Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, câu chuyện được đặt trong bối cảnh lịch sử sau cuộc chiến tranh Pháp - Phổ năm 1870 - 1871. Nước Pháp thất bại và hai vùng An-dát và Lo-ren bị nhập vào nước Phổ. Các trường học ở hai vùng này phải chuyển sang dạy bằng tiếng Đức.
Mytour sẽ giới thiệu về tác giả An-phông-xơ Đô-đê và nội dung của truyện “Buổi học cuối cùng”. Các bạn học sinh có thể tham khảo thông tin dưới đây.
Buổi học cuối vui vẻ
Nghe đọc truyện Buổi học cuối vui vẻ:
Buổi sáng hôm đó, tôi muộn mất rồi, lo sợ bị la rầy vì thầy Ha-men đã cảnh báo trước sẽ kiểm tra về phân từ, mà tôi chẳng nhớ gì cả. Tôi suy nghĩ rằng có thể trốn học và chơi thảnh thơi hơn ngoài đồng nội.
Trời ấm quá, trong lành quá!
Nghe tiếng sáo vang vọng từ rừng và cánh đồng Ríp-pe, gần xưởng cưa, lính Phổ đang tập. Tất cả những điều đó lôi cuốn hơn cả việc học về phân từ; nhưng tôi vẫn kiềm chế được và vội vàng chạy đến trường.
Khi đi qua trụ sở xã, tôi thấy đám đông đứng trước bảng thông báo có mái che. Trong hai năm qua, từ đó, mọi thông tin xấu xa lan tỏa đến chúng tôi, từ những thất bại đến việc thuế, từ các quyết định của lãnh đạo Đức; và tôi tự hỏi không ngừng: “Lại có chuyện gì nữa đây?”.
Bác phó rèn Oát-stơ đang đọc thông báo cùng cậu học trò thì tôi chạy qua, bác lớn tiếng nói:
- Đừng vội vàng cháu ơi, đến trường sớm cũng chưa muộn!
Tôi nghĩ bác đang trêu đùa tôi, hơi hổn hển thở dốc, bước vào sân nhỏ trước nhà thầy Ha-men.
Thường thì, khi bắt đầu giờ học, tiếng ồn ào vang dội như thị trường vỡ đổ ra khắp phố, với tiếng bàn ghế mở đóng, tiếng mọi người cùng nhau nhắc lại bài học rất to để nhớ và tiếng thầy gõ thước lên bàn:
- Xin hãy yên tĩnh một chút!
Tôi định tìm một cách lẻn vào chỗ ngồi giữa sự ồn ào hỗn loạn, để không ai để ý; nhưng vào ngày hôm đó, mọi thứ đều im lặng như một buổi sáng chủ nhật. Từ cửa sổ mở ra, tôi nhìn thấy các bạn đã ngồi đúng vào chỗ của mình, và thầy Ha-men đi lại với cây thước sắt to lớn kẹp dưới nách. Phải mở cửa bước vào giữa cả cảnh im lặng đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt đến đâu và sợ hãi ra sao!
Nhưng không. Thầy Ha-men nhìn tôi không tức giận và nói với tôi nhẹ nhàng:
- Phrăng, nhanh lên vào chỗ đi con; lớp sắp bắt đầu học mà còn thiếu vắng con.
Tôi đi qua hàng ghế dài và ngồi xuống ngay trước bàn của mình. Chỉ khi đó, sau một chút hốt hoảng, tôi mới nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt xanh lục, cổ áo lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen được thầy chỉ dùng vào những dịp thanh tra hoặc trao thưởng. Ngoài ra, lớp học có một không khí khác biệt và trang trọng. Nhưng điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả, là thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường trống rỗng, dân làng ngồi im lặng giống như chúng tôi, cụ già Hô-de, người trước đây là xã trưởng với chiếc mũ ba sừng, bác phát thư cũng vậy, và nhiều người khác nữa.
Mọi người đều có vẻ buồn rầu; và cụ già Hô-de cầm theo quyển sách vở đánh vần cũ, đã sờn mép để mở rộng trên bàn, đeo kính lớn đặt ngang trên trang sách.
Tôi vẫn còn ngạc nhiên về những điều đó khi thầy Ha-men bước lên bục, và với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi:
- Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới sẽ đến ngày mai. Hôm nay là bài học cuối cùng môn Pháp văn của các con. Thầy mong các con hãy chú ý.
Những lời đó khiến tôi choáng váng. A! Quân khốn nạn, thì ra đó là điều mà họ vừa niêm yết ở trụ sở xã.
Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!...
Nhưng tôi mới chỉ biết viết tập toạng! Điều đó có nghĩa là sẽ không bao giờ được học nữa à, phải dừng lại ở đó à!... Giờ đây tôi tự trách mình về những thời gian đã phí phạm, những buổi trốn học để bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngắt đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn thân cố gắng mà tôi sẽ rất đau lòng khi phải từ biệt. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ rằng thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên hết những lúc thầy phạt, thầy vung thước kẻ.
Tội nghiệp thầy!
Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã mặc bộ y phục đẹp vào ngày chủ nhật và bây giờ tôi hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Điều đó như nói rằng họ tiếc đã không đến trường thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo của chúng tôi về bốn mươi năm phục vụ hết mình, và để trọn vẹn với Tổ quốc sắp ra đi…
Tôi đang suy nghĩ mơ mộng thì bỗng nghe gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu và tôi cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men nói với tôi:
- Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi… con thấy đó. Ngày nào ta cũng tự nhủ: “Chà! Còn khối thời gian. Ngày mai ta sẽ học”. Và rồi ta thấy điều gì xảy ra… Ôi! Tai hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng trì hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây những kẻ khác có thể bảo chúng ta rằng: “Thế nào! Các người tự xưng là dân Pháp, vậy mà các người không biết đọc, viết tiếng của mình!...” Dù thế nào, Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng trách nhất! Mà tất cả chúng ta ai cũng có phần đáng trách.
Cha mẹ các con không quan tâm nhiều đến việc thấy các con có kiến thức. Cha mẹ thích các con làm công việc nặng nhọc hoặc vào làm ở nhà máy sợi để kiếm thêm ít tiền. Còn thầy có gì để trách mình không? Thầy đã sai khi các con tưới vườn thay vì học hành à? Và khi thầy muốn đi câu cá hồng, thì thầy có gì ngần ngại cho các con nghỉ học đâu?...
Rồi, từ điều này sang điều khác, thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, nói rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm giữ chìa khóa chốn lao tù…
Sau đó, thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc về cách mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng nghĩ rằng chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế. Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền đạt toàn bộ kiến thức của mình, muốn đưa ngay một lúc kiến thức ấy vào đầu óc chúng tôi.
Sau bài giảng, chuyển sang viết bài. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng “chữ rông” thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp. Ai cũng chăm chú và im phăng phắc! Chỉ nghe tiếng ngòi bút viết lên giấy. Có lúc những con ruồi bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cố gắng vạch những đường nét với tấm lòng, một ý thức, như thể đó cũng là tiếng Pháp… Trên mái trường, chim bồ câu gọi thật nhẹ nhàng, và tôi vừa nghe vừa tự hỏi:
- Liệu chúng có bắt tất cả chúng nó phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
Chẹp chẹp, nhìn lên khỏi trang giấy, tôi thấy thầy Ha-men đứng im lặng trên bục và nhìn chăm chú vào những vật dụng xung quanh như muốn ghi nhớ toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của mình… Có thể bạn sẽ tự hỏi! Từ bốn mươi năm qua, thầy vẫn ngồi ở đó, với khoảng sân phía trước và lớp học vẫn giữ nguyên không đổi. Có lẽ chỉ những chiếc ghế dài, những bàn học đã cũ kỹ hơn, những cây đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông mà thầy tự trồng giờ đây bao quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà. Thầy Ha-men chắc chắn phải cảm thấy xót xa khi phải chia tay tất cả những điều đó, khi nghe tiếng em gái đi lại, đóng vali ở phòng trên, vì ngày mai họ phải rời khỏi xứ sở này mãi mãi.
Tuy vậy, thầy vẫn dũng cảm tiếp tục dạy chúng tôi cho đến hết buổi. Sau khi viết bài xong, chúng tôi học môn Lịch sử, sau đó là những trò nhỏ như việc đọc đồng thanh như hát Ba Be Bi Bo Bu. Ở phía sau lớp, cụ Hô-de đã đeo kính và nâng cuốn sách vỡ lở lên, cụ đánh vần từng chữ cùng với các em nhỏ. Cả cụ đều rất tập trung, giọng cụ run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật là kỳ cục, đến mức tất cả chúng tôi muốn cười và cũng muốn khóc… Ôi! Buổi học cuối cùng này sẽ mãi trong tâm trí tôi!
Đồng hồ nhà thờ bắt đầu gõ mười hai giờ, cùng lúc đó, tiếng kèn của lính Phổ trở về từ buổi tập đấu vang lên qua cửa sổ… Thầy Ha-men đứng dậy từ bục, khuôn mặt tái nhợt. Chưa bao giờ tôi thấy thầy lớn lao đến vậy.
- Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi…
Nhưng cái gì đó làm thầy nghẹn ngào, không thể nói tiếp.
Thầy quay lại bảng, cầm một miếng phấn và viết mạnh mẽ:
“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”.
Sau đó, thầy đứng im, đầu dựa vào tường, và chỉ bằng cử chỉ tay, thầy bảo chúng tôi:
“Hết rồi… ra về thôi!”.
I. Một chút về Lịch sử của An-phông-xơ Đô-đê
- An-phông-xơ Đô-đê sinh vào năm 1840 và qua đời vào năm 1897.
- Ông là một tác gia người Pháp được biết đến với nhiều tác phẩm nổi tiếng.
- Tác phẩm văn học của ông mang tính nhẹ nhàng, tinh tế, diễn đạt cảm xúc về những niềm đau hay tình yêu với quê hương và đất nước.
- Một số tác phẩm tiêu biểu của ông bao gồm: Một thời niên thiếu, Buổi học cuối cùng…
II. Giới thiệu về Buổi học cuối cùng
1. Nguyên gốc
Trong truyện “Buổi học cuối cùng”, cốt truyện được đặt trong bối cảnh lịch sử: Sau cuộc chiến Pháp - Phổ năm 1870 - 1871, Pháp thất bại, và hai vùng biên giới An-dát và Lo-ren được nhập vào Phổ. Do đó, các trường học ở hai vùng này phải dạy bằng tiếng Đức.
- Câu chuyện tập trung vào buổi học cuối cùng sử dụng tiếng Pháp ở một ngôi trường ở vùng An-dát.
2. Sơ đồ
Bao gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “mà vắng mặt con”: Cảnh sắc trên đường và trong lớp học.
- Phần 2. Tiếp tục đến “Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!”: Diễn biến của buổi học chót.
- Phần 3. Phần còn lại. Kết thúc của buổi học cuối cùng.
3. Tóm lược
Sáng hôm đó, Phrăng trễ lớp và kinh ngạc khi phát hiện lớp học bình yên hơn bình thường. Thầy Ha-men thông báo đó là buổi học tiếng Pháp cuối cùng. Cậu cảm thấy hối tiếc và tiếc nuối vì đã lãng phí thời gian và trốn học. Buổi học diễn ra với sự nghiêm túc từ việc viết, đọc đến tiết Lịch sử. Thầy Ha-men chia sẻ những suy tư sâu sắc về tiếng Pháp. Khi đồng hồ chỉ mười hai giờ, buổi học kết thúc. Thầy Ha-men xúc động không nói lời. Cuối cùng, ông viết lớn lên bảng: “NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM”.
4. Nội dung chính
Văn bản Buổi học cuối cùng thể hiện lòng yêu nước, cũng như ý thức trách nhiệm bảo vệ ngôn ngữ của dân tộc.
5. Nghệ thuật Văn
Góc nhìn thứ nhất; mô tả nhân vật qua hành động, biểu cảm, ngôn từ…
III. Kế hoạch phân tích Buổi học cuối cùng
(1) Khai mạc
Hướng dẫn, giới thiệu về tác phẩm Buổi học cuối cùng.
(2) Phần chính
a. Chàng bé Phrăng
- Không hiểu bài nên ban đầu Phrăng suýt trốn học, nhưng sau đó quyết định đi đến trường.
- Bất ngờ trước sự yên bình lạ thường trong lớp học.
- Sửng sốt khi nghe thầy giáo tuyên bố đó là buổi học tiếng Pháp cuối cùng.
- Tự trách mình vì thói ham chơi, lười học...
- Chăm chú lắng nghe những bài giảng sâu sắc của thầy.
- Bị ấn tượng trước tâm hồn lớn lao, cao cả của thầy Ha-men.
b. Thầy Ha-men
- Thầy thay đổi hoàn toàn, trở nên nhẹ nhàng hơn so với ngày thường.
- Lên lớp trong bộ y phục trang trọng chỉ dành cho những dịp quan trọng.
- Thầy tán dương tiếng Pháp và tôn vinh đất nước của mình.
- Bày tỏ tâm trạng xúc động qua cách nói nhẹ nhàng, cảm xúc và những hành động không ngờ.
(3) Phần kết
Tôn vinh giá trị về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm Buổi học cuối cùng.