Cá lóc là một tên gọi thông dụng tại Việt Nam, dùng chung cho một số loài cá thuộc bộ Cá vược, trong đó có nhiều loài thuộc về Chi Cá lóc. Ở Việt Nam, thuật ngữ cá lóc còn được hiểu là cá lóc đồng, một loài cá phổ biến tại quốc gia này, người miền Tây thường phát âm cá lóc chệch thành cá gô.
Một số loài được gọi là cá lóc gồm:
Một số loài
Cá pecca châu Âu
Cá pecca châu Âu (Perca fluviatilis) là một loài cá săn mồi được tìm thấy ở châu Âu và châu Á. Trong một số khu vực được gọi là pecca vây đỏ hoặc cá pecca Anh, và nó thường được gọi đơn giản là cá pecca. Loài này là một mỏ đá phổ biến cho môn câu cá và đã được du nhập rộng rãi vượt ra ngoài khu vực bản địa của nó, vào nước Úc, New Zealand và Nam Phi. Chúng đã gây ra thiệt hại đáng kể cho các quần thể cá bản địa ở Úc. Cá pecca châu Âu cá rô màu xanh lục với, vây và cuối đuôi đỏ. Chúng có 5-9 thanh tối dọc trên các cạnh.
Cá pecca châu Âu có thể khác nhau rất nhiều về kích thước giữa các vùng nước. Tuổi thọ 22 năm, và lớn hơn cá pecca thường có kích thước lớn hơn con trưởng thành có kích thước trung bình rất nhiều, chiều dài tối đa được ghi nhận là 60 cm (24 in). Kỷ lục ở Anh là 2,8 kg (6 lb 2 oz), nhưng chúng phát triển lớn hơn trong lục địa châu Âu hơn so với ở Anh, và nhiều như 9 kg (20 lb) ở Úc. Tại thời điểm tháng 11 năm 2010, kỷ lục chính thức của tất cả các kỷ lục thế giới đứng ở mức 1,5 kg (3 lb 5 oz) mặc dù kỷ lục cá thể từ các khu vực khác nhau ghi lại con cá lớn hơn.
Cá pecca vàng
Cá pecca vàng (Perca flavescens) là một loài cá rô được tìm thấy ở Hoa Kỳ và Canada, nơi nó thường được gọi bằng tên ngắn là cá pecca. Cá pecca vàng giống cá pecca châu Âu, nhưng nhạt màu và màu vàng hơn, với ít màu đỏ ở vây. Chúng có 6-8 thanh djc màu tối ở hai bên. Pecca vàng có kích thước có thể khác nhau rất nhiều giữa các vùng nước, nhưng con trưởng thành thường dài từ 10-25,5 mm.
Tuổi thọ có thể lên tới 11 năm, lớn hơn so với các loài pecca vàng khác, thường có kích thước lớn hơn trung bình, với chiều dài tối đa ghi nhận là 21,0 inch (53,3 cm) và trọng lượng cao nhất ghi nhận được là 4,3 lb (1,91 kg). Các con pecca vàng trưởng thành sinh sản khi từ 1 đến 3 năm tuổi đối với đực và từ 2 đến 3 năm tuổi đối với cái. Chúng sinh sản vào cuối tháng Tư hoặc đầu tháng Năm, cái đẻ từ 10.000 đến 40.000 trứng trên cỏ, nhánh cây hoặc cây bụi ngập nước. Trứng nở sau 11-27 ngày, phụ thuộc vào nhiệt độ và điều kiện thời tiết khác.
Cá rô đồng
Cá rô đồng, được gọi đơn giản là cá rô (Anabas testudineus), là loài cá sống trong môi trường nước ngọt, nước lợ. Chúng có thịt ngon, béo, dai và thơm, có giá trị thương mại cao mặc dù có nhiều xương. Kích thước lớn nhất của chúng có thể lên đến 250 mm. Đây là loài động vật ăn tạp, có thể ăn các loài động vật thân mềm, cá con và thực vật, bao gồm cả cỏ. Chúng có thể ăn các chất hữu cơ và vô cơ có trong nước, và khi đói chúng có thể ăn thịt nhau. Do đó, kích thước phân biệt là rất quan trọng. Cá rô đồng phổ biến ở các đồng ruộng khu vực miền Bắc.
Cá rô có màu xanh từ xám đến nhạt, bụng thường sáng hơn lưng, có một chấm màu thẫm ở đuôi và một chấm khác ở sau mang. Các lớp vảy và vây thường có màu sáng. Cá có nắp mang hình răng cưa. Chúng có cơ quan hô hấp đặc biệt là mang phụ dưới nắp mang, giúp chúng hít oxy trong không khí. Chúng có răng sắc, chắc, xếp thành hàng trên hai hàm, với những chiếc răng nhỏ nhọn trên hai hàm: răng ở giữa lớn hơn hai bên và răng trên xương hàm dưới lớn hơn.
Cá rô Tổng Trường là loài cá rô sống trong môi trường hang động ngập nước ở vùng đất Hoa Lư, Ninh Bình. Được gọi là cá rô Tổng Trường vì nó được phát hiện sống trong các hang động ngập nước của Tổng Trường Yên, nay là phần của di sản thế giới Tràng An ở huyện Hoa Lư. Thịt của cá rô Tổng Trường béo, thơm, dai và ngon, là món đặc sản ẩm thực nổi tiếng của Ninh Bình. Cá rô Tổng Trường có hình dạng giống cá rô đồng nhưng đã có một số biến dị do sống lâu năm trong môi trường đầm lầy, hang động ở Hoa Lư.
Cá rô đầu vuông
Cá rô đầu vuông vẫn thuộc loài cá rô thông thường. Dựa vào phân tích hình thái học và DNA, xác định rằng cá rô đầu vuông có sự tương đồng lên đến 99% với cá rô thông thường trong chuỗi DNA. Vì vậy từ góc độ khoa học, không có sự khác biệt đáng kể giữa cá rô đầu vuông và cá rô thông thường.
Mặc dù vậy, về mặt hình thái học, có thể dễ dàng phân biệt cá rô đầu vuông và cá rô thông thường. Khi cá trưởng thành, phần đầu cá có hình vuông, với một chấm đen ở vùng mang và đuôi cá. Thịt của cá rô đầu vuông cũng thơm ngon, béo ngậy và bổ dưỡng như cá rô thông thường. Do điều kiện nuôi cấy và chăm sóc kỹ lưỡng, cá rô đầu vuông có thể lớn nhanh chóng, đạt từ 500 đến 800 gram một con sau nửa năm.
Giải phẫu
Cơ thể của cá rô có hình dáng dài và tròn. Chúng có vảy 'xù xì' hoặc hình lược. Phía trước của đầu có hàm trên và hàm dưới, một cặp lỗ mũi và hai mắt không có nắp. Phía sau của đầu là nắp mang, bảo vệ mang cá và hệ thống mang bên trong, rất nhạy cảm với các rung động trong nước. Thận của cá rô chạy dọc theo xương sống từ đầu đến đuôi và mang. Cá rô có cặp vây ngực và vây bụng, cùng hai vây lưng, vây thứ nhất có gai và vây thứ hai mềm. Hai vây này có thể tách rời hoặc nối liền.
Khác
- Cá rô sông Hằng (Anabas cobojius) là một loài cá rô xuất hiện ở Ấn Độ và Bangladesh, sống trong vũng nước đọng. Loài này có chiều dài lên đến 30 cm (12 in) và có giá trị thương mại như một loài cá thực phẩm trong khu vực tự nhiên của nó.
- Cá rô Cape (Sandelia capensis) là loài cá thuộc họ Anabantidae, đặc hữu của Nam Phi.