
Boeing 737 | |
---|---|
Boeing 737-232 (N310DA) của Delta Air Lines | |
Kiểu | Máy bay thân hẹp |
Quốc gia chế tạo | Mỹ |
Hãng sản xuất | Boeing Commercial Aircraft |
Chuyến bay đầu tiên | 9 tháng 4 năm 1967; 57 năm trước |
Bắt đầu được trang bị vào lúc |
10 tháng 2 năm 1968 (56 năm trước) , with Lufthansa |
Tình trạng | Đang hoạt động, Boeing 737 MAX đã hoạt động trở lại |
Trang bị cho | Southwest Airlines
|
Được chế tạo | 1966 | – hiện tại
Số lượng sản xuất | 11.569 tính đến tháng 10 năm 2023 |
Biến thể | P-8 Poseidon C-40 Clipper Boeing T-43 |
Phát triển thành |
|
Boeing 737 là dòng máy bay thân hẹp với một lối đi giữa, được ưa chuộng cho các chuyến bay ngắn đến trung bình và được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Với hơn 17.000 chiếc đã được đặt hàng và hơn 10.000 chiếc đã được giao, đây là mẫu máy bay phản lực thương mại phổ biến nhất trong lịch sử và đã được sản xuất liên tục bởi Boeing từ năm 1967. Đến nay, có khoảng 4200 chiếc 737 (loại NG) đang hoạt động trên toàn thế giới.
Boeing 737-100/200 thuộc thế hệ 737 Original, trang bị hai động cơ phản lực Pratt & Whitney JT8D, có sức chứa từ 85 đến 136 hành khách. Nhận thấy tiềm năng của dòng 737, Boeing đã giới thiệu ba biến thể mới vào năm 1984: -300/-400/-500 (hay còn gọi là 737 Classic), với động cơ CFM-56-3 do GE và CFM International sản xuất, có sức chứa từ 140 đến 179 hành khách. Vào năm 1997, Boeing công bố 737 Next Generation với các biến thể -600/-700(ER)/-800/-900ER, được trang bị động cơ CFM-56-7B và có khả năng chứa từ 149 đến 215 hành khách. Cuối cùng, vào tháng 6 năm 2011, Boeing giới thiệu thế hệ mới nhất của dòng 737 - 737 MAX với bốn biến thể: -7/-8/-9/-10, trang bị động cơ CFM LEAP-1B cải tiến và có sức chứa từ 149 đến 244 hành khách.
Phát triển
Cuối năm 1958, Boeing đã công bố thiết kế nghiên cứu cho một chiếc máy bay trung chuyển hai động cơ nhằm hoàn thiện dòng máy bay chở khách của mình. Boeing cần phát triển một đối thủ trong phân khúc máy bay phản lực công suất nhỏ với tầm bay ngắn, trong khi thị trường đã có những mẫu máy bay tiên phong như Sud Aviation Caravelle, BAC 1-11 và Douglas DC-9 sắp đi vào hoạt động. Đến năm 1964, Joe Sutter và Jack Steiner bắt tay vào thiết kế. Ban đầu, Boeing dự định sản xuất máy bay có từ 60-85 ghế, tầm bay từ 160 đến 1.600 km, nhưng sau khi tham khảo ý kiến của khách hàng, đặc biệt là Lufthansa, Boeing đã điều chỉnh thiết kế để máy bay có 100 ghế.
Khi Boeing 737 được giới thiệu, Boeing đã tụt lại xa so với các đối thủ vì những đối thủ này đã hoàn tất chứng nhận bay. Để rút ngắn thời gian phát triển, Boeing đã tận dụng đến 60% thiết kế và hệ thống từ phiên bản B727 đã có, nổi bật với thiết kế thân máy bay cho phép bố trí sáu ghế mỗi hàng, khác biệt so với năm ghế một hàng của các đối thủ như 1-11 và DC-9. Thiết kế thân máy bay tương tự cũng đã được áp dụng cho B707 và sau này là B757.
Lịch sử hoạt động
Chiếc Boeing 737-100 đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 9 tháng 4 năm 1967 dưới sự điều khiển của hai phi công Brien Wygle và Lew Wallick, và bắt đầu phục vụ vào tháng 2 năm 1968 với hãng hàng không Lufthansa, mở ra một chương mới cho Boeing. Boeing 737-200 đã thực hiện chuyến bay đầu tiên vào ngày 8 tháng 8 năm 1967. Chỉ có Lufthansa là khách hàng chủ yếu của 737-100 với chỉ 30 chiếc được sản xuất. Trong khi đó, 737-200, phiên bản dài hơn, được ưa chuộng hơn và đã được sản xuất đến năm 1988. Khách hàng đầu tiên của 737-200 là United Airlines, với chuyến bay khai trương từ Chicago O'Hare (ORD) đến Grand Rapids, Michigan (GRR) vào ngày 28 tháng 4 năm 1968. Sau máy bay thứ 135, Boeing đã cải tiến -200 thành -200 Advanced, một biến thể trở thành tiêu chuẩn cho đến khi ngừng sản xuất.
Vào đầu thập niên 1980, Boeing giới thiệu dòng 737 Classic với công nghệ mới nhưng vẫn duy trì sự tương đồng với các mẫu 737 trước đó. Việc trang bị động cơ CFM-56-3 không chỉ giúp tiết kiệm nhiên liệu mà còn tạo ra thách thức thiết kế do khoảng cách giữa máy bay và mặt đất giảm. Boeing và CFM International đã khắc phục vấn đề này bằng cách lắp động cơ phía trước cánh (thay vì phía dưới) và dời các phụ tùng động cơ về hai bên vỏ động cơ, giúp dòng 737 có chỗ lấy khí vào không còn hình tròn riêng biệt.
Trước áp lực từ dòng Airbus A320 hiện đại, Boeing đã khởi động chương trình 737 Next Generation (NG) vào năm 1993. Dòng Boeing 737NG bao gồm các biến thể -600/-700/-800/-900. Đây là phiên bản nâng cấp đáng kể nhất của 737, với hiệu suất hoạt động tương đương một mẫu máy bay mới, nhưng vẫn giữ được những đặc điểm giống với các phiên bản trước.



Vào năm 2004, Boeing đã giới thiệu phiên bản chuyên dụng cho sân bay ngắn (Short Field Performance) để đáp ứng yêu cầu của Gol Transportes Aéreos, một hãng hàng không thường xuyên hoạt động từ các sân bay hạn chế. Phiên bản này luôn có sẵn cho dòng 737NG và là thiết bị tiêu chuẩn cho 737-900ER. Những cải tiến này đã nâng cao khả năng cất cánh và hạ cánh của máy bay.
Vào ngày 13 tháng 2 năm 2006, Boeing đã bàn giao chiếc 737 thứ 5000 cho hãng Southwest Airlines. Chiếc 737-700 này là chiếc 737 thứ 447 gia nhập đội bay hoàn toàn của hãng chỉ sử dụng 737.
Thiết kế
Khung máy bay
Thiết kế thân máy bay và phần mũi dựa trên mô hình Boeing 707 và Boeing 727. Buồng lái đời đầu có các 'cửa sổ lông mày' nằm phía trên kính chắn gió, một đặc điểm từ B707 và B727 nhằm cung cấp tầm nhìn tốt hơn cho phi công. Những cửa sổ này đôi khi được tháo ra và lắp lại, thường trong quá trình bảo trì, và có thể được nhận diện bằng phích cắm kim loại khác biệt so với các mẫu máy bay sau này.
Hệ thống hạ cánh chính nằm dưới cánh giữa cabin, với các chân bánh xe quay vào bên trong bụng máy bay. Các chân được che bởi cửa và các lốp có thiết kế 'giống như bàn chải' để tối ưu hóa khí động học. Các mặt lốp tiếp xúc với không khí khi bay, và 'nắp trung tâm' hoàn thiện khí động học của lốp. Việc vận hành mà không có nắp là không được phép vì chúng liên kết với cảm biến tốc độ mặt đất giúp hệ thống phanh chống trượt hoạt động hiệu quả. Phần tối của lốp thường thấy rõ khi máy bay cất cánh hoặc ở độ cao thấp.
Động cơ
Các động cơ trên dòng 737 Classic (-300/-400/-500) và Next Generation (-600/-700/-800/-900) không sử dụng thiết kế cửa hút gió tròn như nhiều máy bay khác mà có thiết kế dạng vây ở phía dưới. Dòng 737 Classic trang bị động cơ phản lực cánh quạt CFM56 với nhánh rẽ cao, hiệu quả hơn 25% và giảm tiếng ồn nhiều so với động cơ nhánh rẽ thấp JT8D của dòng 737 Original (100 và 200). Boeing và CFM International (CFMI) đã khắc phục vấn đề bằng cách đặt động cơ phía trước cánh và chuyển các phụ kiện động cơ ra hai bên vỏ, tạo ra một thiết kế khe hút gió không tròn đặc biệt cho 737 Classic và các thế hệ sau.
Cánh gió của các mẫu 737 cũng được cải tiến để nâng cao hiệu quả khí động học. Hộp số phụ của động cơ đã được di chuyển từ vị trí dưới động cơ lên vị trí bên hông, tạo ra hình dạng hơi tròn cho động cơ. Với động cơ gần mặt đất, 737-300 và các mẫu sau này dễ bị dị vật vào động cơ hơn (FOD). Động cơ phản lực cánh quạt CFM56-7 trên 737 thế hệ tiếp theo tiết kiệm nhiên liệu hơn 7% so với CFM56-3 trên 737 Classic với cùng tỷ lệ. Dòng 737 MAX mới nhất sử dụng động cơ LEAP-1B từ CFMI với đường kính quạt 68 inch (1,73m), hiệu quả hơn 15% so với động cơ CFM56-7B trên dòng 737NG.



Hệ thống bay
Chiếc 737 nổi bật vì vẫn sử dụng hệ thống điều khiển bay cơ khí thủy lực, giống như Boeing 707 và các máy bay của thời kỳ đó. Hệ thống này truyền lệnh từ phi công tới các bề mặt điều khiển thông qua dây cáp thép chạy qua thân và cánh, khác với hệ thống dây dẫn điện hiện đại trên máy bay Airbus và các mẫu Boeing sau này. Điều này đã được chỉ ra là một vấn đề an toàn vì việc chuyển đổi từ hệ thống cơ khí sang điện hoặc điện tử có thể gặp khó khăn. Việc này khiến hệ thống điều khiển bay trở thành một điểm yếu tiềm ẩn, ví dụ như các mảnh kim loại do hỏng động cơ có thể gây hư hại cho cánh hoặc thân máy bay.
Bộ điều khiển chuyến bay chính có thêm một bản sao lưu cơ học. Nếu hệ thống thủy lực gặp sự cố hoặc khi hai động cơ cùng hỏng, hệ thống sẽ tự động chuyển sang điều khiển bằng tab servo. Trong chế độ này, các tab servo đảm nhiệm việc điều khiển khí động học của thang máy và máy bay; các tab này được điều khiển bởi dây cáp kết nối với chốt điều khiển. Phi công có thể điều chỉnh các tab servo một cách độc lập.
Các biến thể
Các thông số kỹ thuật
Biến thể | 737-100 | 737-200 | 737-300/-400/-500 | 737-600/-700/-800/-900 | 737 MAX-7/-7X/-8/-8-200/-9/-10 | |
---|---|---|---|---|---|---|
Đội bay | Two | |||||
Ghế hai hạng | 85 chỗ | 102 chỗ | 126/147/110 (chỗ) | 108/128/160/177 (chỗ) | 138/x/162/x/178/188 (chỗ) | |
Ghế một hạng | 113 chỗ | 119 chỗ | 149/179/140 (chỗ) | 145/145/180/180 (chỗ) | 140/156/175/175/192/216 (chỗ) | |
Số ghế tối đa | 124 chỗ | 136 chỗ | 149/188/140 (chỗ) | 149/149/189/215 (chỗ) | 149/172/200/220/244 (chỗ) | |
Độ dài | 28,65 m (94,0 ft) | 30,63 m (100,5 ft) | 33,4 / 36,45 / 31,01 m (109,6 / 119,6 / 101,7 ft) | 31,2 / 33,6 / 39,5 / 42,2 m (102 / 110 / 130 / 138 ft) | 110,3 / 129,7 / 138,2 / 143,7 ft (33,63 / 39,52 / 42,11 / 43,8 m) | |
Sải cánh | 28,35 m (93,0 ft) | 28,88 m (94,8 ft) | 34,32 m (112,6 ft) winglets: 35,67 m (117,0 ft) |
35,9 m (118 ft) | ||
Diện tích cánh | 979,9 foot vuông (91,04 m), 25° sweep | 1.341,0 foot vuông (124,58 m) | 127,2 m (1.369 foot vuông) | |||
Độ cao | 11,28 m (37,0 ft) | 11,12 m (36,5 ft) | 12,6 m (41 ft) | 12,3 m (40 ft) | ||
Chiều ngang | Fuselage (Vỏ ngoài): 3,76 mét (12,3 ft), Cabin: 3,53 mét (11,6 ft) | |||||
Thể tích hàng hoá | 650 ft khối (18 m) | 875 ft khối (24,8 m) | 882–1.373 ft khối 25,0–38,9 m |
720–1,826 ft khối 20,3881–0,0517 m |
1,543–1,814 ft khối 0,0437–0,0514 m | |
MTOW(Khối lượng cất cánh tối đa) | 110.000 lb (50.000 kg) | 128.100 lb (58.100 kg) | 133,500–150,000 lb 60,555–68,039 kg |
144,500–187,700 lb 65,544–85,139 kg |
177,000–194,700 lb 80,286–88,314 kg | |
OEW(Trọng lượng rỗng) | 62.000 lb (28.000 kg) | 65,300 lb (29,620 kg) | 70,440–76,760 lb 31,951–34,818 kg |
80,200–98,495 lb 36,378–44,677 kg |
MAX 8: 99,360 lb 45,070 kg | |
Dung tích bình xăng | 4.720 gal Mỹ (17.900 L) | 5.970 gal Mỹ (22.600 L) | 5.311 gal Mỹ (20.100 L) | 6.875–7.837 gal Mỹ (26.020–29.670 L) | 6.853 gal Mỹ (25.940 L) | |
Tốc độ | Mach 0,745–Mach 0,82 (493–542 kn; 913–1.005 km/h) (37,000 ft) | Mach 0,785 (519 kn; 962 km/h) (37,000 ft) | ||||
Độ dài cất cánh | 6.099 ft (1.859 m) | 7,500–8,690 ft 2,286–2,649 m |
6.161–7.598 ft 1.878–2.316 m |
N/A | ||
Tầm bay | 1,540 nmi (2,852 km) | 2.600 nmi (4.800 km) | 2,060–2,375 nmi 3,815–4,399 km |
2,935–3,010 nmi 5,436–5,575 km |
3,300–3,850 nmi 6,112–7,130 km | |
Trần bay | 37.000 ft (11.300 m) | 41.000 ft (12.500 m) | ||||
Động cơ (×2) | Pratt & Whitney JT8D-7/-9/-15/-17 | CFM56-3 | CFM56-7 | CFM LEAP-1B | ||
Lực đẩy (×2) | 14.000 lbf (62 kN) | 14.500–16.400 lbf 64–73 kN |
20.000–23.500 lbf 89–105 kN |
20.000–27.000 lbf 89–120 kN |
Lên đến 29.300 lbf (130 kN) |
Các sự cố tai nạn
Giao nhận máy bay Boeing 737
- Cập nhật mới nhất: ngày 5 tháng 7 năm 2007