Cá kiếm | |
---|---|
Thời điểm hóa thạch: 33.9–0 triệu năm trước đây TiềnЄ
Є
O
S
D
C
P
T
J
K
Pg
N
| |
Tình trạng bảo tồn | |
Sắp bị đe dọa (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Istiophoriformes |
Họ (familia) | Xiphiidae Swainson, 1839 |
Chi (genus) | Xiphias L., 1758 |
Loài (species) | X. gladius |
Danh pháp hai phần | |
Xiphias gladius L., 1758 | |
Phân bố toàn cầu của cá kiếm (màu xanh). | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cá kiếm, còn gọi là cá mũi kiếm hoặc đôi khi cá đao (danh pháp khoa học:
Cá kiếm là loài duy nhất còn tồn tại thuộc chi Xiphias và họ Xiphiidae. Mặc dù họ Xiphiidae truyền thống được xếp vào bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây chúng được xem là thuộc bộ Cá cờ (Istiophoriformes) trong nhóm Carangimorphariae (= Carangimorpha/Carangaria).
Chi đã tuyệt chủng Protosphyraena từng sống trong kỷ Phấn trắng.
Tên khoa học của cá kiếm (gladius có nghĩa là đấu sĩ) phản ánh hình dạng mỏ nhọn của nó, giống như một thanh kiếm mà cá kiếm sử dụng để đâm xuyên con mồi và bảo vệ mình khỏi những kẻ thù tự nhiên. Cá mập mako vây ngắn là một trong số ít sinh vật biển đủ lớn và nhanh nhẹn để có thể săn đuổi và tiêu diệt cá kiếm trưởng thành.
Mặc dù cá kiếm là động vật máu lạnh, chúng có các cơ quan đặc biệt gần mắt giúp làm ấm mắt và não. Nhiệt độ tại các cơ quan này có thể cao hơn khoảng 10-15°C so với nhiệt độ nước xung quanh. Việc sưởi ấm mắt giúp cải thiện đáng kể thị lực của chúng, từ đó tăng cường khả năng săn mồi. Trong số hơn 29.000 loài cá xương, chỉ có khoảng 22 loài có khả năng làm ấm một số bộ phận cơ thể như vậy, bao gồm cá kiếm, cá maclin, cá ngừ và một số loài cá mập.
Cá kiếm trưởng thành chủ yếu ăn các loại cá sống ngoài biển như cá ngừ, cá nục heo, cá nhồng, cá chuồn, cá thu và các sinh vật sống ở đáy biển như cá meluc và cá quân. Mực cũng là một phần quan trọng trong chế độ ăn của chúng. Cá kiếm trưởng thành gần như không có kẻ thù tự nhiên, tuy nhiên, cá kiếm non dễ bị săn đuổi bởi các loài cá khác.
Phân bố
Cá kiếm phân bố rộng rãi trong các đại dương toàn cầu, từ các vùng biển nhiệt đới, cận nhiệt đới đến ôn đới, nằm giữa các vĩ độ 45° vĩ bắc và 45° vĩ nam. Chúng thường tập trung ở các khu vực nơi các dòng hải lưu chính giao nhau và dọc theo các frông nhiệt độ. Cá kiếm sống chủ yếu ở vùng nước bề mặt với nhiệt độ trên 15°C nhưng cũng có thể di chuyển và săn mồi ở vùng nước lạnh tới 5°C trong thời gian ngắn, nhờ vào các cơ quan trao đổi nhiệt đặc biệt giúp tăng nhiệt độ của não và mắt lên hơn 10–15°C.
Khu vực có mật độ cao của cá kiếm bao gồm phía bắc Hawaii, khu vực chuyển tiếp ở bắc Thái Bình Dương, bờ biển phía tây Hoa Kỳ và México, cũng như miền tây Thái Bình Dương và phía đông Nhật Bản. Các kiểu di cư của cá kiếm chưa được mô tả rõ ràng, mặc dù dữ liệu từ các cá thể gắn thẻ cho thấy có sự di chuyển về phía đông từ khu vực trung tâm Thái Bình Dương và phía bắc Hawaii tới bờ biển phía tây Hoa Kỳ. Các nghiên cứu theo dõi bằng âm thanh cho thấy chúng di chuyển ở các độ sâu lớn hơn vào ban ngày và ở các lớp nước bề mặt vào ban đêm, có thể là để tìm kiếm con mồi hoặc theo dõi các lớp phân tán sâu.
Sinh sản
Cá kiếm cái thường lớn hơn cá kiếm đực, vì vậy hiếm khi thấy cá đực nặng trên 135 kg. Cá cái đạt độ trưởng thành sinh dục vào khoảng 4-5 năm tuổi ở khu vực tây bắc Thái Bình Dương, trong khi cá đực trưởng thành sớm hơn, khoảng 3-4 năm tuổi. Cá kiếm cái đã được quan sát đẻ trứng ở Đại Tây Dương, tại các vùng nước sâu không quá 75 m. Dù có sự khác biệt đáng kể trong các ước tính, số lượng trứng mà cá kiếm cái mang trong cơ quan sinh dục có thể dao động từ 1 triệu đến 29 triệu trứng. Trong mùa sinh sản, cá đực và cái kết đôi thành cặp. Ở bắc Thái Bình Dương, sinh sản tập trung vào các vùng nước có nhiệt độ trên 24°C từ tháng 3 đến tháng 7 hàng năm và diễn ra quanh năm ở khu vực gần xích đạo. Ở những khu vực như biển Caribe, vịnh Mexico, bờ biển Florida và các vùng nước ấm khác gần xích đạo, sinh sản diễn ra quanh năm, trong khi ở các khu vực lạnh hơn, sinh sản chỉ xảy ra vào mùa xuân và mùa hè. Địa Trung Hải, ngoài khơi Italy, được ghi nhận là khu vực có hoạt động sinh sản lớn nhất, với đỉnh điểm vào tháng 7 và tháng 8 khi cá đực thường xuyên săn đuổi cá cái. Trứng của cá kiếm nổi trên bề mặt, có đường kính khoảng 1,6-1,8 mm và phát triển thành phôi trong khoảng 2 ½ ngày sau khi được thụ tinh. Cá kiếm, là thành viên duy nhất trong họ của mình, có kiểu hình dáng cá bột độc đáo. Cá bột dài khoảng 4 mm khi mới nở và sống gần bề mặt với thân hình được tô màu nhạt. Mõm của chúng tương đối ngắn và có các vảy có gai phân biệt. Khi trưởng thành, thân hình của chúng thu hẹp lại. Khi đạt khoảng 12 mm, mỏ bắt đầu dài ra và thấy rõ, nhưng vẫn cân bằng giữa hai phần trên và dưới. Vây lưng kéo dài dọc theo thân. Khi lớn hơn, phần mỏ trên phát triển nhanh hơn phần mỏ dưới, cuối cùng tạo thành mỏ trên dài đặc trưng. Các mẫu cá dài khoảng 23 cm có vây lưng kéo dài toàn thân. Khi lớn hơn, vây lưng phát triển thêm một thùy lớn, sau đó một đoạn ngắn vẫn kéo dài tới cuống đuôi. Khi đạt khoảng 52 cm, vây lưng thứ hai xuất hiện và khi đạt kích thước 150 cm, vây lưng thứ nhất chỉ còn phần thùy lớn.
Ẩm thực
Cá kiếm là một món ăn phổ biến trong ẩm thực. Vì là loài cá lớn, thịt cá kiếm thường được bán dưới dạng các miếng lớn và thường được chế biến bằng cách nướng. Màu thịt của cá kiếm có thể thay đổi tùy theo chế độ ăn của chúng, với cá được đánh bắt ở bờ biển phía đông Bắc Mỹ thường có màu hồng hơn.
Tuy nhiên, nhiều nguồn thông tin, bao gồm cả Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), đã cảnh báo về nguy cơ ngộ độc do hàm lượng metyl thủy ngân cao trong thịt cá kiếm. FDA khuyến cáo rằng phụ nữ mang thai hoặc dự định mang thai không nên tiêu thụ quá một khẩu phần khoảng 200 g (7 ounce) mỗi tháng; các đối tượng khác không nên ăn quá một khẩu phần như vậy mỗi tuần.
Tình trạng bảo tồn
Do hoạt động đánh bắt cá phục vụ cho mục đích thương mại, trọng lượng trung bình của cá kiếm đã giảm từ 118 kg (260 pound) vào năm 1960 xuống còn 41 kg (90 pound) vào năm 1996. Đến năm 2006, số lượng cá kiếm ở Bắc Đại Tây Dương đã giảm hơn 50% so với khoảng 20 năm trước, và các ngư dân tại Hoa Kỳ đã khai thác khoảng 33% sản lượng cá kiếm toàn cầu. Sự suy giảm này chủ yếu do sự ưa chuộng loài cá này trong ẩm thực hải sản. Nguyên nhân chính bao gồm việc đánh bắt quá mức, thiếu quy định nghiêm ngặt về thời gian và kích thước cá được phép đánh bắt, cùng với sự thiếu vắng quy định bảo vệ cá sinh sản và khu vực nuôi dưỡng cá bột. Cá kiếm hiện đã được đưa vào nhiều danh sách các loài đang bị đe dọa, bao gồm cả danh sách của Hiệp hội Audubon.
Liên kết ngoài
- Dữ liệu về Xiphiidae tại Wikispecies
- Tư liệu về Xiphiidae tại Wikimedia Commons
- Cá kiếm Lưu trữ 2015-08-09 tại Wayback Machine
- Michael Hopkin (2005): Cá kiếm làm ấm mắt để cải thiện thị lực. Tạp chí Nature, ngày 10 tháng 1 năm 2005
- Fritsches Kerstin A., Brill Richard W. và Warrant Eric J. (2005): Sưởi ấm mắt để cải thiện thị lực ở cá kiếm Lưu trữ 2006-07-09 tại Wayback Machine. Current Biology 15, 55−58
- FDA cảnh báo người tiêu dùng: Thủy ngân trong cá - Nguyên nhân cần lo ngại?
- 'Xiphias gladius'. FishBase. Chủ biên Ranier Froese và Daniel Pauly. Phiên bản tháng 10 năm 2005. N.p.: FishBase, 2005.
Nhóm các loài thủy sản thương mại thiết yếu | ||||||||||||||||||
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Tự nhiên |
| |||||||||||||||||
Nuôi | Bộ Cá chép (Cá mè hoa, Cá chép, Cá giếc, Cá trắm cỏ, Cá mè trắng) · Cá da trơn · Tôm he nước ngọt · Trai · Sò · Cá hồi (Đại Tây Dương, hương, coho, chinook) · Cá rô phi · Tôm | |||||||||||||||||
Ngư nghiệp · Sản lượng cá thế giới · Từ điển thủy sản |
Thẻ nhận dạng đơn vị phân loại |
|
---|