Cá liệt lớn | |
---|---|
Tình trạng bảo tồn | |
Ít quan tâm (IUCN 3.1) | |
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo) | Chaetodontiformes |
Họ (familia) | Leiognathidae |
Chi (genus) | Leiognathus |
Loài (species) | L. equula |
Danh pháp hai phần | |
Leiognathus equula
(Forsskål, 1775) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cá liệt khổng lồ (Danh pháp khoa học: Leiognathus equula), còn được biết đến với tên gọi cá ngãng ngựa, thuộc họ Cá liệt.
Phạm vi phân bố
Loài cá này xuất hiện chủ yếu ở Ấn Độ Dương và Tây Thái Bình Dương. Chúng có mặt tại Hồng Hải, Vịnh Ba Tư, vùng duyên hải Đông Phi (bao gồm cả Reunion, Comoros, Seychelles, Madagascar và Mauritius), mở rộng về phía đông tới Fiji, về phía bắc tới quần đảo Lưu Cầu, và về phía nam tới Australia. Ở Việt Nam, cá phân bố chủ yếu ở vịnh Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ. Đây là một trong những loài cá quan trọng về kinh tế và được khai thác quanh năm.
Loài cá này có thể sống trong môi trường nước ngọt (khu vực cửa sông), nước lợ và nước mặn. Môi trường sống chủ yếu là vùng biển ven bờ, thường gặp ở cửa sông và các khu vực bờ có nhiều bùn, đặc biệt là các khu rừng ngập mặn. Cá trưởng thành sinh sống ở vùng nước biển ven bờ, thường ở các đáy mềm với độ sâu từ 10-70 mét, nhưng cũng có thể thấy ở độ sâu lên đến 200 mét. Cá con thường sống ở rừng ngập mặn cửa sông và các lạch nước có thủy triều, thỉnh thoảng xâm nhập vào vùng hạ lưu sông nước ngọt. Cá trưởng thành thường di chuyển thành đàn và thường xuyên vào các vùng nước ngọt của sông.
Đặc điểm
Cá liệt lớn, đúng như tên gọi, là loài cá lớn nhất trong họ Leiognathidae, với chiều dài tối đa đạt 280 mm, thường gặp từ 120–180 mm. Vây lưng có 8 tia gai và 15-16 tia mềm. Vây hậu môn có 3 tia gai và 14-15 tia mềm. Loài này dễ nhận diện bởi thân rất sâu, ép dẹp, lưng gồ lên; chiều sâu cơ thể chiếm 53-59% chiều dài tiêu chuẩn (SL); miệng hướng xuống khi duỗi dài ra; lược mang ngắn và nhiều thịt, nhỏ hơn 1/2 chiều dài của phiến mang tương ứng, tổng số lược mang trên cung mang thứ nhất từ 18-22; đầu và ngực không có vảy; vảy hình ống trên đường bên từ 61-66. Màu sắc của cá trưởng thành có lưng ánh xám, bụng bạc và nhiều sọc mờ song song gần nhau trên lưng; thường có phần lõm hình yên ngựa màu nâu sẫm trên cuống đuôi; nách vây ngực màu xám đến đen; mép vây lưng mềm màu đen; cả hai thùy vây đuôi có mép rộng tối màu; vây ngực, vây bụng và vây hậu môn từ không màu đến ánh vàng. Cá non (dài tổng cộng 5–7 cm) có các vạch dọc màu xám, mỏng, gần nhau, tỏa xuống từ lưng đến gần giữa thân; màng giữa các tia gai vây hậu môn có màu vàng dễ thấy; mép sau của các thùy vây đuôi màu vàng nhạt và tối; các vây khác trong suốt như thủy tinh; mõm có chấm đen.
Cá hoạt động vào ban ngày. Thức ăn của nó bao gồm giun nhiều tơ, động vật giáp xác nhỏ, cá nhỏ và giun.
Sử dụng
Là một loài cá thực phẩm quan trọng ở vùng nhiệt đới. Đánh bắt gần đáy bằng các phương pháp như lưới kéo đáy, lưới giăng, lưới đẩy, lưới chìm và lưới vây ven bãi biển. Ở vùng biển Ấn Độ, cá tập trung gần mặt nước vào tháng 4-5 và được đánh bắt bằng lưới rê trôi. Các mẫu cá lớn hơn được phân loại để làm thực phẩm cho người và bán trên thị trường dưới dạng cá tươi, cá khô, cá ướp muối, trong khi cá dư thừa được sử dụng làm thức ăn cho gia cầm, chuyển thành bột cá hoặc bị loại bỏ. Trong ngành thủy sản nước nông, ven biển, nửa thương mại của Tanzania, L. equula là loài cá liệt quan trọng thứ hai (và phổ biến). Malaysia ghi nhận lượng đánh bắt cá liệt lớn nhất vào năm 2010 với hơn 2.000 tấn. Tuy nhiên, sản lượng này không được báo cáo theo loài mà theo nhóm.
- Thông tin về Leiognathus equula trên Wikispecies
- Tài liệu liên quan đến Leiognathus equula trên Wikimedia Commons
Thẻ nhận dạng đơn vị phân loại | |
---|---|
Leiognathus equula | |
Scomber equula |