả năng tiêu hóa thức ăn hiệu quả, thịt ngon và mang lại hiệu quả kinh tế cao. Chúng được xem là siêu bò trong ngành công nghiệp thịt bò và sẽ sớm xuất hiện trên thị trường với các sản phẩm như siêu sữa và siêu nạc. Tuy nhiên, một số người tiêu dùng vẫn lo ngại về an toàn của thực phẩm biến đổi gen.
Đặc điểm
Vẻ ngoài

Giống bò này nổi bật với ngoại hình cơ bắp, đặc biệt là phần cơ mông. Bò Bỉ thường có ba màu lông chủ yếu: trắng, xanh lốm đốm hoặc trắng lốm đốm. Các màu lông này bao gồm trắng, trắng pha xanh (xám) và đen, do sự kết hợp của gien từ bò Shorthorn. Bò lai với Brahman hoặc Droughtmaster có thể có màu lông xám nhạt hoặc loang trắng đen. Một số cá thể có màu lông loang nhưng cũng có những cá thể trắng thuần.
Bò Bỉ có thân hình vạm vỡ, chắc chắn và đồ sộ, với cơ thể có phần giống như heo. Xương sườn tròn và mông không dốc, đuôi dài với chóp lông dày. Bộ cơ của chúng phát triển vượt trội, đặc biệt là cơ mông và đùi sau, do được lai tạo đặc biệt để tăng trưởng vùng thịt đùi. Giống bò này rất to lớn và cơ bắp, nổi bật với cơ mông phát triển đáng kể.
Cân nặng
Bò đực có trọng lượng từ 800 đến 1.100 kg, trong khi bò cái thường nặng khoảng 600 đến 700 kg. So với các giống bò khác, bò xanh Bỉ có lượng cơ phát triển hơn 40% so với bình thường. Chúng tăng trưởng nhanh và có khả năng sản xuất sữa giàu protein. Hệ số sử dụng thức ăn là 5,5 đến 7 kg, là mức tốt nhất trong các giống bò thịt hiện nay. Bò đực trưởng thành có khối lượng từ 1.100 đến 1.250 kg, bò cái trưởng thành từ 750 đến 800 kg. Bò xanh Bỉ có khả năng sản xuất thịt tốt với mức tăng trọng trung bình đạt 1.300 g/ngày và tỷ lệ thịt xẻ đạt 66%.
Tỷ lệ thịt xẻ của bò BBB đạt 70% (tỷ lệ thịt tinh/thịt xẻ đạt 78%). Đây là giống bò có tỷ lệ thịt xẻ rất cao, khoảng 61,6%, trong khi các giống bò khác chỉ đạt 38-40%. Thịt của bò BBB có chất lượng thơm ngon. Bò cái khi mang thai lần đầu có trọng lượng từ 700 đến 750 kg, bò cái trưởng thành nặng từ 850 đến 900 kg, và bò đực trưởng thành nặng từ 1.100 đến 1.200 kg. Tuổi đẻ lứa đầu trung bình là 32 tháng, thời gian mang thai khoảng 280 ngày, tỷ lệ đẻ hàng năm đạt 80%, và khoảng cách giữa các lứa đẻ là 14 tháng. Một nhược điểm của bò cái BBB là độ đàn hồi của cơ xương chậu kém, dẫn đến 90% bò cái khi sinh phải mổ lấy thai.
Bê sơ sinh có trọng lượng khoảng 45,5 kg, trung bình 44 kg mỗi con. Trong giai đoạn 6-12 tháng, bê tăng trưởng trung bình 1.300 gram/ngày. Khi được một năm tuổi, trọng lượng của bê đạt khoảng 480 – 500 kg/con, trong đó bê đực nặng từ 470 đến 490 kg, và bê cái từ 370 đến 380 kg. Khi trưởng thành, bò đực có trọng lượng từ 1.100 đến 1.200 kg (có thể lên đến 1.400 kg trong một số trường hợp), trong khi bò cái nặng từ 710 đến 720 kg. Bò cái khi mang thai lứa đầu nặng từ 700 đến 750 kg, còn bò cái trưởng thành nặng từ 850 đến 900 kg. Ở tuổi giết thịt, bê đực từ 14 đến 16 tháng có tỷ lệ thịt xẻ đạt 66%.
Cấu trúc gen
Gen của giống bò này đã được điều chỉnh để có một gen khiếm khuyết, dẫn đến sự phát triển cơ bắp gấp đôi so với các giống bò bình thường. Bò đực trung bình có trọng lượng từ 800 đến 1.100 kg, trong khi bò cái từ 600 đến 700 kg. Một số cá thể có thể nặng hơn so với trọng lượng trung bình. Phần cơ mông phát triển đặc biệt nổi bật. Ngoài việc phát triển cơ bắp hơn 40% so với bình thường, giống bò này còn sản xuất sữa rất giàu protein. Để tạo ra giống bò thịt siêu này, các nhà nghiên cứu đã phải thực hiện quá trình lai tạo lâu dài, chọn lọc những cá thể tốt nhất, và sử dụng thụ tinh nhân tạo để duy trì các gen quan trọng.
Chăn nuôi
Tại Bỉ, số lượng bò BBB đã vượt quá 2 triệu con, chiếm 45% tổng số bò thịt trong nước và là giống bò hàng đầu về năng suất và chất lượng thịt trên toàn cầu. Bò BBB có khả năng thích ứng với nhiều khu vực địa lý khác nhau và hiện đang được nuôi tại nhiều quốc gia như Anh, Pháp, Mỹ, và Australia. Hiện tại, có hơn 20 hiệp hội chăn nuôi bò BBB trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, việc nuôi bò thịt BBB vẫn gặp nhiều khó khăn do chủ yếu là các trang trại nhỏ lẻ. Người nông dân chưa quen với việc ghi chép sổ sách, quản lý, và theo dõi chế độ ăn uống cũng như chăm sóc. Nhiều hộ chỉ nuôi bê đến 4-5 tháng tuổi rồi bán, trong khi bê nếu nuôi đến 18 tháng tuổi sẽ có giá trị kinh tế cao hơn rất nhiều. Do đó, việc duy trì bê đến 18 tháng tuổi sẽ mang lại giá trị kinh tế lớn hơn và từ đó cải thiện chất lượng đàn bò thịt từng bước.
Thương hiệu thịt bò sạch BBB tại Việt Nam đang gặp khó khăn. Một vấn đề lớn trong chăn nuôi bò là sản lượng thịt cung cấp cho nhà máy rất thấp, chỉ đạt 0,8%, và phần lớn tiêu thụ qua thương lái (80,6%). Vì phải tự tổ chức tiêu thụ sản phẩm, người nuôi dễ bị ép giá, ảnh hưởng đến hiệu quả chăn nuôi. Mặc dù chăn nuôi bò BBB có hiệu quả cao, để phát triển bền vững, các địa phương cần quy hoạch các khu chăn nuôi xa khu dân cư và xây dựng vùng trồng cỏ nguyên liệu.
Lai tạo
Thử nghiệm
Đã thực hiện khảo sát công thức lai tạo giống bò thịt chất lượng cao bằng cách lai bò Sind với bò BBB và ứng dụng trong chăn nuôi. Sử dụng tinh bò BBB (nhập khẩu) phối giống với đàn bò cái lai Sind đã được chọn lọc, nuôi trong điều kiện nông hộ ngoại thành đạt tỷ lệ thụ thai 100%. Trong 20 bê lai F1 (BBB x lai Sind) sinh ra, tất cả đều sinh đẻ bình thường mà không cần can thiệp. Trọng lượng sơ sinh bình quân của bê lai F1 (BBB x lai Sind) đạt 27 kg/con, cao hơn so với các công thức lai khác. Bê lai F1 (BBB x lai Sind) có tốc độ sinh trưởng và phát triển vượt trội so với các con lai khác đã nghiên cứu tại Việt Nam.
Bê lai F1 (BBB x lai Sind) trưởng thành rất sớm, ở tuổi 10-12 tháng, trọng lượng có thể đạt từ 250-300 kg. Khả năng sản xuất thịt của bò lai F1 BBB vượt trội so với các giống bò thuần và bò lai khác. Đàn bò lai kinh tế này có khối lượng cao hơn 17,1 - 32,6% so với bò lai Sind trong cùng điều kiện. Bò F1 (BBB x lai Sind) đạt tỷ lệ thịt tinh từ 42-45%, trong khi bò F1 (BBB x lai Sind) đạt 48-51% so với bò lai Sind là 35-38%.
Tỷ lệ thịt xẻ của bò F1 (BBB x lai Sind) đạt từ 48-54%, cao hơn nhiều so với bò lai Sind (42-46%). Chi phí thức ăn để sản xuất 1 kg thịt bò của bò lai F1 BBB chỉ bằng khoảng 60% so với bò lai Sind. Do đó, giá thành sản xuất bò F1 BBB thấp hơn 28-30% so với bò lai Sind. Các kết quả cho thấy rằng công thức lai BBB x lai Sind tạo ra bò thịt có hiệu quả cao hơn so với các công thức lai khác đã được nghiên cứu tại Việt Nam.
Hướng phát triển
Việt Nam đang phát triển mô hình lai tạo bò BBB trên nền bò thịt lai Sind để tạo ra đàn bò lai F1 chuyên hướng thịt. Mục tiêu là xây dựng một chuỗi giá trị khép kín từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm nhằm nâng cao hiệu quả chăn nuôi và bảo đảm an toàn thực phẩm. Bò lai F1 BBB là kết quả của việc lai giống giữa bò đực BBB và bò cái lai Sind, tạo ra bê F1 với khả năng phát triển nhanh, chất lượng thịt tốt và sự thích nghi tốt với môi trường sống tại Việt Nam. Bê F1 BBB có tốc độ tăng trọng trung bình 25 kg/tháng, với một số cá thể lên đến 30 kg/tháng, dễ nuôi và ăn uống tốt.
Bê F1 sinh ra sau một tháng đã được thương lái mua với giá lên đến 16 triệu đồng/con, cao hơn 6-7 triệu đồng/con so với các bê lai khác. Một số bê F1 BBB 18 tháng tuổi có giá từ 36-38 triệu đồng/con, cao hơn 14-16 triệu đồng/con so với bò lai khác cùng tháng tuổi. Để đưa sản phẩm thịt bò chất lượng cao đến tay người tiêu dùng, cần xây dựng chương trình tiêu thụ bê lai F1 BBB theo chuỗi giá trị, tạo các trang trại thu mua bê F1 BBB (4-6 tháng tuổi) để nuôi gột và giải quyết đầu ra cho sản phẩm, đồng thời xây dựng vùng nguyên liệu tập trung cho giết mổ gia súc công nghiệp.
Những lo ngại
Giống bò xanh Bỉ (Belgian Blue) hiện đang gây nhiều tranh cãi do thuộc nhóm thực phẩm biến đổi gen với đặc tính siêu sữa và siêu nạc. Sự phát triển quá mức của cơ bắp có thể dẫn đến nguy cơ mắc bệnh tăng sản thớ cơ - tình trạng phát triển cơ bắp bất thường thay vì chỉ làm cho cơ thể lớn hơn. Mặc dù loại thịt bò này rất phổ biến ở Mỹ và một số quốc gia khác, việc tiêu thụ loại thịt bò này tại Việt Nam có thể sẽ thu hút những người yêu thích thịt bò, đặc biệt là thịt bò Mỹ. Tuy nhiên, việc sử dụng thực phẩm biến đổi gen, bao gồm cả thịt từ bò xanh Bỉ, vẫn là một chủ đề gây tranh cãi về độ an toàn.
Ghi chú
- Cheville, Norman F. (1999), Giới thiệu về bệnh học thú y, Wiley-Blackwell, ISBN 978-0-8138-2496-3.
- De Smet, S (2004). Jensen, Werner Klinth, ed. 'Những động vật có cơ bắp đôi'. Bách khoa toàn thư về Khoa học Thịt. Oxford: Elsevier. pp. 396–402. doi:10.1016/B0-12-464970-X/00260-9.
- Kambadur, R.; Sharma, M.; Smith, T. P. L.; Bass, J. J. (Tháng 9 năm 1997). 'Các đột biến trong myostatin (GDF8) ở bò xanh Bỉ và bò Piedmontese'. Nghiên cứu Gen 7 (9): 910–916. doi:10.1101/gr.7.9.910. PMID 9314496.
- Video Thú Y Học. 'Video về Ca mổ bò'. VetPulse TV in Practice. YouTube. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2013.