Bò xạ hương | |
---|---|
Khoảng thời gian tồn tại: 0.2–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
↓ | |
Bò xạ hương trong công viên động vật hoang dã Lüneburg Heath, Đức | |
Tình trạng bảo tồn
| |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
nhánh: | Mammaliaformes |
Lớp: | Mammalia |
Bộ: | Artiodactyla |
Họ: | Bovidae |
Phân họ: | Caprinae |
Chi: | Ovibos Blainville, 1816 |
Loài: | O. moschatus
|
Danh pháp hai phần | |
Ovibos moschatus (Zimmermann, 1780) | |
Bản đồ phạm vi: xanh là khu vực tái du nhập bò xạ hương trong thế kỷ 20; đỏ là phạm vi được thiết lập trước đó. | |
Các đồng nghĩa | |
Chủng loài chung:
Chủng loài riêng:
|
Bò xạ hương hay bò xạ (danh pháp hai phần: Ovibos moschatus) là loài động vật có vú duy nhất trong chi Ovibos thuộc họ Trâu bò sống ở Bắc Cực từ thời kỳ bằng hà cách đây gần 200.000 năm, nổi tiếng với bộ lông dày và mùi mạnh mẽ phát ra từ con đực. Mùi của chúng được sử dụng để hấp dẫn con cái trong mùa giao phối. Bò xạ hương sống chủ yếu sống ở Bắc Cực bao gồm phía Bắc Canada và Greenland, và một số các quần thể nhỏ ở Thụy Điển, Xibia, Na Uy và Alaska.
Lịch sử
Chúng được cho là loài động vật kỷ băng hà sống ở vùng Bắc Mỹ cách đây 200.000 - 90.000 năm. Cuối thời kỳ băng hà, giai đoạn Holocen chúng dần di chuyển khắp lục địa Bắc Mỹ, sang cả Greenland, tại các khu vực lạnh giá đầy tuyết.
Phân bố
Bò xạ hương có nguồn gốc ở khu vực vùng Bắc Cực thuộc Canada, Greenland, và Hoa Kỳ. Tuy nhiên, ở Alaska cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 gần như chúng đã không còn tồn tại. Sự suy giảm nguyên nhân là do tình trạng săn bắn quá mức, nhưng một nguyên nhân khác được cho là do việc biến đổi khí hậu ở đây. Tuy nhiên, chúng đã được tìm thấy với một số ít ở Đảo Nunivak (phía Tây Alaska) vào năm 1935. Chúng cũng được tìm thấy ở các khu vực đảo thuộc Bắc Âu, bao gồm Thụy Điển, dãy núi Dovrefjell (Na Uy), các đảo phía Bắc Nga, khu vực bán đảo Taymyr của Siberia và từ Đảo Ellesmere kéo dài qua miền Đông Canada. Tại tỉnh Quebec, bò xạ hương gần như là tuyệt chủng, nhưng đã dần phục hồi sau khi chúng được bảo vệ nghiêm ngặt. Uớc tính hiện nay có khoảng 80.000 tới 125.000 con,, riêng tại đảo Banks ở Canada đã có 68.788 con..
Trong suốt mùa hè, bò xạ hương sống ở các khu vực ẩm ướt, như các thung lũng sông và di chuyển lên các vùng núi cao hơn vào mùa đông. Thức ăn của chúng bao gồm cỏ liễu Bắc cực, địa y và rêu dưới lớp tuyết. Khi thức ăn dồi dào, chúng ăn các loại cỏ mọng nước và dinh dưỡng hơn. Bò xạ hương có thể dự trữ một lượng chất béo rất lớn trước khi mang thai nhằm cung cấp sữa cho các con của chúng và để thích nghi với tình trạng khan hiếm thức ăn. Các mối đe dọa tới chúng, ngoài khí hậu thì còn có các loài động vật ăn thịt khác bao gồm sói Bắc Cực, gấu xám Bắc Mỹ và gấu Bắc Cực hay gấu mặt ngắn khổng lồ (một loài đã tuyệt chủng).
Hành vi
Bò xạ hương tụ họp thành từng đàn vào khoảng từ 12-24 con vào mùa đông và 8-20 con vào mùa hè. Con đực đảm nhận vai trò thống trị trong đàn bằng nhiều cách khác nhau như gầm gừ, dập chân xuống đất hay sử dụng sừng để đe dọa những con khác trong đàn.
Mùa sinh sản của bò xạ hương diễn ra từ tháng 6 đến tháng 7. Một con bò đực có thể giao phối với nhiều con cái. Các con đực trong đàn có thể cạnh tranh để có quyền sinh sản. Một số con bò đực có thể chọn rời đàn để tìm kiếm đàn mới hoặc sống một mình, nhưng khi đối mặt nguy hiểm, chúng sẽ quay lại đàn để bảo vệ lẫn nhau. Các con bò đực quyết định hướng đi của đàn, nhưng khi các con cái mang thai, chúng sẽ quyết định hướng đi, khoảng cách và cả nơi nghỉ ngơi của đàn. Thời gian mang thai của bò cái kéo dài từ 8 - 9 tháng, bê con thường được sinh ra từ tháng 4 - 6 và có thể đứng lên đi được chỉ sau một giờ. Trong hai tháng đầu đời, chúng phụ thuộc vào sữa mẹ, sau đó chuyển sang ăn các loài thực vật. Trong những năm thời tiết khắc nghiệt, khi nguồn thức ăn khan hiếm, bò xạ hương sẽ không sinh sản.
Một đặc điểm nổi bật của bò xạ hương là khả năng tự bảo vệ khi gặp kẻ săn mồi. Khi gặp nguy hiểm, đàn bò xạ hương sẽ nhanh chóng leo lên những vùng đất cao hơn. Các con bò đực mạnh mẽ sẽ chiến đấu ở phía ngoài, tạo thành một vòng bảo vệ bán nguyệt để bảo vệ những con yếu và bê con.
Mô tả chi tiết
Bò xạ hương có mối liên hệ chặt chẽ với cừu và dê hơn so với bò, nên được phân loại vào một chi riêng. Chúng có chiều cao từ 1,1 - 1,5 m (4 - 5 ft), dài từ 1,35 - 2,0 m (4,4 - 6,6 ft) đối với con cái và từ 2,0 đến 2,5 m (6,6 - 8,2 ft) đối với con đực. Bò xạ hương có đuôi ngắn (chỉ khoảng 10 cm) được che giấu trong lớp lông dày. Trọng lượng của một con bò xạ hương trưởng thành dao động từ 180 - 410 kg (400 - 900 lb) với tuổi thọ từ 12 - 20 năm. Chúng có đầu to với bộ lông dày, thường được so sánh với bò rừng bizon nhưng chỉ bằng một nửa kích thước. Tuy nhiên, một số con bò xạ hương ở vườn thú có thể nặng đến 650 kg (1.400 lb). Bò xạ hương có lông hai lớp, với lớp ngoài màu đen xám, nâu dài chạm đất và lớp lông lót bên trong. Nhờ vào lớp lông dày này, chúng có thể chịu được nhiệt độ lạnh giá lên tới âm 40 độ C. Một số ít bò xạ hương có lông màu trắng cũng được tìm thấy ở Khu bảo tồn chim di trú vịnh Queen Maud (Bắc Canada).
Tình trạng và bảo tồn
Trong lịch sử, bò xạ hương đã phải chịu sự săn bắn mạnh mẽ dẫn đến giảm số lượng nhưng sau đó đã được phục hồi dần nhờ vào các biện pháp nghiêm ngặt trong việc cấm săn bắn. Hiện tại, chúng ít khi gặp phải mối đe dọa lớn ngoài các biến đổi của khí hậu và một số động vật săn mồi. Các khu vực bảo tồn như Công viên quốc gia Đông Bắc Greenland, Khu bảo tồn thiên nhiên Arnangarnup Qoorua, Khu dự trữ sinh quyển Maniitsoq Caribou và các khu bảo tồn thiên nhiên tại Kangerlussuaq tập trung vào việc bảo vệ và duy trì số lượng bò xạ hương trong tự nhiên.
Bò xạ hương được nuôi tại các vùng đất lạnh, cung cấp thịt, sữa và lông để sản xuất len. Sợi len từ lông bò xạ hương mềm mại, giữ ấm tốt và có giá trị kinh tế cao.