Cá kèo | |
---|---|
Cá kèo ở Việt Nam | |
Tình trạng bảo tồn
| |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Vực: | Eukaryota |
Giới: | Animalia |
Ngành: | Chordata |
Lớp: | Actinopterygii
|
Bộ: | Gobiiformes |
Họ: | Oxudercidae |
Chi: | Pseudapocryptes |
Loài: | P. elongatus
|
Danh pháp hai phần | |
Pseudapocryptes elongatus Cuvier, 1816 | |
Các đồng nghĩa | |
|
Cá kèo hay còn được biết đến là cá bống kèo (tên khoa học: Pseudapocryptes elongatus) là một loài cá nước ngọt thuộc họ cá Oxudercidae. Thường được gọi tắt là cá kèo vảy nhỏ, để phân biệt với một loài cá kèo khác, được gọi là cá kèo vảy to (Parapocryptes serperaster).
Đặc điểm
Cá bống kèo có đầu nhỏ hình chóp, mõm hướng xuống với miệng hẹp và nhiều răng, không có râu. Dưới mõm có hai mép râu nhỏ phủ lên môi trên. Mắt nhỏ và tròn nằm gần đỉnh của đầu. Hai vây lưng rời xa nhau. Hai vây bụng dính liền nhau. Vây đuôi dài và nhọn.
Thân cá hình trụ dài, từ từ dẹp về phía đuôi, màu ửng vàng, nửa trên thân có khoảng 7-8 sọc đen hướng lên phía trước, các sọc này rõ nét hơn khi đi về phía đuôi.
Cá bống kèo thường sống trong bùn và đào hang để trú. Chúng di chuyển theo dòng nước và khi tìm được nơi thích hợp, chúng sẽ đào hang để sinh sống. Cá này ăn đa dạng, có ruột ngắn và chủ yếu ăn nhuyễn thể như tôm nhỏ, giun, sinh vật phù du và plankton...
Khu vực sinh sống
Cá kèo phân bố rộng khắp các vùng cửa sông và khu vực triều thủy tại nhiều quốc gia như Ấn Độ, Bangladesh, Campuchia, Đài Loan, Indonesia, Malaysia, Nhật Bản, Singapore, Tahiti, Thái Lan, Trung Quốc và Việt Nam.
Môi trường sống chính của chúng là đáy bùn.
Tại Việt Nam
Cá kèo phổ biến ở miền Tây Nam Bộ, thịt cá mềm, được sử dụng để chế biến thành nhiều món như lẩu cá kèo (cá kèo kho gợt), cá kèo kho tộ (cá kèo kho khô), cá kèo nướng muối ớt, và khô cá kèo.
Tại Việt Nam, cá phân bố chủ yếu trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang, và thích hợp với các ao hồ và kênh mương nước lợ. Cá cũng được nuôi trong các ruộng muối. Cá sinh sản tự nhiên tại các bãi bồi ven biển, mùa sinh sản từ tháng 4 đến tháng 9. Các nghiên cứu về sinh sản nhân tạo của cá trong môi trường nhân tạo vẫn chưa đạt kết quả như mong đợi. Thịt của cá bống kèo rất được ưa chuộng ở Việt Nam vì có hương vị đặc trưng, thịt trắng và giàu dinh dưỡng.