Cá độc hay cá có chất độc là tên gọi chung cho các loài cá sở hữu độc tố ở nhiều mức độ khác nhau. Có khoảng 1.200 loài cá độc, bao gồm các loài như cá mặt quỷ, cá sư tử, cá mù làn, cá cóc biển, họ cá Uranoscopidae, Daector, Thalassophryne, trong đó cá nóc thường được biết đến với các vụ ngộ độc thực phẩm nổi tiếng. Tuy nhiên, không chỉ cá nóc mới có độc. Một số loại cá thông dụng như cá trích, cá ngừ, cá chình, và cá mòi đường cũng chứa độc tố.
Tổng quan
Cá biển là nguồn thực phẩm phong phú và bổ dưỡng, được nhiều người yêu thích. Nhưng cũng có không ít loài cá biển có thể gây ngộ độc nghiêm trọng. Trong các loài cá và hải sản độc, thường thì trứng và gan là những bộ phận chứa nhiều độc tố nhất. Một số loài hải sản độc, như cá bống vân mây, lại có độc tố tập trung chủ yếu ở thịt và da. Da của loài cá này có thể giết chết 9-10 người chỉ với 100g. Ngoài ra, việc chạm phải hoặc tiếp xúc với các loài cá độc như cá mặt quỷ cũng có thể gây ngộ độc.
Trên toàn cầu, đã có hơn 80 loài cá nóc được xác định, trong đó ở Việt Nam có khoảng 4 họ, 12 giống và 66 loài, với khoảng 40 loài có khả năng gây độc. Đặc biệt, những loài cá nóc gây độc thường thuộc họ Tetraodontidae. Các chuyên gia cho rằng cá nóc rất dễ bị nhiễm độc trong môi trường ô nhiễm hiện nay. Cá nóc sống ở biển Thái Bình Dương được coi là nguy hiểm hơn, trong khi cá nóc ở biển Đại Tây Dương thường ít độc hơn nhưng vẫn có thể gây tử vong. Tại Việt Nam, phân tích độc tố của 35 loài cá nóc cho thấy 14 loài chưa được phát hiện có độc, trong khi 21 loài chứa độc với mức độ khác nhau: 10 loài có độc tính mạnh, 7 loài độc tính trung bình và 4 loài độc tính nhẹ.
Danh sách 10 loài cá nóc có độc tố mạnh bao gồm: cá nóc chấm cam, cá nóc vằn mắt, cá nóc tro, cá nóc đuôi vằn đen, cá nóc dẹt, cá nóc răng mỏ chim, cá nóc vằn, cá nóc đầu thỏ chấm tròn, cá nóc chuột vân bụng, và cá nóc chấm đen. Có 14 loài chưa được phát hiện độc tố bao gồm: cá nóc nhím chấm đen, cá nóc sừng đuôi dài, cá nóc hòm tròn lưng, cá nóc chóp, cá nóc hòm mũi nhỏ, cá nóc nhím sáu vằn, cá nóc nhím gai thô dài, cá nóc nhím chấm vàng, cá nóc gáo, cá nóc bạc, cá nóc xanh, Lophodiodon calori, Tetrosomus concatenasus, và cá nóc hòm dô trán. Các loại cá nóc phổ biến bao gồm cá nóc nhím, nóc mít, nóc vàng, nóc xanh, và nóc thu, trong đó cá nóc thu còn gọi là cá nóc xanh.
Tại vùng biển Việt Nam, có 22 loài cá nóc độc và hai loài cá nóc nước ngọt mới phát hiện ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, gồm cá nóc chấm xanh (Chelonodon nigroviridis) và cá nóc mắt đỏ (Carinotetraodon lorteti). Các loài cá nóc cực độc tại Việt Nam bao gồm: cá nóc răng mỏ chim, cá nóc tro, cá nóc vằn mặt, cá nóc chấm cam và cá nóc chuột vằn mang. Trong số này, cá nóc chấm cam và cá nóc chuột vằn mang là hai loài độc nhất.
Cá nóc chuột vằn mang (Aronthron immaculatus) có thân hình trứng, vây lưng viền đen và bụng trắng. Mặc dù vẻ ngoài không đáng sợ, nhưng trứng của loài cá này chứa lượng độc tố cực cao, với khả năng giết chết 200 người chỉ với 100g trứng. Hàm lượng độc tố cao nhất xuất hiện từ tháng 4 đến tháng 10. Cá nóc chấm cam (Torquigener gallimaculatus) cũng rất nguy hiểm, với 100g trứng hoặc gan có thể giết chết 60-70 người. Chất độc trong cá nóc là tetrodotoxin, có tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh, gây liệt, ngừng tuần hoàn và hô hấp dẫn đến cái chết nhanh chóng.
Vị trí
Các vị trí chứa độc tố của các loài cá có thể khác nhau và phân bố không đồng đều.
Tiết ngoại
Những loài cá có tuyến tiết chất độc thường có ống dẫn hoặc không dẫn đến các gai trên vây của chúng. Các loài cá này sống ở cả vùng biển sâu và gần bờ, với màu sắc hòa hợp với môi trường xung quanh. Chúng bao gồm cá mập, cá nhám, cá mập hổ, cá nhám gai, cá ngát, cá ngạnh, cá bò, và cá đuối... Những loài cá này có nhiều gai độc trên vây lưng, vây bụng, vây hậu môn, và vây đuôi, cùng với bộ răng sắc nhọn. Ví dụ, khi đuôi của cá đuối va vào cơ thể động vật, gai đuôi có thể gãy và mọc gai mới tại chỗ gãy. Độc tố từ các gai này tác động lên hệ thần kinh và tim mạch, gây liệt cơ và giảm huyết áp. Độc tố từ gai lưng thường ít độc hơn so với gai ở mang cá.
Gai phòng vệ
Cá có độc ở gai phòng vệ thường có các gai nhọn và sắc ở vây lưng, vây bụng, vây ngực và mang. Những loài này sống chủ yếu ở biển, nhưng một số loài cũng sống ở nước ngọt, như cá mó (cá chép hoa Trung Quốc) với 12 gai không đồng đều trên vây lưng, gai thứ 4, 5, 6 dài hơn các gai khác. Khi gai của cá này đâm vào cơ thể, vùng bị đâm sẽ sưng tấy, có mủ và đau nhức, kèm theo sốt. Biến chứng nguy hiểm có thể xảy ra nếu chất độc và dịch nhày từ cơ thể cá thấm vào cơ thể người.
Trứng cá
Nhiều loại cá có trứng chứa độc tố, dẫn đến nhiều vụ ngộ độc nghiêm trọng và tử vong do ăn phải trứng cá. Các loài cá có trứng độc thường có vây nhỏ như cá nhám và cá nóc. Một số loại cá khác như cá nóc báo, cá nóc nhím, cá bẹ, cá trích, cá chình, và cá mòi đường cũng chứa độc tố ở bộ phận sinh dục. Độc tố trong trứng cá nóc và cá nhám rất bền vững với nhiệt độ và hóa chất. Ở Việt Nam, đã xảy ra nhiều vụ ngộ độc nặng do ăn trứng cá nóc, có trường hợp dẫn đến tử vong cả gia đình. Độc tố trong trứng có thể lưu thông trong máu cá, vì vậy huyết thanh từ máu cá cũng rất độc.
Tại các vùng biển dọc bờ Việt Nam, đã phát hiện một số loại cá có trứng độc như:
- Cá nóc: Có thân thon, đầu lớn, thân nhỏ dần về phía đuôi, với răng to và màu da báo, ngoại trừ bụng.
- Cá trích: Có gai mềm dài ở vây lưng (cá trích lầm) hoặc lườn rất thẳng. Vây cá nhọn, không có răng, thịt ngon nhưng trứng và gan rất độc. Trong mùa giao phối, mang cá cũng chứa độc tố, do đó không nên ăn cá vào thời điểm này.
- Cá chình sông và cá chình biển: Độc tố chủ yếu tập trung ở máu và huyết thanh. Cá có đầu nhọn, vây ngực phát triển, không có vây bụng, vây rất nhọn và răng nhỏ sắc. Loại cá này thường sống ở vùng nhiệt đới, cả trong sông và biển, có thể nặng tới 2 kg.
Nội tạng
Cá nóc mắt đỏ, hay còn gọi là cá nóc mít tại miền Tây, có kích thước lớn nhất khoảng 6 cm và thường sống ở các vùng nước có dòng chảy. Độc tố của cá nóc nước ngọt này là tetrodotoxin, tương tự như độc tố của cá nóc biển và một số sinh vật độc khác như so, mực đốm xanh... Vì kích cỡ nhỏ nên người dân thường ăn toàn bộ cá nóc mít, gây nguy cơ ngộ độc cao, đặc biệt là từ cơ quan sinh dục và gan, có thể dẫn đến tử vong.
Ký sinh
Cá bị nhiễm độc từ vi sinh vật ký sinh không tự tiết ra chất độc, nhưng các vi sinh vật ký sinh trên cơ thể cá có độc tố, chẳng hạn như vi khuẩn clostridium botulinum trên cá tầm và cá hồi. Những cá bị nhiễm khuẩn này không dễ phân biệt với cá bình thường, trong khi ngộ độc do botulinum có thể dẫn đến tử vong. Cá ở vùng nhiệt đới rất dễ bị vi sinh vật xâm nhập, đặc biệt khi cá tiết ra nhiều dịch nhờn. Vi sinh vật phát triển mạnh mẽ khi cá chết, làm tăng nguy cơ nhiễm độc. Do đó, việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong chế biến cá biển là vô cùng quan trọng.
Cá nóc có nhiều loài khác nhau, và mức độ độc tố trong từng con cá có thể thay đổi tùy thuộc vào loài, thời điểm và địa điểm. Độc tố của cá nóc, được gọi là Tetrodotoxin, là một trong những chất độc mạnh nhất trong tự nhiên, chỉ đứng sau độc tố của loài ếch độc. Tetrodotoxin tác động vào hệ thần kinh, gây ra tình trạng tê liệt nhanh chóng. Độc tố này không phải do cá nóc tự sản sinh, mà do các vi khuẩn cộng sinh trong gan cá nóc tạo ra.
Chưa xác định
Có những loại cá chứa chất độc mà bản chất của độc tố chưa được xác định rõ ràng. Ví dụ, ở nhiều vùng nhiệt đới, có một số loài cá độc với liều gây tử vong rất nhỏ và chất độc của chúng vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Cá ngừ, một loài cá lớn có thể dài tới 4–5 m và nặng vài trăm cân, là một ví dụ. Cá ngừ có thể bị nhiễm độc do vi sinh vật phân hủy histidin thành histamin, gây ra dị ứng nhẹ cho những người ăn cá biển thường xuyên.
Tại các sông, một số loài cá cũng chứa độc tố trong thịt và nội tạng do chúng ăn phải các thực vật độc như hạt mã tiền hay rong biển độc. Nếu người ăn phải loại cá này, có thể bị ngộ độc hạt mã tiền. Ngoài ra, việc ăn cá biển khô không được chế biến kỹ cũng có thể gây dị ứng và ngộ độc.
Phòng tránh
Để phòng tránh ngộ độc từ cá độc, trước tiên cần phải nhận diện đúng loại cá rồi mới tiến hành làm sạch và chế biến. Đối với những loại cá lạ, nên loại bỏ toàn bộ các cơ quan nội tạng. Không nên tiếc rẻ mà để lại cho động vật khác ăn. Nếu có triệu chứng ngộ độc, hãy nhanh chóng đưa nạn nhân đến cơ sở y tế để được điều trị kịp thời. Trong khi chờ cấp cứu, cố gắng gây nôn để loại bỏ độc tố khỏi cơ thể.
Tại Việt Nam, có tới 85% vụ ngộ độc do cá nóc dẫn đến tử vong. Triệu chứng ngộ độc thường xuất hiện từ 20 phút đến 3 giờ sau khi ăn, và nạn nhân có thể tử vong trong khoảng từ 1 giờ rưỡi đến 8 giờ sau đó. Triệu chứng ban đầu là tê môi và đầu lưỡi, sau đó lan ra tay chân, đau đầu, đau bụng, nhức mỏi toàn thân, nôn mửa dữ dội, khó thở, tím tái, rồi hôn mê và tim ngừng đập. Hiện tại, chưa có thuốc giải độc cho ngộ độc cá nóc, phương pháp điều trị thường áp dụng là rửa dạ dày bằng than hoạt tính để loại bỏ độc tố và truyền dịch tĩnh mạch.
- Cách nhận diện cá độc
- 6 trường hợp ngộ độc sau khi ăn cá nóc mít
- Thông tin về độc tố cá nóc Lưu trữ 2014-07-14 tại Wayback Machine
- Biện pháp phòng tránh ngộ độc cá nóc
Cá | |
---|---|
Về Cá |
|
Giải phẫu học và Sinh lý học |
|
Hệ giác quan |
|
Sinh sản |
|
Di chuyển ở cá |
|
Hành vi khác |
|
Môi trường sống |
|
Các dạng khác |
|
Các nhóm cá |
|
Danh sách |
|