Cá Điêu Hồng | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Liên bộ (superordo) | Labroidei |
Bộ (ordo) | Perciformes
|
Phân bộ (subordo) | Labroidei |
Họ (familia) | Cichlidae |
Chi (genus) | Oreochromis sp. |
Cá hồng điêu hay cá diêu hồng hay còn được gọi là cá rô phi đỏ (danh pháp khoa học: Oreochromis sp.) là một loài cá nước ngọt thuộc họ Cá rô phi (Cichlidae) có nguồn gốc từ quá trình lai tạo. Thuật ngữ điêu hồng hay diêu hồng xuất phát từ tiếng Trung Quốc. Ở Việt Nam, người dân thường gọi cá hồng điêu là cá rô vì chúng có hình dáng và màu sắc tương tự nhau. Cá hồng điêu thực chất là 'con lai' của cá rô phi đen, thịt của hai loài này có cùng thành phần dinh dưỡng. Cá hồng điêu được người Trung Quốc phát hiện và phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long và được nhiều người tiêu dùng ưa chuộng, vì vậy giá bán cao hơn cá rô phi đen.
Nguồn gốc
Cá hồng điêu có nguồn gốc từ Đài Loan. Vào năm 1968, một số cá rô phi cỏ (Oreochromis mosambicus) có màu đỏ do bị đột biến 'bạch tạng' không hoàn toàn đã được phát hiện. Người ta tiếp tục lai giống O. mosambicus đột biến bạch tạng với loài O. niloticus (rô phi vằn) để sinh ra thế hệ F1, trong đó có 30% cá cá thể rô phi màu đỏ (hồng điêu), những cá thể này có những chấm đen hai bên cơ thể gần như đối xứng. Những cá thể F1 đỏ này được tiếp tục nuôi và đã nâng tỷ lệ đỏ lên 80%. Dòng cá này có thể đạt 500 – 600 gam hoặc hơn sau 5 tháng nuôi, và đạt 1.200 gam trong 18 tháng.
Vào năm 1975, một cá rô phi đỏ cái xuất hiện có màu sáng và nặng 1.200 gam trong vòng 18 tháng. Khi lai con này với một con rô phi đỏ khác, người ta đã thu được 4 nhóm: đỏ, nâu, đen, và trắng nhạt. Dòng đỏ và trắng nhạt đã không còn chấm đen nào. Việc lai dòng đỏ này sinh sản đã duy trì được tỷ lệ màu đỏ của F1 cao và màu đỏ ổn định. Do dòng cá này có hình dạng và màu sắc rất giống với cá tráp đỏ ở biển, nên mới có tên là 'Diêu hồng' hay 'Điêu hồng' (tráp đỏ - chính xác phải gọi là 'hồng điêu' theo tiếng Trung Quốc)
Lai tạo cá rô phi màu đỏ (diêu hồng) với dòng O.aureus cho ra F1 có 65% màu đỏ, toàn bộ là đực, 35% màu đen và có khoảng 7 - 8% là cá cái. Cá con đực của F1 phát triển nhanh nhất và có thể đạt cỡ 2 – 3 kg. Khi lai cá diêu hồng với dòng O. urolesis hornorum, sinh ra F1 có 65% màu đỏ, 35% màu đen và toàn bộ là đực. Tại Việt Nam, trường Đại học Cần Thơ đã nhập về một đàn cá diêu hồng từ AIT vào năm 1990 và tiến hành nghiên cứu về sinh học, khả năng chịu đựng của cá diêu hồng đối với độ mặn, pH, nhiệt độ,... Từ năm 1997, cá diêu hồng được nhập khẩu để nuôi thương phẩm. Hiện nay, Việt Nam đã phát triển thành công cá diêu hồng trong điều kiện khí hậu bản địa và được xem là loài cá nuôi có giá trị kinh tế.
Về bản chất, cá diêu hồng không khác gì cá rô phi màu đỏ. Sau khi có dòng cá rô phi đỏ, người Đài Loan đã phát triển mạnh dòng cá này bằng cách xử lý hoặc lai tạo để thu được cá toàn đực. Việc nuôi rô phi đỏ đơn giản chỉ cần đực đã bắt đầu từ Đài Loan và đã được nuôi thử từ những năm 80 của thế kỷ trước. Cá rô phi đỏ từ Đài Loan đã được nhập khẩu vào nhiều quốc gia trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á và được phát triển với các hình thức nuôi thâm canh hoặc quảng canh. Hiện nay, cá diêu hồng được phát triển rộng rãi ở nhiều quốc gia Châu Á với các dòng gen khác nhau qua lai tạo và cách thức nuôi khác nhau.
Đặc điểm sinh học
Các đặc điểm sinh học cơ bản dưới điều kiện nuôi trồng được mô tả như sau:
Môi trường
Cá diêu hồng là loài cá nước ngọt, được tạo thành thông qua quá trình lựa chọn nhân tạo, do đó môi trường sống chủ yếu là nuôi nhốt. Cá thích hợp với nước có độ pH: 6,2–7,5, có thể chịu đựng độ phèn thấp và phát triển tốt trong nước nhẹ mặn 5–12%o. Chúng có thể sống ở mọi tầng nước và có thể nuôi trong ao hoặc lồng bè. Thời gian để cá đạt trọng lượng 800-900g/con chỉ từ 4–4,5 tháng và tỷ lệ hao hụt thấp.
Tập tính ăn
Đây là loài cá ăn tạp, chế độ ăn chủ yếu là thực vật như cám, bắp xay nhỏ, bã đậu, bèo tấm, rau muống và các nguồn dinh dưỡng như mùn bã hữu cơ, tảo, ấu trùng, côn trùng. Điều này làm cho các nguồn thức ăn của cá rất phong phú, bao gồm các loại cám thực phẩm, khoai củ, ngũ cốc,... Cá điêu hồng có thể tiêu thụ nhiều loại thức ăn khác nhau, đây là điều kiện thuận lợi cho việc nuôi thâm canh. Ngoài ra, có thể tận dụng các nguyên liệu phụ từ các nhà máy chế biến thủy sản (như vỏ tôm, râu mực, đầu cá,...) hoặc phân bón từ lò giết mổ gia súc để chế biến thành nguồn thức ăn phụ phù hợp cho cá nuôi. Hơn nữa, có thể sử dụng ốc bươu vàng làm thức ăn tươi sống cho cá.
Trong quá trình nuôi trong ao hoặc bằng lồng, cá ăn thức ăn tự chế từ các phụ phẩm nông nghiệp, chế phẩm thức ăn (nồng độ đạm từ 20 – 25%). Tuy nhiên, do nuôi cá với mật độ cao trong vèo, việc sử dụng thức ăn dạng viên là cần thiết để dễ dàng kiểm soát lượng thức ăn thừa và giảm thiểu sự mất mát thức ăn, đồng thời kiểm soát chất lượng nước ao nuôi. Thức ăn công nghiệp được sản xuất cần có đầy đủ thành phần dinh dưỡng cần thiết như đạm, vitamin, lipid,...
Sinh sản
Cá diêu hồng là loài cá mắn đẻ, có thể sinh sản quanh năm và ấp trứng trong miệng. Có thể ương cá con trong ao hoặc trong chậu, lồng. Khi sinh sản trong ao, cần bổ sung phân bón để tăng nguồn thức ăn tự nhiên cho cá, còn khi sinh sản trong lồng, chậu thì không cần bổ sung phân bón nhưng cần thường xuyên vệ sinh lồng, chậu. Môi trường nuôi chủ yếu là trong ao hoặc lồng bè. Trong ao, sau 1 năm nuôi, cá có thể đạt trọng lượng từ 200–500g/con; khi nuôi trong lồng bè, cá lớn nhanh hơn (đạt trọng lượng 200–500g/con chỉ trong 7–8 tháng) và tỷ lệ hao hụt thấp.
Hiện nay tại Việt Nam có 3 phương pháp chính để có cá diêu hồng đơn tính đực:
- 1. Phương pháp thủ công: Sử dụng phương pháp phân biệt giới tính bằng mắt thường và tách riêng cá đực và cá cái dựa trên các đặc điểm sinh dục: cá đực có 2 lỗ huyệt, cá cái có 3 lỗ. Phương pháp này thường được áp dụng trong các ao nuôi nhỏ, có nhiều người cùng thực hiện đồng thời. Tuy nhiên, hạn chế của phương pháp này là khi cần số lượng giống lớn.
- 2. Phương pháp di truyền: Sử dụng phương pháp lai giống với loài khác (như lai cá đực loài này với cá cái loài khác hoặc ngược lại) sẽ tạo ra cá lai đơn tính hoặc không thụ tinh. Ví dụ:
- * Lai giống giữa cá đực và cá cái
- * Lai giống giữa rô phi cỏ O. mosambicus x rô phi vằn O. niloticus
- * Lai giống giữa rô phi O. hornorum x rô phi đỏ
- * Lai giống giữa rô phi O. aureus x rô phi đỏ
- Người ta còn phát triển rô phi siêu đực (có nhiễm sắc thể YY), khi thả ghép cá siêu đực với cá cái bình thường sẽ sinh ra đàn cá có tỷ lệ đực rất cao (lên đến 100% trong lý thuyết).
- 3. Phương pháp hóa sinh: Sử dụng thức ăn chứa hormone 17a methyltestosterone (viết tắt là MT) hoặc 17a ethynyltestosterone (ET) từ khi cá mới ấp trứng đến 21 ngày tuổi để chuyển đổi giới tính. Công nghệ này đã được áp dụng rộng rãi tại nhiều quốc gia trên thế giới.
- Ở Thái Lan, công nghệ này đã được phát triển từ những năm 90 của thế kỷ trước, trong khi ở Đài Loan đã áp dụng từ những năm 80 của thế kỷ 20. Tại Việt Nam, từ năm 1993 cũng đã áp dụng công nghệ này để chuyển đổi giới tính cho cá diêu hồng trong nhiều cơ sở sản xuất giống cá.
Giá trị kinh tế
Cá ruby là một loại cá có thịt ngọt ngào, thịt cá ruby có màu trắng tinh khiết, mềm mại và không nhiều xương. Đặc biệt là cá có hàm lượng mỡ vừa phải, mang đến hương vị đậm đà. Cá ruby thường được chế biến thành các món ăn hấp dẫn như: Cá ruby chiên giòn, cá ruby hấp sốt chua ngọt, cá ruby nướng muối ớt, lẩu cá ruby, hay được sử dụng trong các món hấp, luộc, chiên, rán, kho khác.
Có một số thông tin cho rằng những con cá ruby béo một cách lạ thường do thức ăn giàu mỡ. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, không chỉ riêng cá mà bất kỳ loài vật nuôi nào khi được nuôi thương mại cũng sẽ phát triển nhanh chóng, mỡ tích tụ trong cơ thể đều là điều bình thường. Mặc dù thịt cá nuôi thương mại không thể so sánh với thịt cá nuôi tự nhiên về chất lượng, nhưng vẫn đảm bảo dinh dưỡng và không chứa các hóa chất độc hại, an toàn cho người tiêu dùng. Hiện nay, cá ruby có giá cả khá phải chăng do nhu cầu nuôi trồng tăng cao.
Cá ruby thường được chăn nuôi chủ yếu tại vùng Nam bộ, tập trung ở đồng bằng sông Cửu Long, nơi có điều kiện thổ nhưỡng và thủy lưu lý tưởng nhất cho loài cá này. Trước đây, người dân thường thả cá ruby vào ao với thức ăn đơn giản như rau củ và cám. Do được nuôi trong môi trường tự nhiên, cá mất khoảng 6-7 tháng để trưởng thành và có trọng lượng không đồng đều. Cá ruby là một trong những loài cá phổ biến nhất và được ưa chuộng tại đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, do chưa có thị trường xuất khẩu, cá ruby chủ yếu tiêu thụ nội địa và chưa mở rộng quy mô nuôi lớn.