




Bristol | |
---|---|
— Chính quyền đơn nhất & Thành phố — | |
Theo chiều kim đồng hồ từ trên xuống: Đường chân trời Bristol, Tòa nhà tưởng niệm Wills, cầu dây võng Clifton và Tháp Cabot | |
Bristol | |
Tọa độ: | |
Quốc gia có chủ quyền | Anh |
Quốc gia cấu thành | Anh |
Vùng | Tây Nam Anh |
Ceremonial county Historic county | Bristol County corporate (Gloucestershire and Somerset) |
Admin HQ | Bristol |
Royal Charter | 1155 |
County status | 1373 |
Chính quyền | |
• Kiểu | Unitary authority, City |
• Cơ quan điều hành | Bristol City Council |
• Leadership | Leader & Cabinet |
• Executive | Công đảng |
• MPs | Roger Berry (L) Kerry McCarthy (L)
|
Diện tích | |
• Tổng cộng | 110 km (40 mi)
|
Độ cao | 11 m (36 ft) |
Dân số (Bản mẫu:EnglishStatisticsYear) | |
• Tổng cộng | (Ranked 43) |
• Mật độ | 3.639/km (9,420/mi) |
• Ethnicity | 91,8% White 2,9% S. Asian 2,3% Black British 2,08% Mixed Race |
Múi giờ | GMT (UTC0) |
BS | |
Mã điện thoại | 0117 |
Thành phố kết nghĩa | Hannover, Toulouse, Tbilisi, Bordeaux, Porto, Kumamoto, Beira |
ISO 3166-2 | GB-BST |
ONS code | 00HB |
OS grid reference | ST5946972550 |
NUTS 3 | UKK11 |
Trang web | www.bristol.gov.uk/ |
Bristol (phát âm: /ˈbrɪstəl/) là một thành phố và hạt nghi lễ nằm ở Tây Nam nước Anh, cách thủ đô Luân Đôn khoảng 105 dặm (169 km). Với dân số khoảng 463.400 người, Bristol là thành phố lớn thứ sáu ở Anh và là thành phố đông dân thứ chín của Vương quốc Anh. Nó cũng là một trong những thành phố quan trọng của nước Anh và là thành phố đông dân nhất ở miền Tây Nam nước Anh. Dân số vùng đô thị đạt 724.000 người, đứng thứ tám ở Anh. Thành phố tiếp giáp với Bắc Somerset và Nam Gloucestershire, với các thành phố Bath và Gloucester nằm ở phía đông nam và đông bắc, tương ứng. Khu vực Nam Wales nằm trên cửa sông Severn. Thành phố có một bờ biển ngắn bên cửa sông Severn và một con sông chảy vào eo biển Bristol. Dòng sông Avon bao quanh thành phố nối với thành phố lân cận Bath.
Những pháo đài trên đồi thời kỳ đồ sắt và các biệt thự kiểu La Mã đã được xây dựng gần ngã ba sông Frome và Avon. Vào đầu thế kỷ 11, khu định cư được gọi là Brycgstow (tiếng Anh cổ nghĩa là 'khu vực cây cầu'). Bristol nhận được hiến chương hoàng gia vào năm 1155 và được phong hạt vào năm 1373. Từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 18, Bristol là một trong ba thành phố lớn nhất của Anh sau Luân Đôn về doanh thu thuế. Thành phố bị vượt qua bởi sự phát triển nhanh chóng của Birmingham, Manchester và Liverpool trong cuộc Cách mạng Công nghiệp cuối thế kỷ 18.
Bristol là nơi khởi nguồn cho các chuyến thám hiểm sớm đến Tân Thế giới. Năm 1497, John Cabot từ Venezia đã rời Bristol và trở thành người châu Âu đầu tiên đến Bắc Mỹ kể từ thời Viking. Năm 1499, William Weston, một thương gia từ Bristol, là người Anh đầu tiên dẫn đầu một cuộc thám hiểm đến Bắc Mỹ. Trong thời kỳ đỉnh cao của buôn bán nô lệ từ năm 1700 đến 1807, hơn 2.000 tàu nô lệ đã chở khoảng 500.000 người từ châu Phi đến châu Mỹ. Cảng Bristol đã được di chuyển từ trung tâm thành phố đến cửa sông Severn tại Avonmouth và Royal Portbury Dock.
Bristol là một trung tâm văn hóa, việc làm và giáo dục quan trọng trong khu vực. Nền kinh tế hiện đại của thành phố dựa vào ngành truyền thông sáng tạo, công nghiệp điện tử và hàng không vũ trụ, cùng với việc tái phát triển bến cảng thành một trung tâm di sản và văn hóa. Thành phố có đồng bảng Anh lưu hành lớn nhất tại Vương quốc Anh và có hai trường đại học, Đại học Bristol và Đại học West of England, cùng nhiều tổ chức và địa điểm nghệ thuật và thể thao như Học viện Hoàng gia Anh, Arnolfini, Đảo Spike, Cổng Ashton và Sân vận động Tưởng niệm. Thành phố được kết nối với Luân Đôn và các thành phố lớn khác bằng đường bộ và đường sắt, và với thế giới qua đường biển và hàng không: đường bộ qua M5 và M4 (kết nối trung tâm thành phố qua Portway và M32); đường sắt qua các nhà ga chính Temple Meads và Bristol Parkway; và sân bay Bristol.
Với danh tiếng là một trong những điểm đến du lịch hàng đầu ở Vương quốc Anh, Bristol đã được Dorling Kindersley, nhà xuất bản du lịch quốc tế, chọn vào năm 2009 là một trong mười thành phố du lịch hàng đầu thế giới trong loạt hướng dẫn Eyewitness. Thời báo Chủ nhật đã vinh danh Bristol là thành phố đáng sống nhất ở Anh vào các năm 2014 và 2017, và thành phố này còn được trao giải Thủ đô xanh châu Âu của EU năm 2015.
Khí hậu
Thành phố Bristol có khí hậu đại dương (Köppen: Cfb), ôn hòa hơn hầu hết các khu vực khác ở Anh và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland. Nằm ở miền nam nước Anh, Bristol là một trong những thành phố ấm áp nhất của đất nước với nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 10,5 °C (50,9 °F). Đây là một trong những nơi có nhiều nắng nhất, với 1.541-1.885 giờ nắng mỗi năm. Dù được bảo vệ một phần bởi đồi Mendip, thành phố vẫn tiếp xúc với Cửa sông Severn và eo biển Bristol. Lượng mưa hàng năm tăng từ Bắc xuống Nam, với tổng lượng mưa phía bắc Avon từ 600–900 mm (24–35 in) và 900-1.200 mm (35-47 in) ở phía nam con sông. Mưa phân bố khá đồng đều trong suốt cả năm, với mùa thu và mùa đông là thời gian ẩm ướt nhất. Ảnh hưởng của Đại Tây Dương giữ cho nhiệt độ trung bình không giảm xuống dưới mức đóng băng, mặc dù có sương giá mùa đông và tuyết có thể rơi từ đầu tháng 11 đến cuối tháng tư. Mùa hè thường ấm áp và khô hơn, với thời tiết thay đổi giữa nắng, mưa và mây, còn mùa xuân có thể không ổn định.
Các trạm khí tượng gần Bristol với dữ liệu khí hậu dài hạn bao gồm Long Ashton (khoảng 5 dặm (8 km) về phía tây nam của trung tâm thành phố) và Trạm Thời tiết Bristol ở trung tâm thành phố. Dữ liệu từ các trạm này được thu thập cho đến năm 2002 và 2001, và hiện tại Sân bay Filton là trạm thời tiết gần nhất với thành phố. Nhiệt độ tại Long Ashton từ năm 1959 đến 2002 dao động từ 33,5 °C (92,3 °F) vào tháng 7 năm 1976 đến -14,4 °C (6,1 °F) vào tháng 1 năm 1982. Kể từ năm 2002, nhiệt độ cao hàng tháng ở Filton đã vượt quá các mức ghi nhận tại Long Ashton, bao gồm 25,7 °C (78,3 °F) vào tháng 4 năm 2003, 34,5 °C (94,1 °F) vào tháng 7 năm 2006, và 26,8 °C (80,2 °F) vào tháng 10 năm 2011. Nhiệt độ thấp nhất gần đây tại Filton là -10,1 °C (13,8 °F) vào tháng 12 năm 2010. Mặc dù các thành phố lớn thường trải qua hiệu ứng đảo nhiệt đô thị với nhiệt độ cao hơn so với các khu vực xung quanh, hiện tượng này ở Bristol là tối thiểu.
Dữ liệu khí hậu của Filton (87 m asl) 1981–2010 7,5 kilômét (4,7 mi) from Bristol | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 7.8 (46.0) |
7.9 (46.2) |
10.5 (50.9) |
13.3 (55.9) |
16.6 (61.9) |
19.6 (67.3) |
21.5 (70.7) |
21.2 (70.2) |
18.6 (65.5) |
14.5 (58.1) |
10.6 (51.1) |
8.0 (46.4) |
14.2 (57.6) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 2.2 (36.0) |
1.9 (35.4) |
3.7 (38.7) |
5.0 (41.0) |
8.1 (46.6) |
11.1 (52.0) |
13.2 (55.8) |
13.0 (55.4) |
10.8 (51.4) |
8.1 (46.6) |
4.8 (40.6) |
2.5 (36.5) |
7.0 (44.6) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 82.3 (3.24) |
53.8 (2.12) |
58.6 (2.31) |
49.3 (1.94) |
62.3 (2.45) |
55.2 (2.17) |
54.6 (2.15) |
64.2 (2.53) |
68.0 (2.68) |
85.4 (3.36) |
82.6 (3.25) |
85.9 (3.38) |
802.1 (31.58) |
Số giờ nắng trung bình tháng | 58.5 | 74.8 | 112.7 | 170.8 | 199.6 | 214.7 | 217.7 | 201.8 | 149.9 | 104.8 | 69.1 | 52.7 | 1.627 |
Nguồn: Met Office |
Dữ liệu khí hậu của Bristol Weather Centre (11 m asl) 1971–2000 | |||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tháng | 1 | 2 | 3 | 4 | 5 | 6 | 7 | 8 | 9 | 10 | 11 | 12 | Năm |
Trung bình ngày tối đa °C (°F) | 7.5 (45.5) |
7.4 (45.3) |
10.1 (50.2) |
12.7 (54.9) |
16.5 (61.7) |
18.9 (66.0) |
22.0 (71.6) |
21.0 (69.8) |
18.4 (65.1) |
14.7 (58.5) |
10.5 (50.9) |
8.9 (48.0) |
14.1 (57.4) |
Tối thiểu trung bình ngày °C (°F) | 3.8 (38.8) |
2.9 (37.2) |
4.9 (40.8) |
5.6 (42.1) |
9.0 (48.2) |
11.9 (53.4) |
14.3 (57.7) |
14.0 (57.2) |
12.0 (53.6) |
9.7 (49.5) |
6.3 (43.3) |
5.3 (41.5) |
8.3 (46.9) |
Lượng Giáng thủy trung bình mm (inches) | 73 (2.9) |
48 (1.9) |
51 (2.0) |
52 (2.0) |
54 (2.1) |
64 (2.5) |
64 (2.5) |
52 (2.0) |
50 (2.0) |
59 (2.3) |
52 (2.0) |
59 (2.3) |
626.8 (24.68) |
Nguồn: MeteoFrance |