Lethocerus indicus | |
---|---|
Cà cuống | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Arthropoda |
Phân ngành (subphylum) | Hexapoda |
Lớp (class) | Insecta |
Phân lớp (subclass) | Pterygota |
Phân thứ lớp (infraclass) | Neoptera |
Liên bộ (superordo) | Paraneoptera |
Bộ (ordo) | Hemiptera |
Phân bộ (subordo) | Heteroptera |
Phân thứ bộ (infraordo) | Nepomorpha
|
Liên họ (superfamilia) | Nepoidea |
Họ (familia) | Belostomatidae |
Chi (genus) | Lethocerus |
Loài (species) | L. indicus |
Danh pháp hai phần | |
Lethocerus indicus (Lepeletier & Serville, 1825) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cà cuống (cũng gọi là đà cuống 佗誑 hoặc long sắt 龍蝨, tên khoa học: Lethocerus indicus Lep. et Serv.) là một loại côn trùng thuộc họ Chân bơi Belostomatidae, sống dưới nước và thuộc bộ Cánh nửa (Hemiptera).
Đặc điểm
Cà cuống là một trong những loài côn trùng có kích thước lớn nhất, với cơ thể dẹt hình lá, màu vàng xỉn hoặc nâu đất, dài trung bình từ 7–8 cm và có thể lên đến 10–12 cm.
Khi còn non, cà cuống trông giống như gián, dài khoảng 7–8 cm, rộng 3 cm, màu nâu xám với nhiều vạch đen, đầu nhỏ với hai mắt to tròn. Miệng có ngòi nhọn để hút thức ăn. Ngực dài bằng 1/3 thân, có 6 chân dài và khỏe. Bụng màu vàng nhạt, có lông mịn và một lớp cánh mỏng nửa mềm nửa cứng trên lưng.
Cà cuống có một bộ máy tiêu hóa dài khoảng 4–5 cm, bao gồm một ống nhỏ ở đầu trên gọi là cuống họng và một phần dưới phình to chứa một chất lỏng có mùi hôi. Bên cạnh bầu chứa nước này là hai ngòi nhọn mà cà cuống có thể đưa ra hoặc thu vào. Dưới ngực, gần lưng, có hai ống nhỏ gọi là bọng cà cuống, mỗi bọng dài khoảng 2–3 mm, rộng 2–3 mm, màu trắng trong chứa tinh dầu cà cuống. Tuyến này phát triển mạnh hơn ở con đực.
Tinh dầu cà cuống nhẹ hơn nước và tỏa ra một mùi đặc trưng gần giống như quế.
Nguồn gốc tên gọi tại Việt Nam
Theo cuốn Thương nhớ mười hai của nhà văn Vũ Bằng, có truyền thuyết rằng Triệu Đà là người đầu tiên ở Việt Nam ăn cơm với cà cuống. Thấy mùi thơm lạ, ông đã gửi một phần cho vua Hán và gọi là quế đố, nghĩa là con sâu cây quế. Vua Hán thử và nhận thấy có mùi quế, khen ngon và phân phát cho các quan. Tuy nhiên, một người trong triều lại nói rằng đó không phải là sâu cây quế mà là sâu sống dưới nước (thủy đố). Vua Hán phán rằng: 'Thử nãi Đà chi cuống dã' (此乃佗之誑也 - Đó là lời nói dối của Đà). Dần dần, từ Đà Cuống biến thành Cà Cuống. Nó cũng được gọi là long sắt, nghĩa là 'rận rồng'.
Trước Vũ Bằng, cụ Nguyễn Công Tiễu, một cựu sinh viên Trường Cao đẳng Công nghiệp và Lâm nghiệp Đông Dương và cán bộ Sở Công nghiệp, đã kể lại trong Tạp chí Kinh tế Đông Dương với một lời phán khác từ hoàng đế Trung Hoa: 'Nam Việt hà nhân quế đố, anh hùng vị tất bất khi nhân', vẫn mang hàm ý chế nhạo.
Đặc điểm sinh sống
Cà cuống có thể sinh sống ở bờ hoặc trong các hồ, ao, đầm và ruộng lúa. Chúng có khả năng bơi nhờ vào các chân bè rộng và kẹp mồi bằng các móng vuốt sắc. Dù không bay giỏi, vào ban đêm, cà cuống có thể bay từ ruộng lúa lên bờ để tìm ánh sáng vì chúng rất nhạy cảm với ánh sáng điện. Cà cuống là loài háu ăn, thường xuyên tấn công và hút máu của các động vật thủy sinh như tôm, tép, trai, nòng nọc, nhái, cá con, v.v.
Hiện nay, do việc lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật, cà cuống trở nên rất hiếm ở Việt Nam. Ở Campuchia và Thái Lan, cà cuống được bán với giá khá cao.
Ẩm thực với cà cuống
Món ăn từ cà cuống
Cà cuống có thể được chế biến thành món ăn cho con người. Theo sử sách, từ 200 năm trước Công nguyên, cà cuống đã được coi là món ăn cao cấp của người Việt và được dâng tặng cho Trung Hoa với tên gọi con sâu quế.
Ở châu Á, cà cuống thường được sử dụng toàn bộ cơ thể để chế biến món ăn, từ Ấn Độ, Thái Lan, Myanmar đến Trung Hoa, Singapore, Indonesia. Người Trung Quốc thường luộc cà cuống với một chút muối ở Quảng Châu, hoặc xào trong dầu mè ở Bắc Kinh. Ở Singapore, fwai fa shim im là món cà cuống rất được ưa chuộng. Người Thái Lan gọi cà cuống là mangda. Họ xay nhuyễn toàn bộ cơ thể, thường bỏ mắt, cánh và các bộ phận cứng, trộn với hành, kiệu, ớt, đường, thêm nước chanh và nước mắm để tạo thành một loại bột nhão gọi là nam prik mangda dùng với cơm hoặc rau.
Tại miền Bắc Việt Nam, cà cuống thường được loại bỏ chân, cánh, đuôi, sau đó hấp cách thủy trong chõ hoặc nướng trên lò than để ăn. Có khi người ta cũng để nguyên con, thái nhỏ rồi xào với mỡ để ăn ngay hoặc ướp muối để bảo quản. Cà cuống cái không có bọng tinh dầu nên thường chỉ ăn trứng; hoặc xào cùng với cà cuống đực để làm món chiên cà cuống.
Gia vị dùng trong món ăn
Tinh dầu từ bọng ở gáy của cà cuống đực, với hương thơm nhẹ nhàng như quế, là một gia vị quý giá thường được pha chế vào nước mắm. Nó là thành phần không thể thiếu trong các món ăn truyền thống như bún chả, bún thang, chả cá, bánh cuốn, và nhân bánh chưng, góp phần tạo nên hương vị đặc trưng của ẩm thực Hà Nội.
Khi có số lượng cà cuống ít, thường người ta sẽ hấp hoặc nướng để tinh dầu lan tỏa toàn bộ cơ thể. Sau đó, cà cuống được băm nhỏ hoặc giữ nguyên, cho vào lọ nước mắm ngon. Khi sử dụng, chỉ cần cho vài giọt vào các món như bún chả, bánh cuốn, nước dùng của bún thang, hoặc mắm tôm khi ăn chả cá. Nước mắm cà cuống cũng thường được thêm vào giò lụa hoặc nhân bánh chưng.
Tinh dầu cà cuống hiện đã được sản xuất nhân tạo ở Thái Lan, nhưng không thể so sánh được với hương vị của cà cuống tự nhiên.
Thành ngữ liên quan đến cà cuống
- Cà cuống chết đến đít vẫn cay. Dùng để chỉ những người cứng đầu, bảo thủ, vẫn giữ quan điểm sai lầm dù đã thất bại rõ ràng.
- Cà cuống đem cho người ngạt mũi.
- Hương liệu từ cà cuống
Chú giải
Tài nguyên liên kết
(English)
- Thông tin về cà cuống trên trang Trung tâm Thông tin Công nghệ Sinh học Quốc gia Hoa Kỳ (NCBI).
(Vietnamese)
- Cà cuống Lethocerus indicus trong Từ điển bách khoa Việt Nam
- Cà cuống Lethocerus indicus trên trang SVRVN