Cá dưa xám | |
---|---|
Phân loại khoa học | |
Giới (regnum) | Animalia |
Ngành (phylum) | Chordata |
Lớp (class) | Actinopterygii |
Bộ (ordo)
| Anguilliformes |
Họ (familia) | Muraenesocidae |
Chi (genus) | Muraenesox |
Loài (species) | M. cinereus |
Danh pháp hai phần | |
Muraenesox cinereus (Forsskål, 1775) | |
Danh pháp đồng nghĩa | |
|
Cá dưa xám, hay cá lạc, cá lạc bạc hay cá lạc ù hay còn gọi là mạn lệ ngư, (danh pháp hai phần: Muraenesox cinereous) là một loài cá biển thuộc họ cá Muraenesocidae, phân bố ở vùng biển Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Ở Việt Nam, cá lạc phân bố ở vùng biển phía Nam như Phú Yên, Đà Nẵng.
Đặc điểm sinh học
Cá lạc có mỏ dài, mình tròn, thân hình ống dài, hình dạng giống cá chình, phía thân trước tiết diện ngang gần như tròn, phần thân sau dẹt về một bên. Thân cá trơn, không vẩy. Khoảng cách giữa 2 lỗ mũi khá rộng. Mõm ngắn, hình nón hơi nhô ra. Mắt lớn, đường kính của mắt có thể bằng 2 đến 2,5 lần chiều dài của mõm.
Miệng cá rộng, hàm trên kéo dài vượt quá mắt. Hàng răng nanh ngoài cùng của hàm dưới dài, hướng thẳng lên trên. Răng nanh nằm trên xương khẩu cái. Lỗ mang mở rộng nằm dưới vây ngực. Vây lưng và vây bụng liền nhau tạo thành cả vây đuôi. Vây ngực phát triển. Toàn thân màu xám, bụng trắng bạc hay ở lưng có màu xám lợt, bụng có ánh vàng. Cá dài trung bình từ 1,5 đến 2m.
Về khối lượng, mỗi con cá lạc con to cỡ trung bình bằng bắp chân người lớn, con nhỏ cỡ chừng bằng ngón chân người lớn, nặng khoảng vài ba ký. Cá thường sinh sống ở tầng nước sâu ngoài biển. Loại cá này rất nhiều xương trong thịt. Cá lạc có hai loại, loại cá lạc mình có màu vàng gọi là cá lạc vàng, ngoài ra còn có cá lạc ù mình màu xám trắng, thịt cá lạc có màu trắng, dai chắc.
Giá trị
Theo y học cổ truyền, cá lạc có tên là mạn lệ ngư, vị ngọt, tính bình, không độc. Công dụng trừ các thứ độc, chữa phong lở, tê thấp, đau lưng, mỏi chân, sát trùng lao. Còn theo các nhà dinh dưỡng, cá lạc rất bổ dưỡng, chứa nhiều chất béo, calcium, sắt và Vitamin A. Cá lạc được chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn như: nướng, chiên, hấp, kho dưa cải, nấu canh chua, cá lạc nấu cà ri, cá lạc nướng sả. Trong đó, cá lạc nấu canh chua với lá dít được xem là món ngon. Bong bóng cá Dưa được xem là một món ngon, rất quý.
Tại Nhật, cá Dưa hay Hamo theo truyền thống là một nguồn thực phẩm quý và được dùng trong nhiều món ăn đặc biệt. Ăn cá Dưa có thể ngừa được kiệt sức do trời nóng. Hằng năm, người Nhật có 2 mùa ăn cá Dưa: Mùa thứ nhất vào mùa Hè, ngay sau khi mùa mưa tại Nhật vừa dứt. Cá được xem là món ăn chính, bắt buộc phải có trong các Ngày Lễ hội Gion (còn gọi là Hamo) tại Kyoto và Lễ hội Tenjin tại Osaka. Mùa thứ nhì vào mùa Thu, lúc này cá béo hơn và được gọi là Hamo vàng (matsutake hamo).
Theo quan điểm của người Nhật, cá Dưa được xem là một loại thực phẩm rất giàu dinh dưỡng, có chứa nhiều chất béo, canxi, sắt và vitamin A, tuy nhiên lại có rất nhiều xương: một con cá Dưa dài 1.1 m có đến 3500 xương; và những xương này thuộc loại 'dăm', nhỏ như kim khâu. Cá Dưa có hương vị rất đặc biệt, thơm ngon, thịt trắng của nó rất tinh khiết, và để chế biến món cá này đòi hỏi sự tinh tế của những đầu bếp chuyên nghiệp. Xương dăm của cá nằm khá gần lớp da nên không thể rút hết, do đó phải thái cá thành từng lát mỏng: một miếng cá nhỏ kích thước 26 x 3 cm phải được thái thành 25 miếng. Hamo-chiri là món cá chiên nhanh trong nước sôi và thường được ăn kèm với miso, hoặc ăn cùng với mận đen (ume) muối.
Cá được bắt vào ban đêm và cũng được nuôi tại các trại thủy sản ở Nhật Bản. Tổng sản lượng bắt được, theo FAO năm 2007, ước tính là hơn 300 nghìn tấn, trong đó Trung Quốc chiếm khoảng 200 nghìn tấn, Đài Loan là 9 nghìn tấn, và Malaysia là 1.3 nghìn tấn. Ngư dân thường chuẩn bị xuồng ra khơi khi mặt trời vừa khuất dạng xuống biển. Cá Lạt thường sống ở vùng nước sâu, chúng ăn cá đối làm mồi, cách câu cá Lạt cũng tương tự như câu cá lóc trong các ao lúa. Cá Lạt thuộc loại ăn thịt nên khi cắn mồi, chúng thường nuốt mồi ngay vào bụng.