Cá chim sông | |
---|---|
Một con cá chim sông (cá chim nước ngọt) ở Bình Chánh | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Characiformes |
Họ (familia)
| Serrasalmidae |
Chi (genus) | Piaractus C. H. Eigenmann, 1903 |
Loài điển hình | |
Myletes brachypomus G. Cuvier, 1817 |
Cá Chim nước ngọt, còn gọi là Cá Chim sông (danh pháp khoa học: Piaractus, trước đây thuộc Myletes và Colossoma) là một chi cá nước ngọt thuộc họ Serrasalmidae trong bộ cá chép mỡ Characiformes. Ở Việt Nam, loài Piaractus brachypomus, thuộc Nhóm 1: Loài ngoại lai có nguy cơ xâm hại, đã xuất hiện.
Cá Chim trắng ăn đa dạng và khá phàm ăn. Mặc dù có bộ răng cửa cứng và sắc, khiến nhiều người nghĩ chúng là cá dữ, nhưng thực tế chúng lại khá hiền và chậm chạp. Một số người nuôi đã để cá Chim trắng chung với cá Mè, Trôi, Trắm mà không thấy chúng ăn cá con. Chúng tiêu thụ nhiều loại thực phẩm như phù du, ngũ cốc, rau củ quả, lá bí, lá mướp, xác động vật chết và phế phẩm từ lò mổ. Khi nuôi trong điều kiện công nghiệp với mật độ cao, chúng chủ yếu ăn thức ăn chế biến sẵn. Trong các ao nuôi ghép, cá Chim trắng đôi khi thiếu thức ăn và gặm vây đuôi của cá Mè, Trôi, Trắm, nhưng nếu nuôi chung với cá Rô phi đơn tính thì hiện tượng này không xảy ra. Mức tiêu tốn thức ăn khi nuôi bằng thức ăn viên là 1,8 – 2 kg thức ăn cho mỗi kg cá thịt, tương đương với cá Rô phi.
Danh sách các loài
Hiện tại, có ba loài đã được công nhận trong chi này.
- Piaractus brachypomus (G. Cuvier, 1818) (Pacu bụng đỏ hay cá Pacu đỏ)
- Piaractus mesopotamicus (Holmberg, 1887) (Pacu vảy nhỏ hay Pacu sông Paraná)
- Piaractus orinoquensis Escobar et al., 2019
Tên gọi
Loài Piaractus brachypomus đã được nhập khẩu vào Việt Nam và thường được gọi là cá chim trắng hoặc cá chim. Tuy nhiên, việc sử dụng tên này cho loài cá nước ngọt Piaractus brachypomus là không chính xác, vì cá chim trắng là tên của một loài cá nước mặn và không có mối quan hệ gì với loài cá này. Các tài liệu ở Việt Nam cũng chưa ghi nhận loài nào tên là chim trắng sống ở nước ngọt, và tên Silver Pomfret không được dùng cho Piaractus brachypomus.
Thực tế, người ta thường gọi loài cá này là Pacu đỏ hay Pacu bụng đỏ (Red Pacu hay Red Bellied Pacu) để chỉ loài cá thuộc chi Piranhas. Ở Trung Quốc và Đài Loan, một số công ty đã dùng tên Freshwater Silver Pomfret (cá chim trắng nước ngọt) để nhập khẩu cá Piaractus brachypomus vào những quốc gia cấm các loài cá thuộc họ Piranhas (như Mỹ, Nhật Bản). Tuy nhiên, không có liên hệ gì giữa cá nước ngọt này và cá chim trắng thật sự (Pampus Argenteus) sống ở biển, một loài cá giá trị cao, mà chỉ là cách để phân biệt cá rẻ tiền mới nhập khẩu đang gây tranh cãi.
Du nhập
Cá chim trắng nước ngọt, với tên khoa học Colossoma brachypomum, thuộc Bộ Characiformes và Họ Characidae, đã được đưa vào Việt Nam từ năm 1998. Đến năm 2000, quy trình sinh sản nhân tạo theo công nghệ sản xuất của Trung Quốc đã thành công. Ở sông Amazon, Brazil, cá chim trắng nước ngọt đạt độ trưởng thành vào khoảng 32 tháng tuổi và có khả năng sinh sản tự nhiên. Tuy nhiên, cá chim trắng nuôi trong ao cần kích thích tố để sinh sản nhân tạo. Sự thành công trong việc nuôi cá chim trắng nước ngọt đã được xác nhận ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam, với cá thịt chim trắng ngày càng phổ biến trên thị trường.
Hiện tại, loài cá này chưa được tìm thấy ngoài môi trường nuôi trồng. Cá chim trắng nước ngọt là loài ngoại lai, đang được thử nghiệm nuôi với sự kiểm soát nghiêm ngặt do tập tính ăn tạp và săn mồi theo bầy. Việc nuôi thử nghiệm hoặc nuôi thương phẩm nên được thực hiện ở những khu vực an toàn, có sự bảo vệ như đê bao, đăng, lưới, và tránh các khu vực dễ bị lũ lụt hoặc không có điều kiện kiểm soát con giống. Cá chim sông có ngoại hình tương tự cá chim biển, mỗi con nặng từ 0,5-0,7 kg. Cá chim sông có thể chế biến thành món canh chua hoặc chiên với sốt cà chua hành tây, ăn kèm với nước mắm ớt, tỏi và đường.
Nuôi cá
Cá chim trắng sinh sống trong môi trường nước có nhiệt độ dao động từ 21-32°C, nhưng nhiệt độ lý tưởng nhất là từ 28-30°C. Loài cá này không chịu được nhiệt độ thấp, dưới 10°C có thể dẫn đến các biểu hiện bất thường và tử vong, đồng thời dễ mắc các bệnh như trùng quả dưa, trùng bánh xe và nấm. Trong mùa hè, cá chim trắng ít bị bệnh, nhưng vào mùa đông, chúng dễ bị nhiễm nấm, trùng quả dưa, trùng bánh xe và sán lá với tỷ lệ cao, có thể dẫn đến chết hàng loạt. Cá chim có thể sống bình thường ở độ mặn dưới 5-10, nhưng sẽ chết ở độ mặn 15.
Cá chim trắng có thể sống ở các môi trường nước như ao, hồ, đầm với độ pH từ 5,6-7,4. Chúng thường tụ tập thành bầy đàn và di chuyển cùng nhau. Đường kính mắt cá chim bằng 1/4,5 chiều dài đầu. Răng của cá được chia thành hai hàm: hàm trên có hai hàng, hàng ngoài có 10 răng, hàng trong có 4 răng; hàm dưới cũng có hai hàng, hàng ngoài có 14 răng (6 răng lớn và 8 răng nhỏ), hàng trong có 2 răng. Mặt răng có dạng răng cưa. Số lược mang của cung mang thứ nhất là 30-36, số vảy đường bên là 81-98, vảy trên đường bên là 31-33, vảy dưới đường bên là 28-31. Tia vây không có gai cứng. Số vây lưng là 18-19, vây ngực là 14 (13 tia phân nhánh và 1 không phân nhánh), vây bụng là 8 (7 tia phân nhánh và 1 không phân nhánh), vây hậu môn là 26 (24 tia phân nhánh và 2 tia cứng không phân nhánh).
Các vây bụng và vây hậu môn của cá chim trắng có màu đỏ. Vây đuôi có những chấm đen ở viền đuôi. Cá có khả năng thay đổi màu sắc tùy thuộc vào môi trường sống. Dạ dày của cá có kích thước tương đối lớn, hình chữ U. Chiều dài ruột bằng 2,5 lần chiều dài thân. Xung quanh ruột và nội tạng có nhiều mỡ. Cá chim trắng nước ngọt là loài ăn tạp, có thể ăn thực vật thủy sinh, tôm, cá con, nhuyễn thể. Cá bắt mồi rất nhanh và nuốt rất nhanh. Thức ăn chủ yếu trong dạ dày của cá thu được trong ao là chất xơ thực vật, hạt ngũ cốc và lúa. Cá chim trắng lớn rất nhanh, trung bình có thể tăng trọng 100 g mỗi tháng và sau 6-7 tháng có thể đạt 1,2–2 kg/con. Cá có thể sống đến 10 năm.
Cá chim trắng dễ bị đánh bắt do tính cách hiền lành và chậm chạp. Chỉ với mẻ lưới đầu tiên, có thể thu được tới 90% số cá trong ao. Đặc điểm này khiến cá chim trắng trong các ao nuôi ghép không gây áp lực cạnh tranh cho các loài cá khác.
Thịt cá chim trắng nước ngọt có chất lượng trung bình. Vì có nhiều xương răm, lườn bụng mỏng và nhiều mỡ, thịt cá dưới 1 kg thường không săn chắc và ít được ưa chuộng. Trên thị trường, giá thịt cá chim trắng thấp hơn cá rô phi, cá chép, cá trắm cỏ nhưng cao hơn cá mè và cá trôi. Tỷ lệ phát dục, tỷ lệ đẻ, tỷ lệ nở trứng và năng suất cá bột của cá chim trắng thấp hơn cá mè, cá trôi và cá trắm. Cá chim trắng dễ bị bắt do tính hiền lành, chậm chạp và có thể trở thành loài cá nuôi phổ biến ở nhiều vùng. Nó cũng được sử dụng để làm phong phú thêm đàn cá nuôi hiện có.
Những tin đồn và kết luận chính thức
'Tại Việt Nam, đã có việc thả hàng tấn cá vào môi trường tự nhiên, trong đó có cá chim trắng Colossoma brachypomum, một loài cá ăn thịt khét tiếng. Nhiều con cá này đã thoát ra ngoài tầm kiểm soát và xâm nhập vào các hồ nước. Chúng tấn công và ăn thịt nhiều loài cá bản địa, gây ra sự sợ hãi cho các loài lưỡng cư, bò sát, và thậm chí một số loài động vật nhỏ. Ở huyện Thống Nhất, Đồng Nai, một con cá chim trắng nuôi trong ao đã cắn đứt ngón tay của một người phụ nữ khi bà giặt đồ. Những con cá chim trắng nặng trên 1 kg thường tấn công đàn vịt con trong ao, điều này thường không được cảnh báo, dẫn đến việc người dân vẫn tiếp tục nuôi và thả loài cá này' (Theo báo news.zing.vn)
Tuy nhiên, trái ngược với tin đồn về 'cá chim trắng Colossoma brachypomum là một loài cá ăn thịt đáng sợ', Báo cáo của Bộ Thủy sản từ đầu năm 1998 cho thấy cá chim trắng nước ngọt là loài cá ăn tạp, dễ nuôi, phát triển nhanh, không mang mầm bệnh mới, và không gây nguy hiểm cho các loài vật nuôi khác. Dựa trên đánh giá này, năm 2001, Bộ Thủy sản đã đưa cá chim trắng nước ngọt vào danh mục giống thủy sản nước ngọt, được phép nhập khẩu bình thường. Theo các chuyên gia, mô hình nuôi cá chim trắng tại 18 tỉnh thành đã mang lại hiệu quả kinh tế, đa dạng hóa cơ cấu nuôi trồng và góp phần xoá đói giảm nghèo cho nông ngư dân.
Bộ Thủy sản khẳng định: Ngày 17-7-1998, bộ đã ra chỉ thị nghiêm cấm nhập khẩu và nuôi cá Piranhas. Loài cá chim trắng nước ngọt hiện nay được nuôi và mẫu thu được trong khảo sát có tên khoa học là Colossoma brachypomum, thuộc chi Colossoma và họ cá chép mỡ (Characidae). Trong khi đó, Piranhas (cá hổ) là tên gọi chung cho 12 loài thuộc chi Pygocentrus và Serrasalmus, cùng họ cá chép mỡ (Characidae). Do đó, cá chim trắng nước ngọt và cá hổ cùng thuộc họ cá chép mỡ nhưng là các chi khác nhau. Cá hổ là loài cá dữ, chuyên ăn thịt và thích săn mồi sống, trong khi cá chim trắng nước ngọt là loài ăn tạp. (CCCTNN: Cá chim trắng nước ngọt)
Theo diễn đàn của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, 'Cá Chim trắng có thói quen ăn uống phong phú và nhiều, với bộ răng cửa cứng và sắc bén. Mặc dù chúng dễ bị nhầm là loài cá hung dữ, nhưng thực tế chúng lại rất hiền lành và chậm chạp.'